Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 34

Tổng truy cập: 1374078

THẦY NÓI CHO CÁC CON BIẾT

“Thầy nói cho các con biết!”

 

Chúa Giêsu không đưa ra một luật mới nhưng là một cách mới để hiểu luật cũ và mọi luật lệ khác. Chúng ta không phải là những người không có luật lệ. Nói “chỉ cần yêu là đủ” là đúng nếu chúng ta thêm rằng đây là một điều luật và phải áp dụng luật đó với những chi tiết luật rõ ràng: đừng giận hờn, đừng có ý xấu, đừng ly dị, có thì nói có không thì nói không, đừng trả thù, yêu thương chính kẻ thù của chúng ta.

Có những điều rất khó thực hành đến nỗi chúng ta cảm thấy ở trong một bầu không khí rất đặc biệt: sự bó buộc vô cùng của Tin Mừng. Bao lâu chúng ta không lượng định sự bó buộc này thì chúng ta vẫn ở trong môi trường lề luật mà Chúa Giêsu mạnh mẽ chống lại. Đó là dấu hiệu cho thấy sự cám dỗ rất mạnh và rình rập tất cả chúng ta.

Kiểu nói trịnh trọng (“Thầy nói cho các con biết!”) là một sự khiêu khích. Ngài nói với ai câu này: “Nếu các ngươi không ăn ở chính trực hơn các luật sĩ và Pharisêu, các ngươi chẳng được vào Nước Trời?” Ngài nói với những người khâm phục sự thông tuệ thực sự của các luật sĩ và nỗ lực nên thánh của các Pharisêu.

Vậy đâu là điều xấu? Hay đúng hơn đâu là sự thiếu sót bởi vì phải vượt qua sự thiếu sót đó? tôi không thể nói chi tiết sáu điều đối kháng nhau “Người ta nói với các con, phần Ta, Ta bảo các con”. Tôi chỉ mời gọi các bạn suy niệm về động thái sâu xa phát xuất từ công lý của Pharisêu để dẫn dắt chúng ta đi xa hơn bằng một cách khác!

Dầu sao thì tôi cũng lầm khi nói về “những điều đối kháng”, mà là có sự liên tục. Chúa Giêsu nói rõ điều đó với chúng ta. Đây không phải là vấn đề bỏ rơi luật cũ để xây dựng luật hoàn toàn mới: “Các con đừng nghĩ rằng TA đến để phá luật lệ hoặc lời các tiên tri. Ta đến không phải để phá mà để làm cho hoàn hảo”. Đây không phải là vấn đề tôn trọng quá khứ, lại càng không phải là lòng luyến tiếc quá khứ. Chúa Giêsu tự do đối với tất cả đến nỗi sự tự do tuyệt đối duy nhất này là một trong những dấu hiệu của thần tính của Ngài. Ngài nói một cách ung dung: “Ta đến để...” Môisê nào, sứ ngôn nào có thể nói lên một điều như thế? Trước Ngài người làm luật và vị sứ ngôn nói nhân danh Chúa, phát xuất từ cuộc sống của mình và từ các biến cố. Chúa Giêsu nói với tư cách là Chúa, phát xuất từ một nguồn gốc huyền bí và một sự hiểu biết rõ ràng về các khả năng của con người cũng như về những bó buộc của Chúa. Ngài là người làm luật tối cao và quyết định. Sau Ngài, không ai quả quyết rằng: “Chúa Giêsu đã nói thế này, nhưng tôi bảo cho các bạn biết...”

Và dầu vậy, Ngài nhắc lại điều “đã được phán dạy” (cách nói kín đáo và tôn trọng có nghĩa là”Thiên Chúa đã nói”). Rõ ràng đó là lời của Thiên Chúa. Lời đó có bất toàn hay không? Ở đây chúng ta đứng trước điều mà Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta: sự vượt lên trên. Qua nhiều tiếng nói Thiên Chúa đã đề ra những điều luật chính yếu: chớ giết người, đừng ly dị, sống chân thật, giới hạn sự trả thù. Điều đó đã được thích nghi với những thời kỳ khó khăn và nay vẫn còn giá trị. Nhưng chỉ có điều là hành động mà thôi! Điều này đòi hỏi đừng làm bất động cái gì cả, đừng giam hãm công bằng và sự thánh thiện trong một danh sách những điều phải làm hay không được làm: phải có khả năng phản ứng tốt trước điều mới lạ.

