Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 80

Tổng truy cập: 1370855

THẦY LÀ CÂY NHO CÁC CON LÀ CÀNH

Thầy là cây nho các con là cành

(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

 

Bài đọc thứ nhất của sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại việc thánh Phaolô được Chúa Giêsu kêu gọi trở lại với Giáo Hội trên con đường đi Emmau để bách hại đạo Chúa. Chúa Giêsu đã biến cành cây (Phaolô) cho hợp với thân cây (Chúa Giêsu) thì sẽ biến thành cây sinh nhiều hoa trái. Từ con người phản nghịch trở thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.

Tại Phi Châu, có ông già vào thăm cha, thấy trong nhà cha có cây đèn đốt ngược (Bóng điện). Ông xin cha một cái. Cha cho ông cái bóng điện hư. Đưa về ông cột dây vào rồi treo lên trần nhà. Không thấy bóng sáng như ở nhà cha. Ông hỏi cha, cha cho biết: Nếu muốn bóng sáng thì phải có điện chuyển qua dây vào bóng đèn mới sáng được. Cũng như ông muốn là người có đạo, sống sốt sáng là nhờ có ơn Chúa thông qua ông khi chịu phép Rửa tội, ông mới trở nên người Công Giao, mới sống đạo, mới biết Chúa, mới được đầy sống sáng trong đức tin.

Muốn cho sinh hoa kết trái, cành nho phải hợp với thân cây nho, thân cây truyền sức sống bổ dưỡng để cành sinh hoa kết quả được. Về mặt tinh thần cũng vậy, muốn có sự sống là Chúa Kitô, phải hiệp thông với Chúa là nguồn, bằng cách năng chịu các Phép Bí Tích, năng đọc Sách Thánh, năng lãnh nhận lời hằng sống, năng xem lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa. Cũng như tấm bánh miến, phải do hàng trăm hạt lúa miến kết hợp lại, biến thành Mình Thánh Chúa. Cũng như giọt rượu nho do trăm ngàn trái nho ép thành chất rượu lại phải được truyền biến thành Máu Thánh Chúa.

Đừng như cây bầu, cây bí có nhánh lá xum xuê, có nhánh bị sâu đục chui vào thân, bề ngoài lành lặn nhưng bên trong sâu ăn làm dây leo bị khô héo. Giáo Hội là nhóm người tụ họp với nhau để cử hành các Bí Tích, có Chúa ở giữa. Giáo Hội cũng là nhóm người tụ họp nhau để cầu nguyện “Ở đâu có hai ba người tụ họp mà cầu nguyện thì Chúa ở giữa”. Giáo Hội cũng là nhóm người hợp nhau để làm việc bác ái, việc thiện “Ai làm cho anh em tức là làm cho chính Chúa”.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn kết hợp với Ngài, bằng cách tụ họp nhau nhân danh Ngài, bằng cách lắng nghe lời Ngài, bằng cách chia sẻ Mình và Máu Ngài mỗi khi có thể, để chúng con liên kết với Ngài là thân cây nho, hầu chúng con được lãnh nhận hoa trái dồi dào.

 

 

 

 

 

77. Cây nho thật – Lm. FX. Vũ Phan Long

 

1.- Ngữ cảnh

Các chương 15 và 16 không ăn khớp với ngữ cảnh, bởi vì làm thế nào có thể liên kết chúng với câu cuối cùng của ch. 14: “Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”? Nhiều nhà chú giải cho rằng sau khi đã rời bàn ăn, Đức Giêsu lại tiếp tục trò chuyện với các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly hoặc trong một phòng kế cận (Maldonat, Schanz, Knabenbauer, Calmes, Tillman). Nhưng người ta không biện minh được là làm thế nào, sau một hiệu lệnh ra đi quá rõ như thế, mà lại còn có một cuộc trò chuyện khá dài (86 câu). Do đó, có những học giả khác nói rằng Đức Giêsu vừa đi vừa nói chuyện (Godet, Fillion, Wescott, Swete). Tuy nhiên, giả thiết này chỉ hợp lý nếu ở miền quê, chứ không phải trong những con phố nhỏ hẹp như trong thành Giêrusalem, mà người ta phải đi qua trước khi đến thung lũng Kítrôn. Đã thế, ngươi ta chỉ đến đó vào đầu ch. 18!

Hai giả thuyết này cũng như giả thuyết về một bố cục khác cho các ch. 13­17 đều không đầy đủ và không được biện minh bởi truyền thống các thủ bản. Hợp lý nhất là giả thuyết cho rằng các ch. 15 và 16 là một phần do chính tác giả thêm vào sau (Lepin, Durand, Lagrange, Lebreton, Huby). Điều này hợp lý cả về nguyên tắc cả về thực tế: vì tác giả kể lại các kỷ niệm đã xa rồi trong thời gian, ngài cứ viết rồi lại bổ sung; do đó, bản văn có nhiều tầng soạn thảo.

Để hỗ trợ cho nhận định này, chúng ta ghi nhận rằng các ch. 15 và 16 trình bày ba đề tài chính: sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu và với nhau dưới hình ảnh cây nho (15,1-17); sự thù ghét của thế gian đối với các môn đệ và loan báo những bách hại (15,18­16,4a); Đức Giêsu ra đi và ban các lời hứa cho thời gian Người vắng mặt (16,4b-33). Phần cuối cùng này có một đối tượng giống hết ch. 14. Như vậy, đây là một bổ túc cho các kỷ niệm đã được bài diễn từ ghi lại.

Về phân đoạn 15,1-17 cũng thế. Nếu giáo lý về sự hiệp nhất của Chúa Cha với Chúa Con không triển khai rõ bằng trong ch. 14, thì đề tài sự kết hợp của Đức Giêsu với các môn đệ, được triển khai bằng những từ ngữ rất sống động, và màu sắc Thánh Thể do sự lặp lại liên tục các từ ngữ như karpos, “trái” (8 lần), agapê, “tình yêu” (4 lần), mênô, “ở lại” theo nghĩa thần bí (11 lần), phải được liên kết với bài Diễn từ Thánh Thể (6,27-56), dường như cho thấy rằng bản văn có lẽ đã được nói trước ch. 14, nhưng trong quan hệ chặt chẽ với việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể.

Còn khối 15,18­16,4a, ngay ở đểm nói về vai trò của Đấng Bảo Trợ (15,26), tương ứng với lời loan báo các bách hại của Bài Diễn từ cánh chung theo các TMNL (Mt 24,1-23 //) và chứa những lời thuộc về các hoàn cảnh khác. Hẳn là tác giả TM IV đã thêm các lời đó vào bài diễn từ sau Tiệc Ly để làm trọn phần giáo huấn các môn đệ, giống như Mt đã gom vào Bài Giảng trên núi những giáo huấn khác nhau của Đức Giêsu liên hệ đến luật sống Kitô hữu (Guillemette).

2.- Bố cục

Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em thương yêu nhau”: 15,12.17).

Riêng phân đoạn có bố cục đồng tâm như sau:

A = 1-2

B = 3-4a

C = 4bcd

D = 5

C’= 6

B’= 7

A’= 8

3.- Vài điểm chú giải

– người trồng nho (1): Dịch sát geôrgos là người đào xới đất đai, người làm vườn.

– chặt đi … cắt tỉa (2): Trong tiếng Hy Lạp, có một kiểu chơi chữ ở đây do hai động từ có cùng âm điệu (paranomasia): airein (chặt) và kathairein (tỉa). Tuy hai động từ được dùng ở đây cho việc chăm sóc cây nho, dường như airein với nghĩa là “lấy đi, mang đi (= giết) và kathairein với nghĩa là “thanh luyện” được chọn ở đây không phải vì phù hợp với việc trồng nho, nhưng vì phù hợp cho những con người, đó là Đức Giêsu và các môn đệ.

– cắt tỉa… được thanh sạch (2-3): Ở đây cũng có một kiểu chơi chữ giữa katharei, “Người cắt tỉa” và katharoi, “được thanh sạch”.

– lời (3): Đây là toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu (x. Ga 5,38; 1 Ga 2,24). Chính giáo huấn của Người, một khi được lắng nghe và đón nhận, làm cho các môn đệ nên thanh sạch. Chính lòng tin gắn bó với lời giáo huấn của Đức Giêsu đã liên kết họ với cây nho và làm cho họ nên thanh sạch.

– ở lại (4): Động từ “ở lại” (menô) là động từ chính yếu của ch. 15 và của cả TM IV. “Ở lại” có nghĩa là bám chắc nhưng năng động vào những gì đã được ban cho trong quá khứ, nắm lấy nó trong hiện tại và nhìn tới tương lai theo chiều hướng của nó. Có thể theo nghĩa này mà hiểu các câu nói về người tín hữu phải “ở lại” trong lời (8,31), trong tình yêu (15,9-10), trong ánh sáng (1 Ga 2,10), trong Thiên Chúa (1 Ga 4,13-16). Còn với Thiên Chúa hoặc với Đức Giêsu, “ở lại” có nghĩa là bền bỉ ban ơn cứu độ cho các tín hữu (x. 1 Ga 2,27; 3,9.15; 4,12-15). Do trung thành, người tín hữu gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu Kitô và thấy rằng nơi Người, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho loài người mãi mãi. Sự trung thanh này cũng hàm ý một sự tương giao năng động và sự hiểu biết tiệm tiến.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Cho tới đây, trong bài Diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã đặc biệt cho thấy là Người không để các môn đệ phải cô đơn và đã nói những gì họ phải làm để ở lại kết hợp với Người theo nhiều cách. Bây giờ Người lưu ý họ về sự kiện là, sau khi Người đã được nâng lên, họ sẽ phải mang hoa trái, sẽ phải có một nhiệm vụ truyền giáo. Người cho họ biết họ cần gì để chu toàn được nhiệm vụ này.

Cấu trúc của bản văn 15,1-8 với trung tâm là a. 5 (D): “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Bản văn nêu bật đề tài trung tâm là nhu cầu hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ để sinh nhiều hoa trái. Quả thật Dụ ngôn Cây nho thật tập trung vào việc mang hoa trái (15,2.4.5.8.16). Chỉ có trong hai đoạn khác, Đức Giêsu mới cũng nói đến hoa trái, đó là trong những đối thoại với các môn đệ. Khi Người nhấn mạnh trên sự kiện là được người Samari đón tiếp và nhận biết, Người đã nói với các môn đệ: “Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi (= trái) để được sống muôn đời […]. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra” (4,36.38). Khi lần đầu tiên một vài người Hy-lạp đến tìm Người, Người đã giải thích cho các môn đệ: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12,24; x. 15,5.8). Trong cả hai trường hợp, bản văn nhắm đến sự kiện là cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu tăng trưởng và đi xa hơn vòng các môn đệ hiện thời. Đức Giêsu là hạt lúa chết đi để sinh nhiều hoa trái. Nhưng Đức Giêsu cũng là cây nho mà các cành phải mang những trái tốt tươi. Trong dụ ngôn đầu, Người nói đến tầm quan trọng của cái chết của Người để lôi kéo các tín hữu đến với Người (x. 12,32); trong dụ ngôn thứ hai, Người cho thấy hoa trái của các môn đệ Người hệ tại điều gì.

Nói rằng bản văn nhấn mạnh trên việc “mang hoa trái”, chúng ta thấy điều này qua ba lần lặp lại cụm từ “nhiều hoa trái” (karpon pleiona / polyn pherein) ở đầu (c. 2), ở giữa (c. 5) và ở cuối (c. 8), tức là ở yếu tố đầu, yếu tố trung tâm và yếu tố cuối của cấu trúc đồng tâm (x. cả “sinh [mang] hoa trái” ở cc. 2ab.4b). Để sinh hoa trái, cần phải kết hợp (mênô) với Đức Giêsu: điều này được khẳng định thật rõ ràng bằng hai cách: cách tích cực (“ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”: c. 4a; “ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy”: c. 5b; “nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em”: c. 7ab) và cách tiêu cực (“nếu không ơ lại [gắn liền] với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy”: c. 4cd; “ai không ở lại trong Thầy”: c. 6a). Hệ luận của việc không ở lại trong Đức Giêsu-cây nho, đó là cành ấy không sinh hoa trái (c. 4bc) và sẽ bị chặt đi (c. 2a), bị quăng ra ngoài và bị đốt đi (c. 6bcde). Trong khi các cành không sinh hoa trái thì bị cắt đi (airei: c. 2a), các cành mang hoa trái được Chúa Cha là người trồng nho (geôrgos) cắt tỉa (katharei: c. 2b) nhờ lời của Ngài (logos: c. 3b) mà Đức Giêsu đã nói ra. Trong thực tế, chính là lời hoặc mạc khải của Đức Giêsu đã thanh luyện các môn đệ (c. 3; x. 13,10). Sự hiện diện thường trực hoặc sự ở lại (menein) của lời Người (ta rhêmata) trong các môn đệ là một điều kiện để cho lời cầu nguyện của họ được nhận (c. 7) bởi vì chính mạc khải của Đức Giêsu đã được đón vào trong tim các môn đệ, làm cho con tim họ đồng thanh tương ứng với con tim của Đức Giêsu và của Chúa Cha, khiến cho lời thỉnh cầu của họ sẽ phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Các môn đệ ấy, giống như các cành khỏe mạnh thường xuyên hút được nhựa sống từ cây nho, sẽ sản sinh hoa trái dồi dào và tôn vinh Chúa Cha (c. 8), là người trồng nho (c. 1).

