Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1364497

THẤY VÀ HÀNH ĐỘNG

THẤY VÀ HÀNH ĐỘNG

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Hôm nay, chúng ta tự hỏi: "Ai là anh em của tôi?" (Lc 10,29). Chuyện về một số thầy người Do thái, thấy thầy Do thái kia thường vắng mặt vào buổi cầu nguyện thứ Bẩy hằng tuần. Ông nghi ngờ vị ấy có gì bí mật với Thiên Chúa, và các thầy Do thái nhóm họp bàn bạc với nhau, giao cho ông ta theo dõi người anh em… Thế là, ông tò mò tìm kiếm, thật xúc động, dõi theo người anh em đến một khu phố nghèo trong thành, nơi ấy ông nhìn thấy một thầy người Do thái đang dọn nhà cho một bà đang bị bại liệt, và ông thầy này đã đến phục vụ, chuẩn bị bữa cơm vào chiều thứ Bẩy cho bà. Khi điệp viên trở về, những thầy Do thái ở nhà đã hỏi: "Ông ấy ở đâu? ở trên trời, trên các tầng mây hay giữa các vì sao?". Câu trả lời là: "Không, người anh em của chúng ta đã được đưa lên rất cao."

Yêu người thân cận thể hiện bằng hành động cụ thể là cao cả nhất; đây là lúc mà tình yêu được thể hiện. Đừng bỏ đi qua! Nơi người nghèo, chỉ có mình Chúa Kitô kêu lên để thức tỉnh lòng bác ái nơi các môn đệ, Công đồng Vatican II trong một tài liệu đã chép: Làm "người Samaritanô" có nghĩa là thay đổi kế hoạch của mình ("đến gần anh"), dành thời gian để ("chăm sóc anh ta") ... Điều này cũng đưa chúng đến xem xét các nhân vật của quán trọ, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói:"Người Samaritanô đã có thể làm mà không có chủ quán? Thật vậy, người chủ quán, người vô danh ấy, đã thi hành nhiệm vụ cách cao cả. Tất cả chúng ta cũng có thể hành xử như ông, hoàn thành nhiệm vụ của riêng mình với tinh thần phục vụ. Tất cả chúng ta đều có cơ hội, nhiều hay ít trực tiếp hay gián tiếp, để giúp đỡ những người cần giúp. Trung thành thi hành sứ vụ là yêu mến mọi người.

Hãy vứt bỏ sau lưng cái chưa cần thiết để đón nhận người đang cần đến chúng ta, (người Samaritanô nhân hậu) và ông chủ quán đã làm việc của mình với tình yêu, cả hai đều thể hiện tình yêu bằng việc làm cụ thể. Chúa Giêsu đã hỏi nhà thông: " Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rời vào tay bọn cướp?" Và bảo ông "Ông cũng hãy đi và làm như vậy " (Lc 10,36-37).

Chúa Giêsu Kitô tự nhân mình là người Samaritanô đi ngang qua, khi những người Pharisiêu xúc phạm Chúa và nói: "Ông là một người Samaritanô và là người bị quỷ ám" (Ga 8,48 ) ... Vậy người hành hương Samaritanô là chính Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu thực sự là một lữ hành đã gặp con người bị thương do tội lỗi, ma quỷ, thế gian tra tấn, đang nằm sõng soài trên mặt đất . Chúa đã không bỏ qua, bởi vì mục đích cuộc hành hương của Chúa nhằm để "viếng thăm chúng ta" (Lc 1,68.78). Người đã từ trời lữ hành xuống thế và cư ngụ giưax chúng ta. Người không chỉ "xuất hiện trên đất, nhưng còn sống và trò chuyện với con người" (Br 3,38) ...