Chúa Giêsu không phải đến để thêm vào một vài qui định tinh tế hơn mà là để mạc khải bí mật làm cho luật lệ tinh tế hơn. Chữ nghĩa trong luật là rất cần thiết (“Dầu một nét trong luật cũng không bỏ qua được”) nhưng chi tiết luật đó chỉ có giá trị nhờ tinh thần mà chúng ta chu toàn. Chúa Giêsu cho chúng ta biết chỉ có một tinh thần mà thôi, đó là tình yêu thương. Chúng ta có thể gọi đó là luật mới, nhưng tốt hơn nên xem đó như là nguyên nhân và thước đo của mọi luật lệ.

Hoặc là sự quá mức! Đó là điều làm cho cuộc sống của người Kitô hữu rõ ràng vàkhó khăn biết bao! Không phải là tự hỏi chúng ta có thể tiến bước mà không phạm tội cho tới đâu, nhưng chúng ta có thể yêu thương đến cùng như thế nào:

“Chúa Giêsu đã yêu thương con người và yêu thương họ cho đến cùng”. Thánh Gioan nói như thế khi bắt đầu thuật lại cuộc khổ nạn. Đó là sự vượt lên trên được dạy ở đầu bài giảng trên núi. Từ việc “chớ giết người!” trong luật cũ đến “Hãy yêu thương kẻ thù của ngươi!”, sự vượt lên trên không phải là một sự đối kháng hoặcmột điều được thêm vào. Đó chính là sự điên rồ của Tin Mừng: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con trên Trời là Đấng trọn lành”.

Bạn hãy đi xa hơn tất cả những gì bị cấm đoán hoặc được qui định, bạn hãy đi xa hơn tình yêu thương. Chắc chắn, không được giết người, nhưng có biết bao nhiêu cách để làm hại kẻ khác. Bạn hãy hồi tâm thật sự, xua đuổi những ước muốn làm hại nhỏ nhặt nhất. Bạn hãy xem xét ý muốn yêu thương, chữa trị nó nếu nó bệnh hoạn, củng cố nó nếu nó yếu đuối. Khi bạn thật sự muốn yêu thương, thì bạn sẽ hoàn toàn gắn bó với Chúa Kitô. Thế là bạn có thể nghĩ ra cách sống giữa các luật lệ.

 

 

 

 

 

19. Chọn lựa – Lm Vũ Đình Tường

 

Chọn lựa là chọn cái vừa ý, điều hài lòng, lựa cái ưa thích. Không phải bất cứ điều gì mình ưa thích đều tốt cả và điều mình ưng ý người khác cũng đồng thuận.

Có điều tôi thích; người ghét.

Có tội tôi quên; người nhớ.

Có phim tôi sợ; người mê.

Món ăn tôi ưa; người chán.

Có sách tôi đọc; người chê.

Chuyện tôi chê; người chuộng.

Có điều tôi tươi; người héo.

Có điều tôi than; người thích.

Câu tôi hài lòng; người đau.

Điều tôi tin; người ngờ...

Muốn chọn đúng cần có kinh nghiệm, nếu không sẽ chọn lầm, lựa sai. Không tin cứ hỏi những người ham của rẻ, mua đồ chợ trời thì rõ. Sớm muộn gì cũng có lần mua lầm, chọn sai. Mình tinh mắt, kẻ chuyên bán đồ giả ranh hơn một bậc.

Sơ hở

Chọn lựa có hai thái cực trái ngược. Có chọn tất có loại. Có lựa tất có so sánh lấy, bỏ. Lựa theo sở thích không phải luôn chọn điều tốt vì sở thích thì khác nhau. Người thích điều tốt lành. Kẻ ham ăn chơi. Kẻ kín miệng; người khoe khoang. Tự do chọn lựa kèm theo trách nhiệm. Hậu quả chọn lựa ảnh hưởng lâu dài. Đôi khi kéo dài tới đời con cháu. Thí dụ gia đình công khai phê bình, chỉ trích Giáo Hội, con cái mất lòng mộ mến. Đến đời cháu rất có thể mất niềm tin.