+ Kết luận

Như thế, hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự ở lại thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người, đồng thời nêu bật dây liên kết bên trong bằng việc mang hoa trái. Giống như cành nho, vì liên kết với cây nho, được thông dự vào sự sống của cây nho, người tín hữu, nhờ gắn bó với Đức Kitô, được thông dự vào sự sống chân thật, là sự sống của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự thông dự này bó buộc họ phải sống và hành động theo nếp sống mới đã được Đức Giêsu mạc khải cho biết.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đoạn văn này trích từ bài Diễn từ thứ hai của Bữa Tiệc Ly. Muốn đọc và nhận được các ánh sáng phong phú, nên đăt bản văn vào trong bầu khí của cử hành Thánh Thể là trung tâm của Bữa Tiệc Ly. Lời chúc phúc và thánh hiến rượu nhắc đến ẩn dụ cây nho. Cựu Ước đã dùng hình ảnh cây nho mà ví Dân Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn nói rằng Người thực hiện nơi bản thân Người toàn bộ sự tuyển chọn, sự ân cần và phương tiện cứu độ mà xưa kia được gán cho Dân Chúa. Tư tưởng chính của bản văn tập trung vào sự kết hợp ngay ở trần gian này giữa ki-tô hữu và Đức Kitô.

2. Bất cứ kết quả phong phú nào về truyền giáo của các môn đệ đều hoàn toàn tùy thuộc việc họ được liên kết với Đức Giêsu. Bất cứ toan tính nào nhắm đạt tới một kết quả mà lại không cần tới Người thì chỉ có thể thất bại. Không có Người, các môn đệ không thể làm gì được. Do đó, họ phải tìm cách ở trong thế liên kết với Người ngày càng chặt chẽ và vưng chắc hơn. Sự cần thiết này càng lớn do chỗ chính Thiên Chúa quan tâm đến việc họ mang hoa trái và sẽ đối xử với họ tương ứng theo đó (c. 2).

3. Tất cả tùy thuộc sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu. Làm thế nào để họ có thể trở thành những cành nho cứ lớn lên mà vẫn liên kết với cây và được phong phú nhờ dòng nhựa của cây? Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong họ (c. 7) và nếu họ tuân giữ các giới răn của Người (15,10). Tất cả phát xuất từ Đức Giêsu: các lời và các giới răn phát xuất từ Người. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận cách đúng đắn sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, họ được liên kết với Người và sẽ có thể sinh hoa trái.

4. Trong cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, mọi sự được quy hướng đến chỗ sinh hoa kết trái, như là dấu chứng tỏ người ấy đã đạt được mục tiêu của đời mình. Khi sống trong Đức Kitô, người Ki-tô hữu được nuôi dưỡng bằng giáo huấn, gương sáng, Lời, ân sủng bên trong, Thánh Thể của Người. Tuy nhiên, có khi do hứng khởi vì những ý tưởng, những dự phóng, hoặc có khi chỉ là do thiếu sáng suốt, do trí tuệ yếu kém, do ý chí yếu đuối, v.v., người tín hữu lạc vào một sai lầm hay rơi vào một thất trung nào đó. Chính khi đó, vì nhắm tới hoa trái, Chúa “cắt tỉa” linh hồn và con tim con người ấy, thanh luyện người ấy, xén đi những gì đang chiếm các năng lực của người ấy cách vô ích. Khi đó, chắc chắn có đau đớn. Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh, khi muốn bước theo Đức Kitô và ở lại với Người? Nếu đôi khi Chúa Cha dường như cắt xén vào xác thịt chúng ta, trong linh hồn chúng ta, chúng ta hãy cứ nuôi dưỡng mình thêm bằng dòng nhựa của Đức Kitô và giữ vững can đảm vì nhìn tới các hoa quả đầy hứa hẹn.

5. Cứ tiếp tục suy tư từ bài dụ ngôn Cây nho thật, chúng ta biết rằng cây nho sinh trái ở cành. Các cành không có đó để trang điểm cho cây nho. Chính các cành sai trái chứng tỏ sức khỏe và sức sống của cây nho. Nhưng “sinh nhiều trái” không phải là kết quả của một nỗ lực của con người; đó là kết quả của niềm tin sinh động đặt nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể tiến trình lại là công việc của người trồng nho, là Chúa Cha.

 

 

 

 

 

78. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.

 

CÂY NHO VÀ CÁC MÔN ĐỆ

Diễn từ của Chúa Giêsu mở đầu bằng dụng ngữ “Thầy là” được lặp lại ở câu 5. Như ở chương 10 về vị mục tử, đó không phải là một sự so sánh (thiếu phụ ngữ so sánh “như”); đó là một ẩn dụ, hình ảnh qua đó một từ ngữ (ở đây là cây nho) được đem ra khỏi lĩnh vực thông thường để sử dụng vào trong một lĩnh vực khác của diễn từ (ở đây là căn tính của Chúa Giêsu).

Ẩn dụ này hình thành một phần từ những yếu tố quen thuộc của người Do Thái (Chúa Cha như người trồng nho) và từ nhiều yếu tố mới mẻ khác như việc Chúa Giêsu quả quyết Người là “cây nho thật”. Quả vô ích khi tìm kiếm những so chiếu trong thế giới ngộ giáo (nhiều người muốn nhận thấy ở đây một ám chỉ đến cây sự sống, đôi khi được trình bày như một cây nho). Tốt hơn là nên quay về với Kinh Thánh nơi thường sử dụng hình ảnh cây nho để nói về Israel (Is 5,1-7; 27,2-5; Gr 5,10; 12,10-11).

Tuy nhiên trong Tin Mừng của Gioan, hình ảnh quen thuộc với thính giả, vượt xa ẩn ý của Kinh Thánh: Chúa Giêsu là cây nho thật (cũng cách diễn tả này trong Gr 2,21 trong bản dịch Hy Lạp), và các cành nho phát triển nhờ Người. Cành nào không sinh trái thì cần phải chặt bỏ. Trong bối cảnh của đêm sau cùng, ta thường nghĩ đến Giuđa là kẻ thuộc về thế giới tối tăm (13,2.27). Thế nhưng dụng ngữ căn bản này (loại trừ sự hoán cải như trong Mt 3,10) chắc chắn có thể áp dụng cho mọi Kitô hữu thuộc Giáo Hội của Gioan mà lại đoạn giao với cộng đoàn như “những tên phản Kitô không phải là người của chúng ta” (1Ga 2,19).

Không nên xem như một cách miêu tả hỏa ngục và các hình phạt của nó trong việc so sánh kẻ không “ở lại trong Chúa Giêsu” với những “cành nho bị quăng vào lửa cho nó cháy đi”. Tuy nhiên viễn ảnh đầy đe dọa và diễn đạt một nhị luận không sai biệt giữa các môn đệ trung thành với những kẻ xa lìa Chúa Giêsu. Đối với người chưa tin, Gioan sử dụng cũng một hình ảnh như ông sử dụng để chỉ Thủ Lãnh thế gian này: “nó sắp bị tống ra ngoài” (12,31 và 15,6). Cần phải đặt định các đoạn này vào trong trào lưu cố tình nhị luật của một số cộng đoàn Kinh Thánh sơ khai, phải đương đầu với nhiều cuộc khủng hoảng nội bộ. Ngày nay, độc giả nên ý thức về những hậu quả không thể tránh khỏi từ những lựa chọn của mình. Lời mời gọi hoán cải luôn luôn hiện diện trong đề xuất của Tin Mừng.

Như vậy, đối với Gioan, sinh hoa trái có nghĩa là trở nên môn đệ, nghĩa là gắn bó với Chúa Giêsu trong đức tin và đức ái, trong tư thế hoán cải liên lỉ, một đức ái trở thành dấu chỉ cho thế gian do bởi chất lượng và sức mãnh liệt của nó. Câu 3 lặp lại thảm cảnh của đêm sau cùng khi ám chỉ đến việc thanh tẩy (việc rửa chân) được trình bày ở chương 13.

Các câu 6 lặp lại phần dẫn, dưới hình thức một sự bao hàm. Tuy nhiên ở đây chiều kích Kitô được nhấn mạnh: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Giữa lời khai mào bài trần thuật nói về “cây nho thật” và phán quyết cuối cùng này, ta có thể đoán được những dấu vết của cuộc bút chiến chống lại những kẻ (Do Thái giáo hay Kitô giáo) muốn tìm nguồn mạch sự sống ngoài Chúa Giêsu. Đối với tín hữu hiện thời, được mời mọc bởi biết bao đề nghị đầy ý nghĩa, lời này cần phải là một cột mốc không thể xóa bỏ. Nếu quả thật Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa, đến đưa sự mặc khải tới đích điểm, thì đối với các tín hữu, Người cần phải là sự quy chiếu bắt buộc (không độc hữu không loại bỏ đối với những kẻ thành tâm gắn bó với các trào lưu tôn giáo và nhân bản khác).

 

 

 

 

 

79. Chú giải của Noel Quesson.

 

Thầy là…

Như Chúa nhật trước, chúng ta sẽ nghe Chúa Giêsu nói Người là ai. Chúng ta chú tâm lắng nghe Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải bằng những từ long trọng này: Con người, dân thành Nagiarét, con của Maria… dám dùng tên Chúa “Ta là Đấng Hằng Hữu” để tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng Tự Hữu.

Cây nho thật.

Đây là một kiểu nói vô cùng táo bạo đối với những thính giả đầu tiên của Chúa Giêsu. Trong toàn bộ Thánh Kinh hình ảnh “Cây nho” tượng trưng cho “dân Israel”, bây giờ Chúa Giêsu coi như là một việc đương nhiên, Người tự cho phép mình chiếm chỗ của “cả một dân tộc”. Người áp dụng cho chính bản thân Người những gì đã được nói cho Israel. Và Người dám nói rằng chính Người là cây nho đích thật. Cây nho kia chỉ là một phác họa, một chuẩn bị, một “hình ảnh”. Dân Israel xưa chỉ là một sự chuẩn bị cho “dân Israel mới” là Giáo Hội, là chính Chúa Giêsu. Và không phải Chúa Giêsu chỉ đưa ra lời khẳng định đáng ngạc nhiên này. Một lần Người đã nói: Người là bánh “đích thực” của sự sống (Ga 6); đối với Maria, Người đã nói Người là Mục Tử “đích thật” (Ga 10) đối lại với những mục tử giả và những kẻ làm thuê.

Vậy thì một lần nữa, con người bình thường, xuất thân từ một làng quê nhỏ bé trong một tỉnh của đế quốc La Mã, con người không quan trọng đó sẽ chịu chết trong vài tuần nữa, bị xã hội loại trừ, bị các môn đệ phản bội và chối bỏ, bị đối thủ khinh khi chế nhạo, bị mọi người bỏ rơi, Con Người đó dám tự cho là trung tâm của thế giới và của lịch sử – Có đúng không? hay Người chỉ là một con người?