Trên các vết thương của chúng ta Người đã rót rượu, rượu của Lời Chúa, và như mức độ nghiêm trọng của vết thương không thể chịu được, Người đã pha trộn rượu với dầu là sự êm dịu của Người và "tình yêu Người dành cho nhân loại" (Tit 3 4) ... Sau đó, dẫn con người đến quán trọ. Quán trọ ở đây là Giáo hội, Giáo hội đã trở thành nơi ở và nơi ẩn náu của toàn dân ... Chính Chúa Kitô ở trong Giáo hội, Người trao ban hồng ân... Quán trọ ở đây còn là nhà chầu có chủ quán là Chúa Giêsu đón mời. Các Thánh Tông Đồ và Các Mục Tử, Các Tiến Sĩ và những người kế vị tượng trưng cho chủ quán trọ… Các ngài chăm sóc bệnh nhân là chúng ta bằng Lời Chúa, Cựu Ước và Tân Ước, bằng Lề luật Thánh và các tiên tri.

Chúng ta hãy đến cùng Đức Trinh Nữ Maria, bởi Mẹ là mẫu gương sẽ giúp chúng ta khám phá ra nhu cầu của người khác, về tinh thần cũng như vật chất.

Lạy Chúa, mỗi lần chúng con thấy người anh em mắc nạn, xin giúp chúng con biết hành động thương xót anh em như Chúa đã thương xót chúng con. Amen.

 

40.Hãy đi và làm như vậy

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

"Hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,37), đó là lời của Chúa Giêsu dành cho nhà thông luật khi xưa. Hôm nay, Chúa cũng bảo mỗi người chúng ta "Hãy đi và làm như vậy".

Có người hỏi: Hãy đi và làm như vậy là thế nào? Là làm như người Samaritanô nhân hậu đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: Ai là anh em tôi? Nhưng hãy đi và tỏ ra mình là anh em của mọi người. Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không. Nhưng hãy đi và làm như người Samaritanô kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, gặp người đau khổ phải cứu giúp. Cần vượt qua quan niệm hẹp hòi, đi đến tình huynh đệ phổ quát.

Người Samaritanô đối xử với nạn nhân bằng tình thương thật sự: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta (x. Lc 10, 34). Mở đầu dụ ngôn, thầy tư tế và thầy Lêvi là người thân cận với kẻ hấp hối; vào cuối dụ ngôn, người Samaritanô đã trở thành người lân cận. Chúa Giêsu nhấn mạnh viễn tượng: đừng có đứng đó mà sắp xếp người khác để xem ai là thân cận ai không. Hãy trở thành người thân cận của bất cứ ai ta gặp trong lúc cần thiết, và ta sẽ là người thân cận, nếu trong tim ta có sự cảm thương, nghĩa là nếu ta có khả năng đau khổ với người khác.

Ngày 11 tháng 2 năm 1984, thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã ban hành một Tông thư mang tựa đề: "Salvifici doloris" nói về "ý nghĩa đau khổ của người theo Kitô giáo" để toàn thể Giáo hội suy tư trong Năm Thánh Cứu Độ. Ngài đã nhắc lại dụ ngôn "người Samaritanô nhân hậu", không phải chỉ để gửi tới các bệnh nhân, những người chịu đau khổ, mà còn gửi tới mọi người. Bởi vì đau khổ vẫn ở ngay bên đường đi của chúng ta, đến nỗi con người rất dễ bị cám dỗ "bỏ đi qua" một cách dửng dưng. Sự dửng dưng này là một nét đặc trưng của thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn "Người Samari nhân hậu" đã trở nên yếu tố thiết yếu của nền văn hóa đạo đức cũng như nền văn minh phổ quát của nhân loại. Chúa Giêsu bảo luật sĩ: "Cả ông nữa, hãy đi và làm như vậy".

Vị tư tế và thầy Lêvi thấy người bị hại và bỏ đi, có thể họ có lý do, tư tế bận cử hành lễ vì giờ đã điểm, thầy Lêvi cũng có thể vì sợ ô uế, bởi cả hai đều liên quan đến việc phụng tự nơi đền thời. Đức Phanxicô nói: Họ không có phụng tự thật, vì không thể hiện ra bằng việc phục vụ người lân cận. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: trước nỗi khổ đau của bao người kiệt quệ vì đói khát, vì bạo lực và bất công, chúng ta không thể ở đó như các khán giả. Không biết nỗi khổ đau của con người, nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nếu tôi không đến gần người đàn ông này, bà kia, và em đó, tôi không đến gần Thiên Chúa.