Khôn ngoan

Cần ơn khôn ngoan để chọn đúng. Thiếu ơn khôn ngoan sẽ chọn sai. Có hai loại khôn. Khôn trần thế và khôn nước trời. Cả hai đều do Chúa ban. Khôn nước trời mặc khải Chúa hằng hữu. Khôn trần thế giúp nhận ra khôn nước trời để học hỏi, hiểu biết thêm về Chúa. Tài cao học rộng, kiến thức siêu phàm chưa chắc đã khôn. Sống đời bình dị, chân lấm tay bùn, nghèo kiến thức nhưng lại khôn. Sai lầm lớn nhất của giới trí thức là đồng hoá kiến thức với khôn ngoan. Có người nghĩ mình khôn, dựa vào kiến thức học được, chối bỏ Chúa. Quả là dại. Đức tin, không phải do kiến thức, mà nhờ mặc khải, ơn Chúa ban. Mặc khải không phải là kiến thức mà là ơn khôn ngoan. Từ chối ơn khôn ngoan không nhận biết Chúa. Họ sẽ tin vào kiến thức khoa học thực nghiệm, tin vào suy nghĩ của trí óc.

Dùng kiến thức, hiểu biết sáng tạo niềm tin mới hay chối bỏ Chúa là làm sai chức năng của kiến thức. Chúa ban cho con người tài trí, hiểu biết, để học hỏi củng cố, đào sâu niềm tin. Con người nhận những ơn đó, đã không tạ ơn, còn vô ơn, chối bỏ Chúa. Kinh nghiệm có thay đổi. Nhận định lúc tỏ, lúc mờ. Lí luận kĩ mấy cũng có sơ hở. Khó tránh khỏi thiên kiến, chủ quan khi nhận định. Ơn khôn ngoan vững bền vì đến từ Chúa.

Khôn trong Chúa

Niềm tin vô hình nên cần sức mạnh vô hình hỗ trợ. Sức mạnh đó là ân sủng Chúa giúp phán đoán, nhận định. Lời Chúa đóng vai chủ động hướng dẫn niềm tin. Yếu kém Lời Chúa niềm tin u mê, mù mờ. Tin Chúa mà không để Chúa làm việc là mâu thuẫn từ trong tâm hồn. Từ bỏ ý mình, sống theo ý Chúa là hợp lí, là khôn ngoan vì Lời Chúa là đèn soi tâm hồn, chiếu dọi miền u tối, toả sáng giúp nhận biết đúng sai.

Người môn đệ khôn ngoan là người biết lắng nghe Lời Chúa và đem Lời Chúa ra thực hành trog cuộc sống. Họ là muối, là men, là ánh sáng đem Đức Kitô cho thế giới. Muối và ánh sáng của họ khác muối và ánh sáng gian trần vì đến từ Chúa.

Vì thế Đức Kitô xác quyết với thế gian là môn đệ trung tín của Ngài ăn ở công chính hơn hẳn các người khác. Công chính hơn cả các bậc thầy, người lãnh đạo trong dân, hơn cả Kinh Sư và người Pharisiêu. Vì sao vì họ là những người có ơn Chúa. Ơn khôn ngoan thể hiện qua niềm tin vào Đức Kitô và thực hành niềm tin đó bằng cách bảo vệ, nâng cao, tôn trọng sự sống dù ở bất cứ đâu, lứa tuổi nào, giai cấp nào. Sự sống con người cần được bảo vệ. Bảo vệ sự sống bằng yêu thương và tha thứ. Bảo vệ sự sống bằng cách bảo vệ thiên nhiên, rừng sâu, núi cao, biển rộng, sông dài, hầm mỏ và mọi sinh vật sống nhờ chúng. Bảo vệ sự sống bằng lối sống yêu thương tha thứ để được sống bình an. Cảm nhận được những ơn trên nên họ không ngớt lời cảm tạ Chúa. Họ biết ơn và thi ơn cũng như chân thành trong lời nói và hành động

Khuôn vàng, thước ngọc họ theo đuổi là

Yêu người như yêu mình

Không làm cho người điều gì mình không muốn người làm cho mình

Đây là những hướng dẫn mới mẻ Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu thực hành trong cuộc sống. Mt 7,12. Thánh Phaolô diễn tả cách sống này trong thư Roma 13,8 như sau

Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân, tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật.

Đức ái

Giáo lý của Ngài tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người. Đức ái là giới răn quan trọng nhất trong cuộc sống người Kitô hữu. VìYêu, Chúa gọi ta vào đời. Ta sa ngã Chúa cứu chuộc. Ta mất ơn nghĩa tử Chúa cho làm kẻ thừa tự. Ta chết trong tội Chúa ban sự sống đời đời. Nhận biết những điều trên để dâng lời tạ ơn là sống khôn ngoan. Kitô hữu có bổn phận học và thực hành, yêu người khác như Chúa yêu ta. Giữ trọn lề luật mà thiếu yêu thương là phạm luật. Luật đến từ con tim yêu mến, thứ tha. Bỏ luật con tim là bỏ luật Chúa. Thờ phượng Chúa mà thiếu thực hành đức ái đến từ đức tin nông cạn.