Và Cha Thầy là người trồng nho…

Cha của Người là ai? Người đang nói về ai thế? Chúng ta quá quen với những kiểu nói này. Thực ra những kiểu nói trên diễn tả một điều nào đó không bình thường nhưng là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử những tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Dường như Chúa Giêsu đã luôn luôn gọi Thiên Chúa là “Abba”, từ ngữ Aramên để gọi “Cha”. Kiểu nói này không phải của một người đàn ông trưởng thành mà là của một con trẻ. Kiểu nói trìu mến mà thánh Têrêsa Lisieux đã diễn tả Thiên Chúa, “Cha tốt lành của con”. Vào thời thượng cổ, trong nền văn chương của Do Thái nói về nghi lễ phụng vụ cũng như về đời sống cá nhân, người ta không tìm được một cách cầu nguyện dùng tiếng “Abba” để nói về Chúa. Vì thế lời nói khác thường và thân thiện này đã gây ra sự khó chịu và nên cớ vấp phạm đối với những người đồng thời của Chúa Giêsu, lời này thường được dùng trong tiếng Aramên bởi những cộng đồng tiên khởi dùng tiếng Hy Lạp (Mc 14,36; Mt 26,39; Lc 22,42; Ga 14,31; Rm 8,15; Gal 4,6).

Vâng, trong toàn bộ Kinh thánh “Người trồng nho” của Israel chính là Thiên Chúa, hình ảnh truyền thống này diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với dân của người (Gr 2,4; Ed 15,2; Os 10,1; Tv 80,9).

Cành nào gắn liền với thầy mà không sinh hoa trái thì người cắt tỉa cho nó ra nhiều quả hơn.

Sự so sánh của người trồng nho rất thực tế: Mùa đông ông ta cắt bỏ trành khô và đốt, ông tỉa một phần để cô đọng nhựa làm cho sinh nhiều trái hơn. Một cây nho không được cắt tỉa chỉ sinh lá -Những người trồng nho nói rằng: Khi người ta cắt tỉa cây nho cây này “khóc”. Trước khi vết cắt được lành, một số nhựa dồi dào chảy ra. Cũng vậy, gặp cơn thử thách lòng chúng ta cũng khóc khi bị đau khổ.

Người nào đã đi thăm một vườn nho vừa được cắt tỉa, sẽ ngạc nhiên về những cành nho bị “hy sinh” để cây nho cho “nhiều quả hơn”. Nếu không biết, ta có thể phê bình người trồng nho “Tại sao lại có nhiều đau khổ như thế này trên thế giới”. Thưa ông trồng nho, tại sao ông cắt bỏ nhiều cành thế? Tại sao ông làm cây chảy máu? Hãy đợi đến mùa thu hoạch lúc đó anh sẽ hiểu.

Và Chúa Giêsu, cây nho đích thật được Chúa Cha yêu mến đã bị “cắt tỉa” trước tiên. Ôi sự cắt tỉa bi thảm thay! ôi; cây thập giá bên ngoài bị tàn phá, nhưng mang lại: “nhiều quả hơn”.

Đó là hình ảnh công việc của Thiên Chúa trong Giáo Hội và trong chúng ta, Người tỉa, xén, thanh tẩy. Việc này gây đau khổ, nhưng đây là quy luật của cuộc sống, để cho mùa thu hoạch tốt đẹp hơn.

Nhưng anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em.

Đáng lẽ ra khi tỉa xén, người tín hữu phải lắng nghe lời Chúa để khám phá được sự phong phú của sự thanh tẩy này. Người nào chấp nhận bị tỉa xén theo gương Chúa Giêsu và kết hợp với Người, người ấy có thể tìm thấy ý nghĩa trong cơn thử thách của mình. “Hãy luôn luôn kết hợp với Thầy như Thầy luôn kết hợp với anh em”. Lời Chúa trên đây làm cho tín hữu khám phá được rằng, đau khổ kết hợp họ với Chúa Giêsu và làm cho họ ở “trong người”.

Động từ “ở” sẽ được dùng trong 6 câu sau này. Hình ảnh thật cảm động: Chúng ta có thể “ở” trong Chúa Giêsu, và Người “ở” trong chúng ta, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như những nhánh trong một cây nho, được tháp nhập vào Người cách sống động: Từ Chúa Kitô đến chúng ta, chỉ có một dòng nhựa lưu chảy, một sự sống duy nhất truyền lan mà thôi.

Chữ “ở” này không chỉ có nghĩa là ở lại, cư ngụ, nhưng là sống ‘với’, đây cũng là một đề tài xuyên suốt Thánh Kinh. Ước vọng lớn nhất của con người là thấy Thiên Chúa ở với dân của Người: “Người đã dựng lều trong trại của chúng ta, giữa những lều du mục của chúng ta”. “Người đã xây một nhà trong thành phố chúng ta, giữa những nhà của chúng ta”. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Không chỉ là một sự đối diện mà là “Người này ở nhà người kia”. Một mối liên quan mới kết hợp con người với Thiên Chúa, một sự mật thiết hỗ tương. Chúa Giêsu dùng lại kiểu nói xưa của Giao ước: “Các ngươi sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”. Nhưng Chúa Giêsu đào sâu hơn bằng cách nói về một sự kết hợp hỗ tương: “Anh em hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong anh em”. Khi nghe lời này, chúng ta phải nghĩ đến phép Mình Thánh Chúa, Bí Tích tuyệt hảo của giao ước, dưới biểu tượng bánh mà chúng ta dùng hằng ngày. Bí tích này làm cho “Chúa Giêsu hiện diện” trong nội tâm sâu kín nhất của chúng ta. Chúa Giêsu đã dùng cách nói này trong bài diễn văn nói về bánh hằng sống (Ga 6,56): “Kẻ nào ăn thịt Ta và uống Máu Ta sẽ ở trong Ta, và Ta sẽ ở trong người đó”. Dựa vào mạc khải này, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng.

Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không kết hợp với Thầy.

Người nói quá đáng chăng: Đòi hỏi quá chăng! Người xác quyết: Kết hợp với Người là một điều cần thiết để được sống. Người cũng nói rằng, kẻ nào không kết hợp với Người thì “đã chết”, như cành khô chỉ còn đem vào lửa. Con người không có Thiên Chúa sẽ đi về đâu? Nếu bạn hỏi, đa số người ta sẽ trả lời: Cuộc sống của họ sẽ chấm dứt bằng cái chết và sư hư không. Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu có một tư tưởng căn bản hơn: Người không nói về tương lai nhưng nói về hiện tại.

Không có Thầy, anh em không làm được gì. Ai không kết hợp với Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo, người ta nhặt lấy, ném vào lửa cho nó cháy đi.

Khi nghe, con người có thể khước từ sứ điệp này: Con người được tự do – Nhưng nguy hiểm thay. Con người không thể làm giảm nhẹ Tin Mừng được. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tự đặt mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, và đối với Chúa Giêsu, sự lệ thuộc này giải thoát chúng ta khỏi tất cả những gì ngăn cản chúng ta sống”. Kẻ nào khước từ không kết hợp với Chúa Giêsu sẽ có “một cuộc sống” rất tầm thường, cuộc sống của con người hay chết, một cuộc sống mà nếu chúng ta trách Chúa về cuộc sống đó chúng ta sẽ có lỗi (các bạn hãy nhìn xem sự đau khổ vô lý của kiếp người này). Chúa đã khong tạo dựng chúng ta để sống “một cuộc sống quá tầm thường” mà cái chết sẽ thắng. Chúa tạo dựng chúng ta để sống “cuộc sống thần linh của Người”.

Thầy là Cây nho và anh em là Cành nho. Ai luôn kết hợp với Thầy và Thầy luôn kết hợp với người ấy sinh hoa kết quả dồi dào.

Sinh hoa kết quả: Kiểu nói này được lăp lại 6 lần trong vài dòng. Đó là những gì của Chúa Giêsu đã đề nghị với nhân loại. Thiên Chúa không khinh thường con người. Người không đặt ra một cái bẫy để hại con người khi tạo dựng nên con người. Nếu chúng ta suy nghĩ những lời này cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ hiểu được sâu hơn là khi chỉ đọc phớt qua, Chúa Giêsu không tự xem mình là “thân cây” nho (như vài bản Tin Mừng đã dịch sai) mà trên cây đó mọc ra những “cành” là chính chúng ta. Người tự ví mình như “Toàn cả Cây nho”, mà chúng ta là một phần. Thánh Phaolô, khi suy niệm về hình ảnh cây nho, và về Bí Tích Thánh Thể, sẽ nói rằng chúng ta là “chi thể của Thân mình Chúa Kitô”.

Chúng ta là một phần của Thiên Chúa, một phần của Chúa Giêsu, chúng ta là “con trong Ngôi Con”, là những người sống trong Đấng hằng sống duy nhất. Người ta nói rằng tại Nagiarét có một cây nho, mỗi năm sinh ra được từ 350 đến 370 chùm.

Anh em sinh hoa kết quả dồi dào và trở thành môn đệ của Thầy, thì đó là tôn vinh Cha của Thầy.

Thiên Chúa Ngôi Cha là nguyên thủy và chung cuộc của đời sống Cây Nho. Chính Người là người trồng nho, tỉa bớt những cành không sinh quả và cắt xén những cành tươi tốt. Chính Người sẽ vui mừng vào mùa thu hoạch đang được chuẩn bị. Đối với những người có đức tin, đó chính là huyền nhiệm của tình yêu.

 

 

 

 

 

80. Chú giải của Fiches Dominicales.

 

CÂY NHO THẬT

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1) Từ Israel, một dân đã không sinh hoa kết quả như mong đợi.

Với nông dân vùng Palestine thời đó. Cây nho là tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier cảnh giác: “Để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Ephêsô tạc từ một gốc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻ oai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nối một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh “nghỉ dưới gốc nho” (1V 4,25; Mk 4,4). “Đức Giêsu ở giữa dân Người” (“Đọc Thánh Kinh” số 78, trang 54).

Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã xếp đặt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. Ôsê đã chẳng miêu tả Israel như một cây nho xum xuê nặng trĩu quả đó sao? (Hs 10,1) Thánh vịnh 79 đã chẳng nài van Chúa cho cây nho mà Chúa đã bứng từ Ai Cập và trồng trên thửa đất đã cày cuốc cẩn thận, “để nó làm đẹp cho xứ sở và vươn cành ra đến tận biển khơi” đó sao? (Tv 79,10-12). Riêng Israel, trong bài ca cây nho thời danh được Thiên Chúa yêu thương dành cho mọi ưu đãi, đã chẳng tuyên xưng: “Tôi sẽ hát cho bạn nghe bài ca của người yêu dấu với cây nho của mình (Is 5,1) đó sao?

2) Đến Đức Giêsu, “cây nho thật”.

Nếu một lần nữa, Đức Giêsu trở về với biểu tượng cây nho, đó là để thực hiện một chuyển vị táo bạo: Người tuyên bố: “Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”.

– Khi xưng mình là “cây nho thật”, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là người đến để đáp lại sự mong đợi của Thiên Chúa, người mà vì yêu đã tự nguyện hiến ban sự sống của mình, nên đã sinh hoa trái “làm tôn vinh Chúa Cha”.

– Những chăm nom săn sóc của “Chúa Cha chủ vườn nho” đối với cây nho cho thấy sáng kiến của Chúa Cha, tình yêu ưu ái Người dành cho Đức Giêsu, Những mối dây duy nhất nối kết Chúa Cha với Chúa Con.

Còn về những “cành nho-môn đệ”, phát xuất từ thân nho, chỉ có thể được nuôi dưỡng bằng dòng nhựa chảy ra từ thân nho, chỉ có thể được sinh động nhờ sự sống của thân cây, để sinh hoa kết quả làm tôn vinh Chúa Cha, nếu chúng “ở lại” trong Người.

“Ở lại trong Người”, thực vậy, đó là điều kiện không thể thiếu đối với sự sống của các ‘môn đệ-cành nho’, Người quả quyết: “Vì ngoài Thầy, các con không làm gì được”. “Ở lại trong Người” là kết hiệp với Người bằng những mối dây tình yêu và sự sống, là nhờ Người mà được dẫn đến kết hiệp với Chúa Cha (xem Ga 6,56 và 14,23). Tách mình khỏi Thân Nho thật, xa lìa Đức Giêsu, là dan thân vào chỗ chết: “Nếu ai không ở trong Thầy, người ấy sẽ giống như cành nho bị ném ra ngoài và chúng khô héo đi. Người ta sẽ lượm những cành khô và liệng vào lửa và chúng sẽ cháy”.

Sự gắn bó với Đức Kitô, nếu đúng, nếu thực, sẽ được phiên dịch ra thành những xử sự cụ thể. Sự gắn bó ấy được kiểm chứng nơi những hoa trái phát sinh: “Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái”. Thử thách, bắt bớ sẽ là những trắc nghiệm về lòng son sắt và bảo đảm cho hoa trái dồi dào.