Yêu mến Chúa trong nhà thờ thôi thì chưa đủ, cần phải yêu mến Chúa trên đường đi và trong người anh em đồng bào, đồng loại. Chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ biết luật dạy mến Chúa yêu người trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: "Anh em đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thực sự bằng việc làm". Ngài còn nói: "Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì sống trong ánh sáng. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối" (1Ga 2,9-11). Tình yêu đòi thể hiện bằng việc làm cụ thể. Người Samaritanô đã chạnh lòng thương trước nạn nhân, nhưng anh không dừng lại ở tình cảm suông. Anh đã thể hiện tình thương qua hành động.

Hãy nhận ra khuôn mặt của tất cả mọi người là người anh em. Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết rằng: yêu thương là hành xử như người Samaritanô nhân hậu. Hơn nữa, chúng ta biết rằng Người Samaritanô tuyệt vời là chính Chúa Giêsu: mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình làm người và hiến dâng mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta.

Như thế, tình thương là "con tim" của đời sống kitô; chỉ có tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta, mới làm cho chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Kitô. Giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đòi chúng ta phải thể hiện tình thương với mọi người.

Câu hỏi: "Tôi là anh em của ai?", mỗi người chúng ta tự đặt ra cho mình, không phải là câu hỏi cho người khác, nhưng cho chính mỗi chúng ta. Những người anh chị em đang sống chung quanh chúng ta đang tìm kiếm sự cảm thông, chút thanh thản và an bình của tình người. Nhưng biết bao nhiêu lần những người tìm kiếm điều ấy đã không tìm được sự cảm thông, tiếp đón, không tìm được liên đới!

Chúng ta nhìn thấy một người, trên bờ vực của cái chết, nằm trên đường phố và chúng ta nghĩ "tội nghiệp quá". Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục với công việc hàng ngày của chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng: Đó không phải là trách nhiệm của tôi ... và cho rằng mình có lý. Có người thờ ơ, hết biết rơi nước mắt, trước những cảnh huống đau khổ của tha nhân. Chúa bảo mỗi chúng ta: "Hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,37).

Lạy Chúa, xin cho con biết mau mắn làm theo lời Chúa dạy. Amen.

 

41.Tôi là anh em của ai?

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật XV thường niên C, mở đầu bài Tin Mừng với một thắc mắc do một nhà thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" (Lc 10,25). Biết ông ta là nhà thông luật nên Chúa Giêsu yêu cầu ông hãy tự tìm lời giải đáp. Ông đã tìm thầy và trình bày rất chính xác khi tóm lược hai giới răn chính: Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn, và thương mến người anh em như chính mình". Để tự biện minh, ông hỏi thêm: "Ai là người anh em của tôi?" (Lc 10,29). Chúa Giêsu trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn. "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô..." khi đọc lên mọi người biết ngay: đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu!

Quan niệm của người Do thái về người thân cận

"Ai là anh em của tôi? " Trong Dothái Giáo thời bấy giờ có sự bàn cãi về ai sẽ được coi như người anh em của người Israel. Và theo họ, phạm trù "người anh em" bao gồm tất cả những người đồng quê với mình và những người Dân ngoại bí mật theo Do Thái giáo. Khi chọn những nhân vật (một người Samaritanô đến giúp đỡ một người Do thái!) Chúa Giêsu khẳng định rằng phạm trù người anh em là phổ quát, không phải riêng rẽ. Chân trời của nó là nhân loại chứ không phải gia đình, giới chủng tộc, hay tôn giáo. Người thù chúng ta cũng là một người anh em! Tin Mừng theo Thánh Gioan dẫn chứng những người Do thái trên thực tế không có tương quan tốt với những người Samaritanô (x. Ga 4,9).