 

 

 

 

 

20. Tự do tuân giữ lề luật - Lm. GB. Trần Văn Hào

 

Tinh thần tự do và việc tuân giữ lề luật.

Xã hội hôm nay luôn đề cao chủ trương ‘Sống và làm việc theo pháp luật’. Đã có một thời người ta vẫn nhắc đi nhắc lại khẩu hiệu ‘Không có gì quý hơn độc lập và tự do’. Tự do và tuân thủ pháp luật là cặp phạm trù luôn đi song đôi mà trong bất cứ tổ chức nào, người ta vẫn thường hay nhắc tới. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh về 2 điều này. Ngài khẳng quyết: “Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn. Cho đến khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật sẽ không qua đi”(Mt 5, 18). Nhưng Đức Giêsu đã mặc cho lề luật cũ một tinh thần mới, đó là chiều kích nội tâm với sự tự do đích thực. Tuân thủ lề luật một cách cứng ngắc và vụ hình thức sẽ giết chết chúng ta, nhưng trong tự do của Thần Khí, chúng ta sẽ đi vào cốt lõi của lề luật như lời giải thích của Chúa Giêsu hôm nay.

Luật trong Cựu ước.

Trong trình thuật Tin Mừng, Chúa Giêsu đã 4 lần nhắc đi nhắc lại: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng...” Ngài nêu ra 4 ví dụ tiêu biểu về luật cũ, và giải thích theo tinh thần mới.Luật cũ mà người Do Thái vẫn tuân giữ rất cặn kẽ được viết lại trong sách Torah. Bộ sách gồm 5 quyển, chứa 613 điều khoản, gồm 365 khoản cấm và 248 khoản buộc. Ngoài 613 điều khoản này, Do Thái giáo theo dòng thời gian còn qui định thêm những tập tục khác và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Các tập tục đó được tóm lược trong bộ sách Talmud. Có nhiều tập tục đã quá lỗi thời và lạc điệu ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, ví dụ việc giữ ngày Sa- bát 1 cách rất chi tiết và nặng hình thức. Cụ thể như trong ngày Sa-bát, người Do thái không được đi xa hơn 1000 bước chân, không được tắm rửa, không được soi gương, không được mang răng giả v.v..Có lần các môn đệ Chúa Giêsu đã bứt lúa để ăn trong ngày Sa-bát vì đói và đã bị những người Pharisiêu khiển trách (Mc 2, 24). Những lề luật và những tập tục cũ đã trở nên như một gánh nặng cho dân chúng (Mt 11,28), và Đức Giêsu đã đến để ‘giải phóng’, giúp trút bỏ những gánh nặng cồng kềnh ấy để con người chúng ta được tự do hoàn toàn.

Luật trong Tân ước.

Chúa Giêsu đến trần gian để thiết lập một giao ước mới. Trong giao ước đó, Ngài chỉ nêu ra 1 khoản luật duy nhất, đó là luật của tình yêu. “Thầy để lại cho anh em 1 điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”(Ga 13,34a). Mô thức của lề luật mới mà Chúa đã thiết định chính là cái chết của Ngài trên Thập giá. Vì thế, chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu mới có thể nói cho các học trò của mình: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34b). Chúa Giêsu không phải là một nhà mô phạm lý thuyết. Ngài quảng diễn bài học yêu thương qua chính hình ảnh cụ thể nơi Ngài. Chúng ta hãy đọc lại thư Rôma, trong đó Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất sâu sắc về khoản luật mới này. Ngài viết: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật” (Rm2,29b). “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới chứ không phải theo văn bản cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh Tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức đơn giản và viết cách vắn gọn: “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,16). Từ chương 5 đến chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa thế nào là việc thực hành lề luật mới, bằng cách sống theo Thần khí. ‘Spiritus’ có nghĩa là ‘Thần Khí’ và spiritus cũng có nghĩa là tinh thần (của lề luật). Thánh nhân đã tóm kết: “Lề luật (cứng ngắc) thì giết chết, nhưng tinh thần của lề luật, tức sống theo Thần Khí mới làm cho chúng ta sống (Lex occidit, Spiritus vivificat).