Như thế, vinh quang của Chúa Cha, đã biểu lộ ra nơi Đức Giêsu, cũng sẽ biểu lộ ra nơi những ai trổ sinh hoa trái bác ái nhờ kết hiệp, gắn bó với Đức Giêsu: “Điều làm vinh danh Cha Thầy, là các con sinh nhiều hoa trái: như thế, các con sẽ là môn đệ của Thầy”.

Nên, X.Léon-Dufour đã cảm nhận: “Môn đệ không chỉ là người thụ hưởng hoạt động của Chúa Con, nhưng còn tham dự vào hoạt động đó, là đồng tác giả của những kết quả đó. Kết quả đó chưa có, sẽ có, nếu các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Giêsu. Kết quả đó sẽ làm vinh danh Chúa Cha” (Sđd, trang 168).

Việc đưa hình ảnh Cây Nho vào diễn từ sau bữa Tiệc ly củng cố thêm âm hưởng Phụng Vụ và Thánh Thể của nó. Cần phải liên hệ hình ảnh này với lời Đức Giêsu ở Ga 12,24: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó mục nát đi, nó mới sinh nhiều bông hạt”. Chỉ có hai đoạn Tin Mừng Gioan (12,24 và 15,5) nói rõ: “sinh nhiều hoa trái”. Như thế chủ đề cây nho và chủ đề hạt lúa bổ túc cho nhau và là nền tảng của những yếu tố chính yếu trong bữa tiệc Thánh Thể: rượu và bánh. Phải chăng Gioan đã chủ ý tìm kiếm hiệu quả này? Dù sao, hình ảnh Cây Nho, được tuyên xưng trong những buổi quy tụ có tính cách phụng vụ vào những thế kỷ đầu tiên cũng như trong các buổi quy tụ ngày nay, vẫn mời gọi các Kitô hữu thấu hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm mà họ đang sống khi cử hành bí tích Thánh Thể.

BÀI ĐỌC THÊM

1) “Hoa trái xum xuê”

(Mgr. L. Daloz, trong “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”, DDB, trang 192).

Nếu ta gắn bó với Người, Đức Giêsu sẽ cho ta hoa trái xum xuê như Người đã hứa: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh hoa trái xum xuê”. Đời ta có thể nên phong phú nhờ sự phong phú của Thiên Chúa. Ta nên những môn đệ đích thực và ta làm vinh danh Chúa Cha. Lời cầu của ta cũng tương tự lời cầu của Đức Giêsu, Người biết Chúa Cha luôn nhận lời Người: “Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, các con hãy xin điều các con muốn và các con sẽ được như ý”. Ta có thể xin gì khác hơn thánh ý Chúa Cha? Người môn đệ đích thực của Đức Giêsu không đơn thuần là kẻ đi theo Người. Trong anh ta, chính Đức Giêsu ngư đến sống đời sống của anh, biến đổi đời sống ấy và làm cho nên phong phú. Thánh Phaolô nói: “Không phải tôi sống, chính Đức Kitô sống trong tôi”. Môn đệ là người “mang Đức Kitô”. Nếu môn đệ trung tín với lời Người, anh sẽ nối dài sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu trên trần gian. Tim anh sẽ đập cũng một tình yêu đó, đời anh sẽ dâng lên Chúa Cha cũng niềm vinh danh đó. Lời anh sẽ loan báo cũng Tin Mừng đó. Cử chỉ anh sẽ phiên dịch cũng ơn cứu độ đó. Bây không phải là bắt chước: nhưng là một chuyển biến sâu xa. Chính Thiên Chúa sinh hoa kết quả xuyên qua hoạt động của anh. Chẳng đời nào ta dám tưởng tượng ra một sự thân thiết thâm sâu dường ấy! Nên Đức Giêsu đã phải nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại để hiểu hơn: “Ngoài Thầy, các con không làm được gì”. Ta rất dễ bị cám dỗ chiếm hữu lời Người, dùng lời Người để tự mình hướng dẫn đời sống mình, để tự ta thấy trước những hoa trái ta muốn có. Thực ra, nếu ta là những môn đệ đích thực, thì chính Lời Đức Giêsu sẽ nắm lấy ta, sẽ cắt tỉa ta. Khi ấy, cuộc đời ta sẽ biến đổi, nhựa sống của cây nho thật sẽ căng phồng lên ở các cành nho của ta và sản sinh trong ta hoa trái xum xuê”.

2) “Thánh Thể, bí tích gắn bó với cây nho của Chúa”.

(“Sách lễ Emmaus các ngày Chúa nhật”, trang 546-547).

Qua việc rước lễ mùa Phục sinh, Giáo Hội mời gọi ta đóng ấn sự ta gắn bó với cộng đoàn Giáo Hội. Cách chung, đó là ý nghĩa sự hiệp thông. Nhưng khi tham dự tiệc Thánh Thể, ta có thực sự tiếp nhận được nhựa sống, tên gọi khác của ân sủng mà Chúa Giêsu muốn dùng để làm cho ta được sống không? Ta có thực sự để Thiên Chúa “cắt tỉa” đời ta không? Vậy mà đó là điều kiện để cho chính bản thân ta trở nên Thánh Thể. Tạ ơn Chúa.

 

 

 

 

 

81. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.

 

CÂY NHO ĐÍCH THỰC

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Ngài tỉa sạch… Các ngươi đã được tỉa sạch rồi”: Ở đây có một lối chơi chữ giữa katharei ‘Ngài tỉa sạch’ là katharoi ‘sạch, được tỉa sạch’, lối chơi chữ của tiếng Hy lạp chắc chắn phỏng lại một lối chơi chữ của tiếng Aram. Trong tiếng Syri, vốn cũng là một ngôn ngữ sêmita, dakki có nghĩa là “thanh tẩy” và “tỉa sạch”. Việc diễn tả ý niệm “tỉa sạch” bằng ý niệm “thanh tẩy” là một điều tự nhiên, bằng chứng là trong Pháp ngữ, “émender” (tỉa) phát xuất từ la ngữ mun dus (sạch), và rõ ràng trong Việt ngữ cũng thế.

“Bởi lời Ta đã nói với các ngươi”: Trong bản văn này cũng như trong nhiều bản văn khác của Gioan (8,31.43; 6,60; 48; 14,23; 15,20) “logos” (lời) là một hạn từ đơn giản hóa “giáo huấn” của Chúa Giêsu. Dĩ nhiên không phải lời Chúa Giêsu được thu nhận vào lỗ tai đã làm cho các môn đồ nên sạch, nhưng là lời được người nghe và đón tiếp. Chính niềm tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu đã kết hợp họ vào Cây Nho và nhờ vậy đã làm cho họ tinh sạch. Ý tưởng cho rằng niềm tin vào lời Chúa Giêsu có sức thanh tẩy này còn được Phêrô diễn tả rõ ràng hơn khi nói về những người ngoại đã tin: “Thiên Chúa đã tẩy sạch lòng họ bằng đức tin” (Cv 15,9). “Nếu các ngươi không lưu lại trong Ta”. Đối với con người, lưu lại là bám chắc vào điều đã được ban tặng trong quá khứ, nắm giữ nó trong hiện tại, và tùy vào nó mà xét tương lai. Cũng chính trong ý nghĩa này mà người tín hữu phải lưu lại trong lời (8,31), trong tình yêu (15,9-10), trong ánh sáng (1Ga 2, 10), trong Thiên Chúa (1Ga 4,13-16). Ngược lại, đối với Thiên Chúa hay đối với Chúa Giêsu, lưu lai có nghĩa là liên tục ban hồng ân cứu rỗi cho các kẻ tin (1Ga 2,27; 3,9.15; 12-15). Nhờ lòng trung tín, người tín hữu không ngừng nối chặt cuộc sống mình vào Chúa Kitô, Đấng trong đó hồng ân của Thiên Chúa được trao ban luôn mãi; lòng trung tín này cũng bao hàm một mối tương giao sống động và một sự hiểu biết ngày càng đào sâu.

KẾT LUẬN

Như cành nho thông phần vào sự sống của cây nho mà nó được liên kết với, thì người tín hữu, nhờ gắn bó với Chúa Kitô, cũng được thông phần vào sự sống đích thực, sự sống Thiên Chúa: việc tham dự này đòi buộc họ phải sống và hành động theo sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đã mặc khải.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Đoạn văn của diễn từ thứ hai sau Tiệc ly này phải được đặt vào trong bầu khí của buổi cử hành Thánh Thể vốn là trung tâm của bữa tiệc. Việc chúc lành và thánh hiến rượu nho gợi lên ám dụ cây nho. Trước đó, Cựu ước đã dùng tỷ dụ vườn nho để chỉ dân Thiên Chúa rồi. Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng Người thể hiện trong bản thân Người toàn thể những gì mà người ta vẫn gán cho dân Thiên Chúa như sự được tuyển chọn, được chăm sóc, phương thế cứu rỗi. Y chính của bản văn tập trung vào thực tại của sự kết hiệp vốn thiết lập ngay từ đời này giữa Kitô hữu với Chúa Kitô; nên ghi nhận là trong đoạn văn vắn gọn này, từ ngữ “trong Ta” trở đi trở lại năm lần đấy!

2) Kitô hữu được bắt vào Chúa Kitô như cành nho gắn liền với cây nho. Không có Chúa Kitô, họ chẳng là gì. Họ phải nhờ Chúa Kitô mà được hiện hữu, mà có nhựa sống, có khả năng sinh hoa quả. Có thể xảy ra là trên gốc nho, mọc ra một cành không tuân theo định luật của cây con, nhưng phát triển thành gỗ và lá mà không sinh quả. Các người trồng nho gọi đó là cành thừa; họ chặt nó và vứt đi. Có thể có những người tuyên xưng Tin Mừng mà chẳng sinh trái không? Có, đấy là không ai không quan tâm sống nhờ Chúa Kitô đồng thời vẫn tự xưng là Kitô hữu họ tự cho mình thuộc về Giáo hội và Tin Mừng, nhưng chẳng thông hiệp thực sự vào sự sống của Chúa Kitô.

3) Muốn thông hiệp thực sự với Chúa Kitô, thì phải trung thành đáp lại ánh sáng Người đã thông ban. Đối với người ngoại giáo hoặc vô thần không nhìn biết Chúa Kitô mà không phải do lỗi họ, thì ánh sáng ấy đồng hóa với các mệnh lệnh của lương tâm. Nếu họ quen vâng phục tiếng nói của lương tâm thì họ vâng phục chính Chúa Kitô mà không hay biết, và do đó thực sự thông hiệp với Người. Nhưng đối với Kitô hữu đã được biết ánh sáng tràn đầy cua Chúa Kitô, sẽ không có hiệp thông thực sự với Chúa Kitô nếu không hiệp thông với Giáo hội, bởi vì ngày nay Giáo hội là Chúa Kitô được nối dài. Một trong những sự kiện đau thương của Giáo Hội hiện thời là tính tự phụ của nhiều con người quảng đại nhưng lạc hướng, đã rời bỏ Giáo hội, lấy cớ là Giáo hội làm thứ màn chắn giữa họ với Chúa Kitô. Chắc hẳn Giáo hội chưa phải là Hiền thê ‘trang sức mỹ miều’ (Kh 19,7; 21,2) để nhập tiệc cưới vĩnh cửu trong Giêrusalem thiên quốc; nhưng dù tội lỗi và dơ bẩn trong các chi thể, Giáo hội vẫn không kém là Hiền thê của Chúa Kitô và là Mẹ các Kitô hữu. Tách rời khỏi Giáo Hội là tách rời khỏi Chúa Kitô.

4) Trong phương cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, tất cả đều được xếp đặt để cho họ thành công trong định mệnh của họ là khai hoa, đậu trái, sinh quả dồi dào. Sống trong Chúa Kitô, người Kitô hữu được nuoi dưỡng bằng giáo huấn, gương lành, lời dạy ân sủng bên trong và Thánh Thể của Người. Tuy nhiên, có khi quá ứ đầy tư tưởng dự định hoặc chỉ vì thiếu sáng suốt, bệnh hoạn tinh thần, suy nhược ý chí mà Kitô hữu ấy có thể sai lầm hoặc bất trung cách này cách nọ. Chính lúc đó Chúa tỉa sạch tâm hồn và cõi lòng của người ấy, thanh tẩy họ, chặt đi những gì độc hại chiếm sinh lực của họ cách vô ích để họ sinh hoa trái. Điều đó không thể nào không gây đau khổ. Nhưng làm sao lưu lại trong Chúa Kitô được nếu không theo Người trên con đường hy sinh? Nếu đôi lúc ta cảm thấy hình như Chúa Cha cắt tỉa trong xác thịt ta, trong linh hồn ta, thì ta hãy hấp thụ nhiều hơn nữa nhựa sống của Chúa Kitô và hãy bền tâm can đảm vì Chúa đã hứa ban nhiều hoa trái.