Mọi người là anh em với nhau

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng tình yêu người thân cận không những phải phổ quát mà con phải cụ thể và tiên phong thực hiện. Người Samaritanô cư xử thế nào trong dụ ngôn? Nếu người Samaritanô chấp nhận nói với người vô phúc đang nằm đó trong vũng máu, Anh một linh hồn vô phúc! Sao xảy ra như vậy? Hãy vui lên! Hay một cái gì giống như vậy, rôi tiếp tục con đường của mình, thì tất cả những sự kiện đó không phải là mỉa mai và lăng mạ sao? Ngược lại ông đã làm một cái gì cho kẻ khác: "Ông ta lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: " Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông. "

Điều mới lạ trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu không phải là Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu cụ thể, phổ quát. Nhưng mới lạ ở tại một cái gì khác, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI viết trong quyển sách của ngài (x Chương 7 sách "Chúa Giêsu thành Nazarét"). Cuối dụ ngôn Chúa Giêsu hỏi người tiến sĩ luật kẻ đã hỏi Người, "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó [thầy Lêvi, thầy tư tế, người Samaritanô] là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"

Chúa Giêsu đem đến một sự đảo ngược bất ngờ trong quan niệm truyền thống về người anh em. Người Samaritanô là anh em chứ không phải là người bị thương tích, như chúng ta vẫn quan niệm. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải đợi cho tới khi người anh em chúng ta xuất hiện trên đường đi của chúng ta, có lẽ là quá thê thảm. Chúng ta phải sẵn sàng nhận ra họ, gặp họ. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên người anh em! Vấn đề của người tiến sĩ luật bị đảo ngược. Từ một vấn đề trừu tượng và lý thuyết, trở thành một vấn đề cụ thể và sống động. Câu hỏi không phải là: "Ai là người anh em của tôi?" Nhưng "ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của ai?"

Tôi là anh em của ai?

Trong quyển sách của ngài Đức Giáo hoàng đề nghị một sự áp dụng đương thời dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Ngài thấy toàn thể lục địa Phi Châu được biểu trưng trong người bất hạnh bị ăn cướp, bị thương tích, và để nằm chết bên lề đường, và ngài thấy, những thành phần của những xứ giàu có bắc bán cầu, hai người đi ngang qua, nếu không phải chính xác là những tay cướp.

Chúng ta có thể đưa ra một đề nghị áp dụng khác về dụ ngôn. Giả thiết, nếu Chúa Giêsu đến với dân Israel hôm nay và một người thông luật lại hỏi Người, "Ai là người anh em của tôi?" Người sẽ thay đổi một chút bài dụ ngôn và thay vì người Samaritanô Người sẽ đặt một người Palestin! Nếu một người Palestin hỏi Người cũng một câu hỏi, thì trong chỗ người Samaritanô chúng ta sẽ gặp một người Israel!

Chúng ta không áp dụng cho châu Phi và Trung Đông nữa. Nếu có ai trong chúng ta đang ngồi đây hỏi Chúa Giêsu câu hỏi "Ai là người anh em của con? " Thì Người sẽ trả lời sao? Chắc chắn Người sẽ nhắc chúng ta rằng người anh em chúng ta không những là người đồng hương Việt Nam máu đỏ da vàng với chúng ta, nhưng cũng là những kẻ ngoài cộng đồng chúng ta, không những là những người Kitô hữu mà còn những người Phật Giáo, không những là những người Công Giáo mà cũng là những người Tin Lành, không những là người cùng tín ngưỡng mà cả những người Cộng sản vô thần nữa. Nhưng Người sẽ nói thêm liền là điều này không phải là quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất không phải biết ai là người anh em của tôi nhưng là thấy ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của những ai, tôi có thể làm người Samaritanô nhân hậu cho ai.

Hôm nay, Chúa nói với chúng ta: "Hãy đi và làm y như vậy", làm như người Samaritanô đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc... Đừng ngồi đặt vấn đề: "Ai là anh em tôi?", nhưng hãy đi và tỏ ra "mình là anh em của mọi người". Amen.

 

42.Hãy có lòng thương xót

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Một vấn để nổi cộm gây bão dư luận hiện nay là sao lại có không ít trường hợp thấy người bị tại nạn trọng thương mà nhiều người chỉ đứng xem hoặc ngoảnh mặt đi qua không cứu. Trong một vụ tai nạn gần đây, người phụ nữ ôm đứa con nhỏ trên tay kêu gào đến khản cổ: Ai cứu con tôi với! Thế nhưng, xem lại camera an ninh ở chung quanh, người ta thấy có tới ba hay bốn chiếc xe đi ngang qua đó, thấy nạn nhân ôm đứa con đẫm máu, họ đã lẳng lặng bỏ đi. Sau hàng giờ chờ đợi xe cấp cứu, đứa bé được đưa tới bệnh viện, nhưng đã quá muộn. Người ta đặt vấn đề: Phải chăng ngày nay, con người ngày càng trở nên vô cảm với nhau, họ nhắm mắt làm ngơ khi thấy anh em mình bị nạn? Nhiều người hiếu kỳ đứng xem một tai nạn xảy ra, nhưng không mấy người dám ra tay cứu giúp người bị nạn.