Người biệt phái ngày xưa giữ luật rất nghiêm túc và tỉ mỉ. Xét bề ngoài, họ là những con người rất đạo đức. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ vạch trần thái độ cao ngạo trịnh thượng và sự rỗng tếch nơi họ. Họ đến trình diện trước Chúa chỉ để khoe khoang những thành tích đạo đức giả tạo nơi mình. “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng 1 phần 10 huê lợi của con cho Chúa” (Lc 18, 12). Chúa Giêsu đã nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Nhiều khi, chúng ta cũng giữ đạo một cách máy móc và giả hình giống như thế.

Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”(trích trong sách Tự thuật). Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn mỗi người chúng ta. Một nhà tu đức đã nói: “Khi chúng ta đến trước mặt Chúa, Chúa không thích chúng ta trưng ra những bằng khen hay những giấy khen. Chúa cũng chẳng ưa ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực để phô diễn những kỳ tích đạo đức của mình. Điều Chúa thích nhất, là Ngài cứ mân mê sờ nắn những vết sẹo hằn sâu nơi tâm hồn con người. Những vết sẹo đó là dấu tích tội lỗi chúng ta đã phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành”.

Kết luận

Cha Anthony de Mello đã viết một câu chuyện ngắn như sau. Một ông vua nọ rất trác táng, suốt ngày chỉ lo nhậu nhẹt và lao vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sĩ già với áo quần cũ kỹ, nhầu nát, còn khuôn mặt thì nhợt nhạt và xanh xao. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sĩ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sĩ già. Nhìn áo quần lếch thếch và gương mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sĩ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, Ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn tôi nhìn khuôn mặt đức vua trông giống như một vị thánh.” Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?” Vị tu sĩ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh”. Nói xong, vị tu sĩ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.

Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một vị thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong Giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm nơi chính mình để tìm ra câu trả lời.

 

 

 

 

 

21. Kiện toàn lề luật.

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

 

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong nước trời.

Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31).

Kiện toàn luật Môsê và các tiên tri là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

1- Thẩm quyền đó là thẩm quyền nào? “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy”. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã hỏi Người như thế (Mc 11,28).

Để thấy rõ thẩm quyền của Đức Giêsu, ta cần xét đến lời tuyên bố và nội dung kiện toàn lề luật của Ngài.

Trước hết, lời tuyên bố. Xưa, chính Môisê không dám tự mình tuyên bố ban lề luật, dầu ông là vị lãnh đạo vĩ đại nhất lịch sử dân Do Thái. Ông luôn luôn nói: “Này điều Thiên Chúa truyền dạy...”, chỉ khi chính Giavê Thiên Chúa ban bố lề luật, Thánh Kinh mới viết: “Thiên Chúa phán với Môisê rằng:...”, như trường hợp tuyên bố Thập giới ở núi Sinai (Xh. 19, 9-10; 21, 2-22)

Kiểu nói đó bộc lộ chỉ có Thiên Chúa mới có thẩm quyền ban bố lề luật mà thôi. Cùng một kiểu nói như thế, Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ và dân chúng rằng: “Thầy bảo anh em biết...”. Mỗi lần kiện toàn một điều luật, Ngài lại nói: “Thầy bảo anh em biết...”, chứng tỏ thẩm quyền của Ngài là thẩm quyền Thiên Chúa.

Thứ đến, xét về nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay:

Người Do Thái cũng như chư dân chỉ nhằm cấm những hành vi phạm pháp cụ thể bên ngoài như giết người, ngoại tình, bội thề, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta không thể biết được những tội phạm thầm kín trong lòng người, cho nên không có quyền xét xử tội về tư tưởng con người, chỉ có Thiên Chúa thấu suốt những gì kín đáo bí ẩn mới đủ thẩm quyền xét xử.

Đức Giêsu cũng cho ta thấy Ngài có quyền xét xử các hành vi tội phạm bên ngoài cũng như bên trong, nên Ngài truyền dạy phải trừ khử những thèm muốn, giận hờn, ghen ghét ngay từ trong lòng người, là nguồn gốc phát sinh những hành vi tội ác bên trong. Ngài đã gọi đám đông đến mà bảo: “Xin mọi người nghe Tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì bên ngoài vào làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm ô uế con người. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu...” (Mt 7,14-15.21). Cho nên, muốn kiện toàn lề luật, muốn con người sống hoàn hảo, phải thanh tẩy nội tâm con người. Cái tâm chân chính sẽ hướng dẫn con người sống chân chính. Nguyễn Du, một thi sĩ bậc nhất Việt Nam, đã thấy rõ điều đó: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Khổng Tử đã huấn luyện các môn đệ trở thành người quân tử đã lấy chính tâm, thành ý làm nền tảng, vì “tâm quảng, thể bàn”, tâm quảng đại làm cho thể xác vững mạnh như bàn thạch (Đại học, chương IV).