 

 

 

 

 

82. Chú giải của William Barclay.

 

CÂY NHO THẬT

Như thường lệ, ở đây Chúa Giêsu đang sử dụng các hình ảnh và ý niệm thuộc di sản tôn giáo của dân Do Thái. Nhiều lần Cựu Ước mô tả dân Israel như một gốc nho hay vườn nho của Thiên Chúa. “Vườn nho của Đức Chúa vạn quân, ấy là nhà Israel (Is 5,1-7). Qua Giêrêmia, sứ điệp của Chúa đã truyền đến cho dân Israel rằng: “Ta đã trồng ngươi như cây nho tốt” (Gr 2,21). Êdêkien 15 và 19, 10 cũng ví dân Israel với cây nho. Ôsê 10,1 nói “Israel là một cây nho tươi tốt”. Tác giả Tv nghĩ về việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi vòng nô lệ như sau “Gốc nho này Chúa bứng từ Ai Cập” (80,8). Cây nho đã trở thành biểu tượng của dân Israel. Huy hiệu trên các đồng tiền thời Macabêô là cây nho. Một trong những kỳ công chói lọi trong Đền Thờ là cây nho bằng vàng thật lớn đặt trước Nơi Thánh. Nhiều vĩ nhân đã kể mình có vinh dự lớn khi được phép dâng cúng một số vàng để đúc thêm một chùm trái cho cây nho ấy. Cây nho là một trong những hình ảnh đặc trưng của người Do Thái, và là biểu tượng của dân Israel.

Chúa Giêsu tự xưng Ngài là cây nho thật. Từ alethinos, có nghĩa là thật, có thật, đích thực. Điều đáng lưu ý là trong Cựu Ước, biểu tượng cây nho luôn luôn được gắn liền với ý niệm về sự suy thoái. Trong bức tranh của Isaia, vườn nho đã trở thành vườn nho hoang. Giêrêmia than phiền dân tộc ông đã biến thành “một cây nho lạ, thoái hóa thành một cây nho khác”. Ôsê thì kêu lên “Israel là một cây nho trơ trụi”. Dường như Chúa Giêsu muốn nói: “Các ngươi tưởng vì thuộc về dân Israel nên các ngươi là nhánh cây nho thật. Sự kiện “là người Do Thái” không thể cứu ngươi. Điều duy nhất có thể cứu các ngươi là hãy thông hiệp mật thiết và sống động với Ta, hãy tin Ta vì Ta là cây nho của Thiên Chúa, và các ngươi phải là những nhánh được gắn liền vào Ta”. Chúa Giêsu đã xác định không phải là dòng máu Do Thái, nhưng chính đức tin vào Ngài là đường lối cứu rỗi của Thiên Chúa. Không một yếu tố nào có thể giúp con người được hòa thuận với Thiên Chúa mà chỉ có tình thân hữu với Chúa Giêsu Kitô.

Lúc mô tả bức tranh về cây nho. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài đang nói. Cây nho mọc khắp nơi tại Palestine. Muốn thu hoạch được trái tốt, người ta phải hết sức chú ý chăm sóc nó. Nó thường mọc trên những thềm đất nơi cao, nền đất phải sạch sẽ. Có khi người ta trồng thành hàng rào, có khi thả bò sát đất trên ít cành cây, cũng có khi người ta cho nó bò lên cửa những ngôi nhà tranh. Nhưng dù mọc ở đâu, việc cần thiết là phải tỉa thật kỹ. Nó mọc xanh tốt đến nỗi phải chia hàng cách khoảng ít nhất 4m, vì nhánh nho phát triển nhanh. Một cây nho trong ba năm đầu chưa cho trái, mỗi năm, nó phải được tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào tháng 12 hoặc tháng 01 dương lịch. Có hai loại nhánh nho, một loại ra trái và một loại không ra trái. Loại nhánh không ra trái phải cắt bỏ, để chúng không hút hết sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không thể cho trái đúng mức nếu không được cắt tỉa thật kỹ. Chúa Giêsu biết rõ điều đó.

Hơn nữa, gỗ của cây nho chẳng dùng được vào việc gì, vì quá mềm. Luật quy định mỗi năm vài lần, dân chúng phải đem củi dâng lên Đền Thờ để dùng cho các bàn thờ dâng sinh tế, nhưng dứt khoát không được dâng củi nho. Sau khi cắt tỉa cây nho, việc duy nhất có thể làm đối với số nhánh nho đó là đem đốt bỏ. Điều này làm cho bức tranh Chúa vẽ càng thêm ý nghĩa.

Chúa Giêsu bảo những người theo Ngài cũng giống như vậy. Một số người trong họ là những nhánh nho ra trái thật sai, nhưng một số khác thì lại vô dụng vì không ra trái. Khi nói đến điều này, Chúa nghĩ đến ai đây? Có hai câu trả lời. Một là, Ngài đang nghĩ đến dân Do Thái, họ là nhánh cây nho của Chúa. Đây không phải là hình ảnh mà hết ngôn sứ này đến ngôn sứ khác mô tả sao? Nhưng họ đã không chịu nghe Ngài, không chịu nhận Ngài, do đó, họ chỉ là những nhánh nho khô, vô dụng. Thứ hai, Chúa đang nghĩ một cách tổng quát hơn, Ngài đang nghĩ đến các Kitô hữu mà đạo của họ chỉ là hữu danh vô thực, năng thuyết bất năng thành, có nói mà không làm. Ngài đang nghĩ đến các Kitô hữu vốn là những nhánh vô dung, toàn lá mà chẳng ra trái. Và Ngài đang nghĩ đến những Kitô hữu đang bội đạo, đã nghe, đã nhận đạo nhưng lại sa ngã, bỏ đạo để trở thành những kẻ phản thầy, phản chủ mà có lần họ đã thề hưá sẽ trung thành phục vu.

Chúng ta có thể trở thành những nhánh nho vô dụng theo ba cách:

a/ Chúng ta chối từ không nghe theo Chúa Giêsu.

b/ Chúng ta nghe Ngài và phục vụ Ngài bằng đầu môi chót lưỡi chứ không có hành động cụ thể.

c/ Chúng ta co thể nhận Ngài làm Thầy và làm Chủ, nhưng sau đó khi gặp khó khăn trên đường đời hay khi bị dục vọng lôi cuốn thì từ bỏ Ngài. Nên nhớ nguyên tắc đầu tiên của Tân Ước là vô dụng dẫn đến tiêu diệt. Nhánh nho vô dụng đang trên đường đến chỗ tiêu huỷ.

Đoạn này nói đến việc ở trong Chúa Kitô. Điều đó có nghĩa gì? Kitô hữu ở trong Chúa và Chúa ở trong Kitô hữu mang một ý nghĩa rất huyền nhiệm. Nhưng nhiều người –có lẽ là đa số nữa- chẳng bao giờ có được kinh nghiệm này.

Chúng ta có thể lấy một hình ảnh thông thường để so sánh. Dù mọi lối so sánh đều bất toàn, nhưng chúng ta đành phải dùng những ý niệm mình có. Thí dụ có một người yếu đuối sa vào cám dỗ, đã làm hỏng chuyện, đang trên đà suy thoái tinh thần, trí óc và đạo đức. Người ấy có một bạn thân có bản lãnh mạnh mẽ, đáng mến, đầy lòng yêu thương, cứu anh ta khỏi tình trạng suy thoái kia. Chỉ có phương pháp duy nhất để người yếu đuối kia có thể duy trì tình trạng phục hồi của mình và giữ mình trên con đường tốt, là anh phải giữ liên hệ với người bạn kia. Nếu mất đi sợi dây liên lạc thì sự yếu đuối của anh lại gặp nhiều cơ hoi, những cám dỗ cũ xuất hiện và anh lại sa ngã. Lối thoát của anh nằm trong mối liên lạc liên tục với sức mạnh của bạn mình.

Khi một người hư hỏng được để sống chung với một người tử tế đứng đắn, bao lâu người ấy còn ở trong ngôi nhà tử tế đứng đắn kia thì còn được an toàn. Nhưng nếu người ấy rời bỏ nhà đó, đi theo ý riêng, sống tách biệt người bạn tốt, thế nào cũng sẽ sa ngã lại. Chúng ta phải giữ liên lạc với cái tốt để đánh bại cái xấu. Robertson ở Brighton là một trong những nhà truyền giáo lỗi lạc. Có một nhà buôn mở cửa hiệu, ông để trong phòng phía sau cửa hiệu một bức ảnh của Robertson, ông xem Robertson như người anh hùng gương mẫu của mình. Khi bị cám dỗ làm chuyện xấu, thương gia này chạy vội về phòng sau, nhìn vào bức ảnh của Robertson, ông thắng được cám dỗ đó. Có người hỏi Kingsley bí quyết thành công trong cuộc sống của ông, ông nhắc đến F. D. Maurice và bảo: “Tôi có một người bạn thân”. Tiếp xúc, liên hệ với người tốt đã khiến ông thành người tốt. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

Ở trong Chúa Kitô cũng giống như vậy. Bí quyết của đời sống Chúa Giêsu là Ngài luôn tiếp xúc, liên hệ với Thiên Chúa Cha. Nhiều lần Ngài lui vào nơi vắng vẻ để gặp Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu luôn luôn ở trong Thiên Chúa Cha. Giữa chúng ta và Chúa Giêsu cũng phải như vậy, chúng ta phải giữ mối liên hệ tiếp xúc với Ngài luôn. Chúng ta sẽ không đạt được điều đó, nếu không quyết tâm thực hiện. Thí dụ như việc cầu nguyện lúc sáng sớm, dù ngắn ngủi, nhưng cầu nguyện như chất thuốc sát trùng cho suốt một ngày, vì làm như thế, chúng ta không thể nào ra khỏi sự hiện diện của Chúa Giêsu để chạm vào điều xấu. Với một số ít người trong chúng ta, có thể việc ở trong Chúa Giêsu là một kinh nghiệm, không thể diễn tả bằng lời. Với phần đông chúng ta, điều đó có nghĩa là tiếp xúc thường xuyên với Chúa Giêsu, có nghĩa là thu xếp làm sao cho đời sống, giờ cầu nguyện, và cả những lúc phải yên lặng, để không giây phút nào chúng ta có thể quên Ngài.

Cuối cùng, chúng ta cần ghi nhận hai điều liên hệ đến một môn đệ tốt. Một, người ấy làm cho đời sống mình được phong phú. Sự tiếp xúc với Chúa Giêsu làm cho người ấy trở thành một nhánh nho nhiều trái. Thứ hai, người ấy làm vinh danh Chúa. Nhìn vào đời sống đó, người ta nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng đã làm cho người đó trở thành người như vậy. Thiên Chúa được tôn vinh khi chúng ta kết nhiều quả và khi chúng ta chứng tỏ mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Chắc chắn, vinh quang lớn nhất cho Kitô hữu là bởi đời sống và cách ăn nết ở của mình, đó là chúng ta tôn vinh Chúa.

 

 

 

 

 

83. Thân nho và cành nho – Lm Giacôbê Tạ Chúc

 

Bất cứ loài cây cỏ nào, muốn sinh trưởng và phát triển tốt, thì cần: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.

Ở môi trường và điều kiện thuận lợi, cây sẽ cho nhiều bông hạt. Nếu sống ở đất nước Việt Nam, chắc Chúa Giêsu sẽ dùng hình ảnh cây lúa, cây ngô, cây mì, cây thanh long… thay vì là cây nho.

Người nông dân xứ sở Palestina chắc không xa lạ gì với nghề trồng nho và ép rượu. Cây nho muốn tốt tươi thì cần chăm bón và cắt tỉa. Cành nho muốn có sức sống tràn trề thì không có cách nào khác hơn là gắn liền với thân nho. Thực tại tự nhiên là thế, thực tại siêu nhiên cũng vậy. Đức Giêsu dùng hình ảnh thân thuộc này để diễn tả một Mầu nhiệm Hiệp thông trong Nước trời. Ngài sánh ví Ngài là cây nho, còn các môn đệ là cành: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,5a). Cành chỉ sống được khi tháp nhập vào thân cây, nếu không cành sẽ chết.

Các môn đệ cũng vậy nếu không kết chặt vào thân mình của Chúa Giêsu thì như cành nho sẽ khô héo: “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho” (Ga 15,4b). Muốn cành nho ra trái nhiều thì người nông dân cần cắt tỉa, cắt đi những cành sâu bệnh, cắt để cành cây cho ra nhiều cành mới, vào ngày mùa kết quả sẽ gấp bội. Khi chịu để cắt tỉa, chắc chắn cành nho phải trải qua nhiều đau đớn, máu từ nhựa cây sẽ tuôn trào. Người nông dân cũng hiểu được điều này, nhưng đây là cách tốt nhất để giúp cây nho được sai trái.

Người môn đệ theo Chúa Giêsu cũng phải chịu “cắt tỉa”, để nên đồng hình với Đức Kitô Phục sinh. Cắt tỉa những thói xấu, tội lỗi và những đam mê trần thế. Những chướng ngại ngăn trở người môn đệ trên đường nên Thánh, chúng như những ung nhọt, cần bác sĩ giải phẫu để thân thể mạnh khỏe hơn: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái thì Người cắt tỉa” (Ga 15,1-2). Các môn đệ được ở lại trong tình yêu của Chúa, họ sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu trong từng giây, từng phút. Mối liên hệ thẳm sâu này được Thánh sử Gioan sánh ví như cành nho gắn liền với cây nho.

Lạy Chúa Giêsu, Ngài chính là hơi thở của chúng con. Tình yêu Ngài cao vời không gì sánh bằng. Ngài là nguồn sống, từ nơi Ngài ân sủng được trao ban, sự sống được tác thành. Mỗi ngày chúng con đón nhận sự sống đầy sung mãn của Thân mình Chúa Giêsu, trong Bí tích Thánh Thể, lương thực vĩnh cửu cho xác hồn mỗi người.

 

 

 

 

 

84. Tại sao cành phải liền thân?

(Suy niệm của Lm. Raphael Amore Nguyễn)

 

Tình yêu và tham lam

Có hai thầy tu nọ sống với nhau đã 40 năm trời, họ chưa bao giờ cãi cọ, dù chỉ một lần. Cho đến một ngày nọ, người này nói với người kia: “Này, anh bạn không nghĩ đã đến lúc chúng ta phải cãi nhau, ít nữa một lần sao?”

Người kia đáp: “Đúng vậy, nào chúng ta hãy bắt đầu! Nhưng chúng ta bắt đầu cãi nhau về chuyện gì?”

Người này bảo: “Về chiếc bánh mì này được không?”

“Được, hãy tranh luận về chiếc bánh này. Chúng ta sẽ làm thế nào đây nhỉ?”

Người này liền nói: “Chiếc bánh này của tôi; nó thuộc về tôi.”

Người kia đáp: “Nếu thế, thì bạn hãy lấy nó đi”.

Sở dĩ cuộc sống có xích mích và giận hờn, là do chính cái ngã to lớn có trong con người. Khi cái ngã càng trở nên bé nhỏ, sự bình an sẽ càng lớn. Cái ngã sẽ huỷ hoại sự bình an. Bình an chỉ có trong những trái tim mềm mại và trải rộng. Trái tim xơ cứng hoặc khép kín sẽ không thể cho được bình an. Cái ngã chỉ có làm một công việc duy nhất, đó là cột chặt trái tim lại – một trái tim bị ràng buộc. Trái tim này, vì thế, được gọi là ích kỷ. Và, những ai có trái tim này sẽ khổ đau, khổ đau cho chính mình, và làm cho người khác cũng đau khổ.

Tình yêu chỉ trở nên đúng nghĩa khi cái ngã không còn nữa. Hay nói cụ thể hơn, khi ta yêu, ta không còn là ta nữa. Thế giới cũ của ta sẽ biến mất nhường chỗ cho thế giới mới mẻ. Tại sao vậy? Khi yêu, là đi vào mối tương quan. Ta yêu cây yêu cỏ, ta nghĩ đến chúng, ta bảo vệ chúng, ta chăm sóc chúng, ta chờ đợi chúng lớn lên. Ta vui khi chúng lớn lên từng ngày và mạnh khoẻ.

Có bé trai nọ, vui mừng khi những chó con ra đời. Nó đi học cũng nhớ cún, nó học xong là quăng tập vở dưới sàn nhà, chạy ra nâng niu những chú cún con, nó nhịn uống sữa của nó để dành cho cún, nó đút từng thìa vào miệng cún, nó vui mừng khi cún và nó hiểu nhau.

Vì thế, yêu có nghĩa là đi vào mối tương quan giữa ta và đối tượng. Đi vào mối tương quan, có nghĩa là đi vào nguy hiểm, là liều mình. Liều mình, là vì ta chấp nhận không còn là ta như xưa nữa, mà trở thành cái ta khác. Vẫn có nhiều chàng thanh niên đã từng là tay bợm rượu, nhưng khi lấy vợ thì tay ấy không đụng một giọt rượu nào! Cho dù bị bạn bè cười chê là sợ vợ. Vẫn thấy đó đây những cô nàng, khi chưa yêu thì không bao giờ hề đụng vào bếp, nhưng khi đã có tình yêu, bỗng dưng nàng biết nấu ăn ngon, làm bánh và pha café! Người ta vẫn thường nói, “love makes wonders” rất là chí lý. Tình yêu luôn làm nên những việc diệu kỳ.

Vâng. Phải can đảm lắm mới dám yêu, vì yêu là dám ra khỏi mình để thiết lập mối tương quan. Tương quan như là sợi dây nối hai thế giới xa lạ – hai cái tôi khác biệt. Sợi dây càng thu hẹp lại thì tình yêu càng lớn. Tình yêu sẽ trọn vẹn khi sợi dây đo không còn nữa, vì hai thế giới đã trở nên một, không gọi là tương quan nữa, vì “mình với ta tuy hai mà một” rồi vậy. Khi sợi dây vẫn còn dài, có nghĩa là hai thế giới vẫn không chạm nhau được. Người ta có thể ngộ nhận là tình yêu, nhưng đó chỉ là xã giao bề mặt, chỉ là kinh doanh buôn bán lẫn nhau, chỉ là sự đổi chác đôi bên đều có lợi nào đó. Không lạ gì, trái đất ngày hôm nay có nhiều người đang sống như thế, cho nên nảy sinh nhiều cuộc ly dị, nhiều tình bạn đổ vỡ, nhiều vụ tự tử, nhiều kẻ bị tâm bệnh, nhiều người nóng nảy không thể tự chủ… Căn nguyên là hầu như phần lớn không mấy ai hiểu được tình yêu. Ai cũng nghĩ mình biết yêu, ai cũng nghĩ tình yêu là đẹp. Đúng! Tình yêu là đẹp, là vĩ đại hơn bất cứ điều gì trên trần gian này, vì tình yêu mở cửa Thiên Đàng. Nhưng thực tế, con người hôm nay lại chỉ thấy cửa Hoả Ngục.

Khi sợi dây tương quan không còn, khi hai thế giới xưa kia khác biệt giờ đây đã hoà nhập làm một để trở thành một thế giới mới – đó là thế giới của tình yêu. Thế giới này không phải để chiếm đoạt, thống trị, thao túng, điều khiển, nhưng để hướng đến tự do và bình an mãi nơi nhau. Không thể nào có tình yêu khi một trong hai bên muốn phụ thuộc hay bị phụ thuộc. Phụ thuộc là không tự do. Khi ta làm tất cả mọi sự cho người mình yêu, nhưng khi người kia cảm thấy không thể sống thiếu ta, hay không thể không thể sống được khi ta hết cung cấp những gì là bên ngoài, là trau chuốc cho vỏ bọc, thì ta đang làm cho người yêu ta trở nên phụ thuộc vào ta. Đây chỉ là sự ích kỷ của ta, là sự tàn nhẫn nhất, vì ta đang làm cho đối tượng bị thương mà không thể kêu đau. Triết gia Phạm Công Thiện nói: “Trong dòng sinh diệt thời gian, Tình Yêu vẫn bất diệt vĩnh cửu sẽ vượt thời gian và không gian. Ai nghĩ khôn khéo cho chính mình là người sẽ biết đối xử tốt với người khác, vì rằng, cuối cùng về lâu về dài, chính kẻ ấy sẽ được nhiều lợi lộc. Tôi gọi đó là ích kỷ cách trí tuệ”.

Trong tiếng Anh, chữ love tưởng như bắt nguồn từ tiếng Latinh là amor, nhưng không phải, mà nó lại bắt nguồn từ tiếng Phạn (Sankrit) là lobha. Nguyên nghĩa Lobha có nghĩa là sự tham lam. Tình yêu là trải rộng, cho đi, sống cho, sống vì; còn tham lam thì ngược lại, là thu vén, chiếm giữ, thống lĩnh, chỉ biết nhận, biết lấy. Chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học, chúng ta cũng đủ thấy rằng cha ông ta xưa kia rất uyên thâm về cuộc sống như thế nào mới sử dụng ngôn từ bên phương Đông một cách độc đáo như thế. Thật vậy, tình yêu và tham lam cũng đang trộn lẫn vào mỗi con người chúng ta. Có không ít cha mẹ người Việt bắt con cái học đủ thứ, và còn lên kế hoạch tương lai cho chúng, làm chúng phải “chạy” bở hơi tai. Cha mẹ kỳ vọng vào chúng, và rất hãnh diện khi chúng thoả mãn niềm ước mong của chính mình. Như vậy, không phải cha mẹ có tình yêu với con cái, nhưng chính là thống trị chúng trong lòng tham khôn khéo của mình. Con cái được đối xử như những món trang sức để tăng vẻ đẹp của bản thân cha mẹ. Tình yêu là sự sống, lòng tham thì đưa đến cõi chết. Chính vì thế, nhiều người con quá căng thẳng, hay quá bế tắc đã tìm đến cái chết, hoặc phản ứng ngược lại như quậy phá, chơi bời, bụi đời… Vì chúng không còn thấy chúng nữa. Chúng bị tước mất tự do. Chúng ta dễ ngộ nhận tình yêu, vì hầu như chúng ta sống tham lam thông qua chiếm hữu, điều khiển, thống lĩnh hơn là yêu đúng nghĩa.

Sự tham lam sẽ không làm cho hai thế giới chạm vào nhau để sinh ra tình yêu được. Người tham lam không dám liều để yêu, vì họ sợ mất thế giới của riêng mình. Họ cho rằng khi thế giới bên trong của mình bị đánh mất, thì họ sẽ chết. Nhưng họ không biết được rằng, chính khi thế giới cũ của họ mất đi, thì họ mới sống viên mãn. Chính vì thế họ ra sức giữ gìn, bảo vệ. Chỉ có người nào biết trải rộng, có nghĩa là dám liều, dám bỏ trung tâm mình để đi sâu vào trung tâm của đối tượng, mới có kinh nghiệm sự sống viên mãn này.

Cành liền thân

Hình ảnh cành nho gắn liền với thân cây nho trong Tin Mừng Gioan mà Chúa Giêsu diễn tả cho các môn đệ là hình ảnh thật đẹp về tình yêu.

Trước tiên, thiết tưởng cũng nên nhắc lại, Tin Mừng theo thánh Gioan là Tin Mừng về tình yêu, hay còn gọi là thần học về tình yêu. Tình yêu của Gioan là một thế giới mới – một thế giới được tạo dựng nên bởi hai thế giới cũ xưa kia của hai đối tượng can đảm dám liều. Đây là thế giới mà Chúa Giêsu gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Như ở đây, có nghĩa là Chúa Giêsu muốn hướng chúng ta đến cội nguồn Tình Yêu của Ngài để kín múc, để tắm gội và để hoà tan vào trong toàn thể châu thân của ta, và từ đó chúng ta sẽ tưới gội cho đồng loại đang khao khát. Tình yêu theo Thánh Gioan là con người cần phải kín múc nơi nguồn mạch yêu thương từ Chúa Giêsu thì con người mới có tình yêu đúng nghĩa, và từ đó, để trao ban.