Phương ngôn Tây Âu cũng nói: Tâm trí lành mạnh làm cho thân thể cường tráng - “mens sana in corpore sano”.

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết mà Thiên Chúa muốn là lề luật, không phải để ngăn cấm, răn đe những điều tiêu cực, những diều xấu như luật loài người; luật Thiên Chúa chính là thực thi những điều tích cực, những điều tốt, tạo niềm tin vào Thiên Chúa tốt lành vô cùng để dẫn đưa con người trở về với Thiên Chúa. Đó là mục đích kiện toàn giới luật: Đấng ban bố lề luật thiện hảo.

2- Ngài kiện toàn giới luật thứ V bằng cổ võ lối sống hòa thuận, hòa bình, hòa hợp, yêu thương, hy sinh giúp đỡ nhau. Có hợp nhất với nhau mới xứng đáng được tham dự vào lễ hy sinh của Ngài, vì Thánh lễ là sự hiến mình, chết cho người Ngài yêu. Cho nên ai xây dựng hòa bình như Ngài mới được phúc làm con Thiên Chúa.

Ngài kiện toàn giới luật VI và IX để mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!

Xưa Thầy Khổng Tử cũng dạy các môn đệ rằng: “Trước hết hãy có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức họa” (Luận ngữ II, 8).

Để vẽ một bức họa thật sắc nét, làm nổi bật những hình ảnh thật sống động và tươi thắm, họa sĩ phải bắt đầu từ nền trắng.

Để hình ảnh Thiên Chúa nổi rõ trên mỗi người, chúng ta phải có lòng trong trắng, vì ai có tâm hồn trong sạch mới được phúc chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa.

Ngài kiện toàn giới luật II và VIII: “Đừng thề chi cả”, “có nói có, không nói không”. Thề mà không có lòng chân thành thì cũng vô ích, còn giảm giá trị làm người, là kẻ không đáng tin. Nếu phải nhờ đến một thế lực thứ ba, một thế lực của những hạng thấp hèn hơn con người: trời, đất, quỷ thần, cô hồn, máu huyết làm chứng cho mình thì thật tồi tệ! Thành tín tin tưởng nhau chứng tỏ tôn trọng, mến phục nhau, tỏ ra có tình có nghĩa, có lòng bao dung, độ lượng. Tình yêu khoan dung sẽ sẵn sàng chấp nhận sự thiệt thòi và phản bội. Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu: yêu cả kẻ thù, kẻ phản bội. Sống chân chính như thế, mới mong “nên trọn hảo như Cha chúng ta ở trên trời”. Lý tưởng của Nho giáo không gì hơn là sống chí thành mới giống thần thánh: “Chí thành như thần” (Trung Dung 24 và 26).

Lạy Chúa toàn năng, toàn thiện, Chúa đã dựng nên muôn loài tốt đẹp, Chúa còn dựng nên con người tốt đẹp muôn vàn hơn nữa và luôn luôn chăm lo săn sóc cho nó trở nên kiện toàn để biểu lộ sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết khôn ngoan chọn con đường sống theo Đức Giêsu để thực hiện mầu nhiệm tình yêu vô cùng khôn ngoan của Ngài. Amen.

 

 

 

 

 

22. Cuốn sách hai chữ

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.

Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy. Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê. Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.

Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo. Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời. Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31). Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.Luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.

Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.

Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.

1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5

Điều răn thứ 5 dạy "chớ giết người". Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi: "Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5,22-23).

Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.

2. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9

Điều răn thứ 6 dạy: "Chớ dâm dục", và điều răn thứ 9 dạy: "chớ ngoại tình". Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội "dâm dục" hay "ngoại tình", nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!

3. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra" (Mt 5,37). Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẻ hận thù báo oán.

4. Cuốn sách hai chữ: Yêu Thương.

Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách. Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được. Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn. Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì. Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm. Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu. Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng. Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng. Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm. Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách. Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa. Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương. Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa. Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn. Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi. Viên quan đã tận tâm và thưa: muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.

Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26). Đối với Phaolô: "Yêu thương là chu toàn lề luật" (Rm 13,10). Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người. Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.

Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.

 

 

home Mục lục Lưu trữ