Ở đây, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt. Không phải ta có tình yêu đúng nghĩa là do tự bản thân ta có, nhưng mà ta phải nài đến Chúa Giêsu để kín múc thứ tình yêu đó. Để có tình yêu đúng nghĩa và thật, chúng ta phải bước ra khỏi thế giới cũ kỹ của mình để đi sâu vào Thánh Tâm của Ngài – Thánh Tâm vẫn không ngừng tuôn đổ tình yêu cho con người. Tình yêu không kín múc từ Chúa Giêsu là tình yêu thế gian (x. Ga 15,19), còn tình yêu kín múc từ Ngài thì được gọi là tình yêu trong điều răn mới, là tình yêu trải rộng cho đến vô cùng như Chúa Giêsu đã trải rộng cho đến chết trên Thánh Giá.

Và Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây nho để diễn tả về tình yêu qua một dòng nhựa lưu chảy từ gốc rễ lên thân, ra đến cành nhánh, rồi đến lá kết hoa kết trái. Toàn bộ cây nho đều được nhựa sống ban sức sống cho. Khi cành nho gắn liền vào thân nho có nghĩa là đã có chung một dòng chảy nhựa sống, cho nên tương quan biến mất, và chỉ còn lại sự hợp nhất giữa thân và cành. Đến đây, có một chi tiết nhỏ rất đáng cho chúng ta suy nghĩ: điều quan trọng trong dụ ngôn cây nho chính là “cành nho”. Thánh Gioan đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ “ở trong” trong trình thuật này. Như thế, chúng ta không thể đặt dấu chấm hỏi nữa về gốc, về nhựa sống, về thân nho nữa, nhưng chính là liệu cành có ở trong, có gắn liền với thân không?

Thông thường phần đông chúng ta đòi hỏi đối tượng mình yêu hơn là chính bản thân ta. Có đôi cặp tình nhân nọ đi chơi với nhau. Nàng hỏi chàng: “Anh có yêu em không?” Chàng có vẻ tự ái, hỏi lại: “Thế còn em thì sao?” Và thế là, đôi bạn trẻ mang từ những chuyện quá khứ ra bàn cãi, nào là người yêu xưa của nàng, của chàng… Cuối cùng họ đi đến cãi nhau. Chúng ta thường nói nhiều về đối tượng trong tình yêu, nhưng không bao giờ biết tự hỏi: “Tôi thì sao? Tôi có phải là người yêu thật sự của người ấy không?” Khi chúng ta chỉ hỏi người khác, có nghĩa là chúng ta đang tham lam, đang chiếm hữu họ cách tinh tế. Đối tượng của chúng ta trở thành một con thú cho chúng ta thoả mãn. Họ không còn là người nữa trong cách xử sự của chúng ta. Vì thế, cũng thật chí lý khi người ta nói rơi xuống tình yêu (fall in love). Chữ yêu khó được hiểu đúng nghĩa của nó, nên phần lớn người ta không biết yêu, nên phần lớn đang từ trên cao người ta rơi xuống, từ cao đẹp rơi xuống nhỏ nhen, từ hồn nhiên rơi xuống hậm hực, từ người rơi xuống thành con. Khi anh ta trả lời rằng có yêu, thì chị kia vẫn sẽ thắc mắc mãi trong tâm trí: “Liệu anh ấy có thực lòng không?” Làm sao chúng ta có thể chắc chắn về người khác được. Không thể nào xác quyết một cách tuyệt đối về một ai, khi mình thậm chí còn không dám chắc chắn về mình. Nhưng cho dù anh ta phải trả lời triệu lần rằng anh ta yêu đó, thì lại càng nguy hiểm hơn vì sự thật không cần phải lập đi lập lại nhiều lần đến thế. Sự thật là sự thật, nó có ngôn ngữ riêng của nó. Chính vì thế, khi quan tổng trấn Philatô hỏi Chúa Giêsu trước khi đem ra xử tử: “Sự thật là gì?” Chúa Giêsu thinh lặng. Sự thật không nằm trong địa hạt lý trí hoặc cảm xúc. Sự thật không can chứng minh hay phải lặp đi lặp lại.

Vì vậy, điều quan trọng nhất trong tình yêu, đó là chính bản thân chúng ta. Chính chúng ta là chìa khoá mở cửa cho tình yêu toả sáng. Tình yêu đã có sẵn, đã chờ đợi, chỉ cần chúng ta can đảm đứng lên, đi đến tra chìa để mở cánh cửa ấy. “Hãy ở trong Thầy… Ai không ở trong Thầy…”. Chúa Giêsu như đã dọn sẵn tất cả những phần thưởng mà chúng ta khát mong nhất, và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Vì Ngài là Tình Yêu, nên Ngài không ép buộc, không chiếm hữu, không lôi kéo… chúng ta. Ngài mời gọi, còn chúng ta có quyền chối từ. Vì là Tình Yêu, Ngài muốn chúng ta tự do trong viên mãn. Ngài tôn trọng tự do chúng ta đến nỗi Ngài chấp nhận đau khổ khi thấy chúng ta vẫn chọn tách xa trung tâm của Ngài. Vì Tình Yêu, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta cách tuyệt đối, và Ngài đau khổ không phải vì Ngài sợ đau đớn, nhưng vì đau khổ với cái khổ đau của ta. Ngài chỉ cần chúng ta bước đến với Ngài, và chúng ta sẽ được toại nguyện: “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được”.

Lời mời gọi “ở trong” của Chúa Giêsu là lời mời gọi con người đi vào tình yêu của Ngài, để hai bên chỉ thở cho nhau, hoà quyện và hoà tan vào nhau như cành liền cây với nhựa sống tuôn chảy mãi bên trong. Chúa Giêsu mời gọi vì yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta đạt đến sự viên mãn nhất, là cứu cánh của con người chúng ta. Chỉ hoà quyện vào trong nhựa sống Ngài, chúng ta mới thể hiện chính mình cách tuyệt đối.

Tình yêu của Chúa tuyệt đối đến nỗi Ngài cho con người khả năng đáp lại hay khước từ trước tình yêu đó. Chính vì thế, khi con người được khả năng tự mình quyết định tất cả, ngay cả sống chết, ngay cả chọn cứu cánh đời mình như thế nào – một cứu cánh đưa đến hạnh phúc thật hay đưa đến trầm luân trong khổ đau – cho thấy Chúa tôn trọng con người cách tuyệt đối. Vì tình yêu, Chúa không muốn con người tách khỏi “thân nho”, vì tách khỏi thân là tự mình đánh mất hạnh phúc thật của mình.

Trong trình thuật về cây nho cành nho, chúng ta thấy đằng sau đó không chỉ là lời mời gọi yêu thương của Ngài để cho con người bước vào cứu cánh hạnh phúc của mình, nhưng hơn thế nữa, lời mời gọi đó của Ngài còn chất chứa sự van xin con người cho Ngài một ân huệ cuối cùng nào đó. Trong bữa tiệc cuối cùng, sự van xin đó rõ nét hơn khi Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để thức tỉnh các môn đệ. Trước khi chịu khổ hình và chịu chết, lời mời gọi ấy vẫn không ngừng biểu lộ qua thái độ cũng như lời nói và cho môn đệ tự chọn và tự quyết cứu cánh của mình: “Này Giuđa, anh dùng nụ hôn để nộp Con Người sao?” (Lc 22,48). Và chỉ có sự mời gọi của tình yêu chất chứa trong cái nhìn của Chúa Giêsu gởi đến cho Phêrô, Phêrô đã rung động và bừng tỉnh, ông đã bước ra khỏi chính mình để đi sâu vào tình yêu của Chúa. Giọt nước mắt lăn trên má của Phêrô là giọt nước tẩy rửa tấm gương soi cho ông thấy rõ thân phận giới hạn của ông trước tình yêu vô hạn của Thầy, cho ông thấy trung tâm ở trong ông còn xa trung tâm Thầy lắm. Giọt nước mắt này của Phêrô cho thấy từ trước tới giờ ông chưa ra khỏi chính ông để tạo nên tương quan, vì thế chưa từng nên một với Thầy. Phêrô đã quá kỳ vọng vào Thầy, quá mơ tưởng đến tương lai sáng lạn mà Thầy sẽ giải thoát dân tộc theo nghĩa chính trị. Càng kỳ vọng, càng thất vọng. Phêrô kỳ vọng vào Thầy vì Phêrô yêu chính mình. Phêrô không hiểu được tình yêu thật là gì. Cảnh tượng Thầy mình bị truy bắt và bị lôi ra xử tử đã làm đảo lộn mọi giá trị mà Phêrô đã có trong ông: Thầy của ông đang ở trước mặt ông cách trần trụi. Trần trụi là thuộc tính của tình yêu. Sự giả dối thì không trần trụi, vì nó được mặc nhiều lớp áo đẹp và hấp dẫn. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới dùng ngôn từ “Thầy là cây nho thật”. Khi hai người yêu nhau mà quá lịch thiệp với nhau, có nghĩa là cả hai đang giả dối.

Giả dối là ích kỷ và chỉ xảy ra trong mua bán đổi chác. Đôi tình nhân đó, thực sựhọ bên nhau, nhưng họ chưa từng gặp nhau, vì họ không cho trung tâm của nhau chạm vào. Họ không thể trở thành hơi thở của nhau nên họ chưa bao giờ có tình yêu. Vì thế, họ chỉ là trò chơi của nhau mà đôi bên đều vui. Tình yêu không phải là trò chơi hay tương quan suy tính lợi hại. Tình yêu là sức sống và sẽ thăng hoa nhân vị. Tình yêu thật thì mang tính tâm linh.

Cành nho gắn vào thân nho là sự trần trụi, là sự thật, vì cành và thân nho có như thế nào đều biết được lẫn nhau, vì họ có chung một dòng nhựa sống bên trong. Chính vì thế, tình yêu phải là sự hiệp nhất và chân thật. Thân nuôi cành và cành sẽ cho hoa trái.

Chúa Giêsu – là thân nho đã yêu thương sinh ra cành nho – con người chỉ có thể sống viên mãn khi gắn kết vào Ngài qua dòng nhựa sống của tình yêu không ngừng muốn chảy tràn trề trong họ. Để từ đó, tất cả những gì con người có đều là từ Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Mong sao, từng hơi thở ra-vào của chúng ta cũng chính là hơi thở trong Hơi Thở của Chúa. Từ đó, chúng ta mới có thể mạnh mẽ và nhiều nội lực để tiếp sức cho những ai đang thoi thóp và héo khô.

Chúa là dưỡng chất nuôi sống con người, nên việc ở lại trong Chúa là tối quan trọng để con người thể hiện tuyệt đối tự do và cứu cánh đời mình, ngoài ra, không còn chỗ nào khác. Chỉ có thân nho thật mới mang sức sống, thế mà phần lớn mọi người vẫn cứ bám vào những cây nho giả vốn được trang hoàng rất đẹp và nhiều lời gọi mời hứa hẹn rất hấp dẫn đang lan tràn trên khắp thế giới ngày nay… Cái thật thì thầm lặng, không nhiều lời, nhưng đang hiện hữu, ngay lúc này đây, dù cái thật có bị khước từ hay đón nhận, cái thật vẫn toả sáng toả hương, như những đoá hoa đồng nội, dù ai có ghét hay thương, hoa vẫn nở.

Lạy Chúa Giêsu, “nếu không có Thầy, chúng con không thể làm được gì”. Amen.

 

 

 

 

 

85. Một kết quả đã biến đổi thế giới

(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)

 

Tuy là những Kitô hữu, có lẽ chúng ta cũng đã có lần tự hỏi: Kitô Giáo đã thực sự cải thiện được gì trong thế giới? Đến nay đã hơn hai ngàn năm trôi qua kể từ khi Đức Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa: Một viễn tượng về một thế giới hòa bình, tự do và công bằng! Nhưng người ta sẽ tìm đâu ra được một thế giới lý tưởng như thế? Người ta sẽ tìm đâu ra được những ảnh hưởng, những hoa quả của một tôn giáo lấy Đức Giêsu làm cứu cánh? Vì tình trạng ích kỷ, bạo động, bóc lột, hận thù, đàn áp và nghèo đói vẫn tiếp tục tồn tại trên cuộc sống nhân loại. Thế giới vẫn như cũ, hầu như không hề có gì thay đổi. Nhiều người đã phải chấp nhận thực tại đó và đành cam lòng chịu đựng. Họ chủ trương: Có lẽ một ngày nào đó sẽ có được một thực tại lý tưởng như trong Nước Thiên Chúa, nhưng điều đó chỉ có ở bên kia thế giới! Con người và thế giới muôn đời vẫn thế, khó lòng đổi thay được, dù bất cứ quyền lực nào – thế quyền hay cả thần quyền – cũng không đổi thay được, nếu không sẽ xúc phạm đến quyền tự do căn bản của con người.

Tiếp đến, sự hoài nghi về Thiên Chúa. Người ta sẽ đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không biến đổi thế giới? Nếu Thiên Chúa toàn năng, tại sao Người lại cứ để cho cuộc đời đầy khổ đau như thế mãi? Trước những câu hỏi nghiêm chỉnh và cụ thể như thế, bài Phúc Âm hôm nay đã đưa ra một câu trả lời hết sức thỏa đáng: Để trả lời, Đức Giêsu kể cho thính giả của Người nghe dụ ngôn “Cây nho và cành nho”. Bổn phận của cành nho là đâm hoa kết qua xum xuê đầy cành. Trong khi đó cây nho lại thông chuyển cho các cành nho nguồn nhựa sống và sức mạnh, để các cành nho có thể đâm hoa kết quả được. Cái hình ảnh về sự tương quan mật thiết giữa cây nho và cành nho như thế đã được Đức Giêsu giải thích như sau: “Thầy là cây nho, các con là cành nho”. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đâm hoa kết trái, và Đức Giêsu ban cho chúng ta sức mạnh và các khả năng cần thiết để hiện thực được điều đó!

Nhưng thứ hoa quả được đề cập tới ở đây là thứ hoa quả nào? Chính Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi đó khi Người nói về cây nho và cành nho. Người nói: “Các con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Vậy, thứ hoa quả mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải mang lại trong suốt cuộc sống mình là tình yêu. Tình yêu mà chúng ta đã được lãnh nhận từ Thiên Chúa, chúng ta phải tiếp tục thông ban cho người khác như nhựa sống từ thân cây nho thông ra và lưu chuyển giữa các cành nho vậy.

Vâng, thân cây nho chuyển thông cho các cành lá nhựa sống và sức mạnh. Nhưng công việc đâm hoa kết quả là phận sự của cành nho, chứ không phải của thân cây. Đúng thế, Thiên Chúa ban cho con người sức mạnh, các khả năng, các ơn thánh, nghĩa là các phương tiện; Còn việc mang lại hoa quả là bổn phận của con người, việc kiến tạo một thế giới an bình và tươi đẹp là bổn phận của chúng ta. Vâng, bổn phận của chúng ta là phải sống và thực thi tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu đã đổi mới thế giới. Chúng ta phải tiếp tục thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa đến tất cả mọi đồng loại. Thiên Chúa cần đến chúng ta. Thiên Chúa cần đến mỗi người trong chúng ta theo khả năng mà Người đã ban cho từng người. Và nếu mỗi người biết đem khả năng đó của mình để cộng tác vào cuộc sống xã hội và thế giới, đương nhiên sẽ mang lại hoa trái.

Nhưng cành nho tự mình không thể đâm hoa kết trái được, nhưng phải nhờ có sức mạnh và nhựa sống từ thân cây thông chuyển cho. Điều đó có nghĩa là mọi điều thiện hảo chúng ta làm cũng như mọi tình yêu chúng ta trao ban, đều phát xuất từ Thiên Chúa. Còn chính chúng ta, tự bản chúng ta không thể làm được bất cứ điều gì thiện hảo. Vâng, chúng ta chỉ mang lại những hoa trái có giá trị và lành thánh, nếu Thánh Thần Thiên Chúa hành động qua chúng ta. Qua tình yêu của con người, Thiên Chúa hành động trong thế gian. Sự liên đới vô vị lợi với những người nghèo khổ và những người bị coi khinh, sự kính trọng đối với mọi người, sự khước từ bạo động và mù quáng chạy theo danh vọng, sự tôn trọng sự sống con người và môi trường thiên nhiên, v.v… là tất cả những điều mà thế giới hôm nay cần đến hơn bao giờ hết, và tất cả đều phát xuất từ Thiên Chúa.

Tuy nhiên, hình ảnh về “cây nho và cành nho” này xem ra vẫn còn xa lạ đối với một số Kitô hữu nào đó trong chúng ta. Con người chúng ta rất khó tin được rằng qua chúng ta tình yêu Thiên Chúa có thể biến đổi được thế giới. Chúng ta thường tin vào khả năng nhân loại của chính mình hơn! Chúng ta cho rằng tự mình, chúng ta có thể mang lại hoa trái. Nhưng thực ra, chúng ta chỉ có thể mang lại hoa trái trong cuộc sống, nếu chúng ta biết rộng mở lòng mình để đón nhận nhựa sống ơn thánh của Thiên Chúa. Qua mỗi người trong chúng ta, sức sống thần thiêng đó hoạt động và có thể làm cho thế giới trở thành nhân bản hơn và nhờ đó trở thành Kitô giáo hơn. Vậy, các cành nho đâm hoa kết quả đúng với danh xưng của mình, thứ hoa quả làm vui lòng người và đổi mới được thế giới!

Tóm tắt, ở bất cứ nơi nào con người cảm nhận được tình yêu của những đồng loại của mình và qua đó cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, thì ở đó thế giới tự đổi mới. Thế giới nhờ thế sẽ trở nên nhân bản hơn. Vậy, thế giới có tiếp tục phát triển đúng với thánh ý Thiên Chúa hay không, tất cả hoàn toàn đều tùy thuộc vào chúng ta. Ở đây, có lẽ chúng ta có thể nói được rằng: Khi dựng nên thế giới Thiên Chúa không cần con người, không cần sự cộng tác của con người, nhưng để biến đổi thế giới trở nên nhân bản và tươi đẹp hơn, nhất thiết Thiên Chúa phải cần đến con người, cần đến sự góp tay của con người, vì Người tôn trọng sự tự do của con người! Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh qua Lời Người, qua các Phép Bí Tích và qua sự trợ giúp đầy yêu thương của Người dành cho loài người chúng ta. Do đó bổn phận của chúng ta vẫn luôn là: phải đâm hoa kết quả, nghĩa là phải tiếp tục thông ban cho mọi anh em đồng loại sự trợ giúp đầy yêu thương của Thiên Chúa!

 

 

 

 

 

86. Thầy là cây nho đích thực – ThapGia

 

Người làm vườn giỏi thì họ biết cắt tỉa cành để nó sinh nhiều hoa trái… Người Kitô hữu được Chúa nói đến trong bài Dụ Ngôn Tin Mừng hôm nay, chính là cành nho, Chúa Giêsu chính là thân cây nho, Chúa Cha là người trồng nho. Cha là ông chủ vườn sẽ tỉa cành để người Kitô hữu “sinh nhiều hoa trái” hơn. Người Kitô hữu được Chúa Cha cắt tỉa sẽ “sinh nhiều hoa trái”. Đó là là những tiến bộ về tâm linh đầy tràn nhân đức phong phú tốt lành nơi người Kitô hữu con cái của Cha.

Chúa Cha sẽ tỉa cành giúp người Kitô hữu bỏ bớt những bận tâm lo lắng sự đời quá sức mà tập trung năng lực vào việc thăng tiến đời sống thiêng liêng thánh đức. Ngài có thể làm điều đó bằng cách “cắt xén” làm cho người Kitô hữu phải đau đớn, bị thiệt thòi mất mát về vật chất cũng như tinh thần… hoặc cho người đó phải trải qua những gian truân thử thách. Như “lửa thử vàng – gian nan thử nhân đức”, những gian khổ tôi luyện người Kitô trong đời sống đức tin, có khả năng thánh hóa bản thân và tha nhân rất hữu hiệu.

Đức Kitô Con Chí ái của Cha rất thánh thiện cũng bị Chúa Cha tỉa cành. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã làm một việc thích đáng là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa mọi người tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10). Nhờ cam chịu khổ hình mà Chúa Giêsu đã trở nên nhà lãnh đạo tuyệt hảo “Nào Đức Kitô lại chẳng chịu khổ hình như thế rồi mới được vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,25). Người Kitô hữu muốn “sinh nhiều hoa trái” dứt khoát phải “Ở lại“ và “Gắn liền” với Chúa Giêsu Kitô.

Làm sao để ở lại và gắn liền với Đức Giêsu Kitô? Một người mang danh hiệu là Kitô hữu (thuộc về Đức Kitô); nhưng xem xét lại mình chẳng có tinh thần Kitô hữu, “hữu danh vô thực”, Thánh Phaolô nói tình trạng tương tự như vậy trong Do Thái giáo (x.Rm 2,17–23). Nhiều Kitô hữu xem ra có vẻ rất ngoan đạo, siêng đi dâng lễ, rước lễ hằng ngày, lại hăng hái nhiệt thành những công việc liên quan đến nhà thờ, hội đoàn, công tác tông đồ đấy! Nhưng đời sống lại chẳng toát lên tinh thần Kitô giáo khi sống thiếu bác ái, công bình, chân thât, yêu thương, thông cảm, tha thứ…

Người Kitô hữu hôm nay trở thành môn đệ đích thực của Chúa Kitô phải chịu để bị cắt tỉa. Thiên Chúa Cha mời gọi chúng ta chia sẻ nỗi đau khổ của Chúa Giêsu Con Chí Ái của Ngài, để cùng được tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Ngài “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta cùng được hưởng vinh quang bất diệt với Người” (Rm 8,17); “được cùng chia sẻ đau khổ với Đức Kitô bao nhiêu anh em sẽ vui mừng bấy nhiêu, để vinh quang người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ” (1Pr 4,13); “Phần anh em là những kẻ chịu đau khổ ít lâu. Chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10); “những đau khổ chúng ta chịu sánh sao với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải cho chúng ta” (Rm 8,18). Thánh Phaolô cũng khuyên chúng ta đùng sợ hãi trước những đau khổ: “Nếu anh em chịu đau khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1Pr 3,14)

Người Kitô hữu không đi tìm đau khổ, nhưng khi đau khổ đến, người lành thánh vui mừng chấp nhận đau khổ, chẳng những thánh hóa mình mà còn làm cho những người khác nên công chính thánh thiện nữa “Vì đã nếm mọi đau khổ, người công chính tôi trung của Ta; sẽ làm cho muôn người trở nên công chính và sẽ gánh được tội lỗi của họ” (Is 53,11). Người Kitô hữu chấp nhận đau khổ thiệt thòi, cực hình, mất tiền, mất thì giờ, mất sức khỏe, bị nghi ngờ, hàm oan… vì qua tha nhân là một hành vi bác ái, là phương tiện chúng ta thực thi đức yêu thương. Người Kitô hữu biết chấp nhận đau khổ mà nhiều người nên công chính hạnh phúc. Vì thế; người có lòng yêu mến Chúa đích thực sự sẵn sàng lợi dụng mọi hoàn cảnh đau khổ của mình để sinh ích cho kẻ khác.

Để sinh nhiều hoa trái người Kitô hữu phải ở lại gắn liền với Đức Kitô. Chúa Kitô chính là ngưồn sức mạnh vô biên của chúng ta, Ngài quyền năng làm được mọi sự hoàn hảo, vì thế; chúng ta luôn tin tưởng phó thác cho tình yêu của Ngài, và chắc chắn sẽ được ngài che chở bình an “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn e sợ nỗi gì… (Tv 23)

Chúng ta luôn yêu mến và qui hướng về Ngài là trung tâm cuộc sống để chúng ta dấn thân theo Ngài một cách quảng đại, không tính toán so đo, đồng thời gắn bó và yêu thương tha nhân như chính Ngài đã yêu.

Chúng ta luôn làm theo thánh ý của Ngài qua mọi nghịch cảnh trong cuộc đời. Chính Ngài là nguồn sức mạnh là an vui hạnh phúc của chúng ta.

Lời Chúa phán: “Nếu các con ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong các con, thì muốn gì, cứ xin sẽ được”. Xin cho chúng con được hiệp nhất nên một trong Đức Kitô để lời hứa của Chúa sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng con.

Lạy Cha! Cha là nguồn sức mạnh vô biên, tình yêu của muôn loài muôn vật. Chúng con muốn kết hợp với Cha để nhận được sự sống, sức mạnh, tình yêu và một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc hơn, và xin Cha cho những ai tiếp xúc với chúng con cũng nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu dào dạt của Cha tuôn chảy đến cho mọi người. Amen.

home Mục lục Lưu trữ