Người Samaritanô động lòng thương

Tin Mừng hôm nay cho thấy, không những thời nay ở Việt Nam ta, mà thời Chúa Giêsu cũng thế. Dụ ngôn Chúa Giêsu kể cho người thông luật là một bằng chứng (x. Lc 10, 25-37). Vị tư tế và thầy Lêvi, cả hai đều liên quan đến việc phụng tự nơi đền thờ, trông thấy một người từ Giêrusalem xuống Giêricô bị hại, từ Giêrusalem tức là đồng hương rồi, nhưng họ không cần biết; nhìn thấy nhưng không lo liệu giúp đỡ, họ bỏ qua. Người thứ ba là người Samaritanô, một người Do thái ly giáo, bị coi như ngoại quốc, dân ngoại, ô uế và bị khinh miệt, trông thấy người bị hại, ông "động lòng thương" (Lc 10, 33), ông không bỏ qua như hai người kia, ông đến gần người ấy, " băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc" (Lc 10, 34). Phúc Âm nói: "Ông động lòng thương", nghĩa là tâm can ông cảm động. Khác với hai người kia "trông thấy", nhưng con tim của họ đóng kín, lạnh lùng. Trái lại, con tim của người samaritanô rung động. "Động lòng thương" là đặc tính cốt lõi của lòng thương xót Chúa. Trái tim người samaritanô đồng điệu với trái tim Thiên Chúa.

Thiên Chúa chạnh lòng thương

Một số người cho rằng, người có lòng thương xót là yếu đuối và nhu nhược. Điều đó có đúng không? Hoàn toàn không! Động lực nằm sau lòng thương xót chân thành là tình yêu thương sâu xa, bắt nguồn từ "Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4,16); là "Cha đầy tình thương xót" (2 Cr 1,3). Cụm từ "hay thương xót" có nghĩa chính là động lòng trắc ẩn, cảm thông cho sự yếu đuối của người khác.

Động lòng thương có nghĩa là "đau khổ với". Thiên Chúa chạnh lòng thương chúng ta. Nghĩa là Ngài đau khổ với chúng ta, Ngài cảm nhận được nỗi khổ đau của chúng ta. Động từ ám chỉ lòng quặn đau trước nỗi khổ của con người. Trong các cử chỉ và hành động của người samaritano nhân hậu, chúng ta nhận ra hành động thương xót của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Đó chính là tình thương, qua đó Chúa đến gặp gỡ từng người trong chúng ta. Ngài không giả vờ không biết chúng ta, Ngài biết các khổ đau của chúng ta, Ngài biết chúng ta cần sự trợ giúp và ủi an biết chừng nào. Ngài đến gần chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Chúa Giêsu là hiện thân hoàn hảo nhất các đức tính của Thiên Chúa Cha, Người khuyên các môn đệ: "Hãy biết thương xót, như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc 6,36).

Hãy có lòng thương xót

Kinh Thánh nói: "Khi Người thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn" (Mt 9,36). Một học giả Kinh Thánh cho biết cụm từ "động lòng thương xót" ở đây muốn nói đến "cảm xúc sâu thẳm nhất trong lòng". Thật vậy, trong tiếng Hy Lạp, từ này được xem là một trong những từ mạnh nhất để biểu thị lòng thương xót.

Người Samaritanô hành xử với lòng thương xót đích thật: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta (x. Lc 10,33-35).

Lòng thương xót có sức mạnh làm vơi đi nỗi đau. Như chúng ta đã thấy, lòng thương xót thể hiện tinh thần đồng cảm với những người đau buồn và thúc đẩy chúng ta cùng chia sẻ với họ. Lòng cảm thông cũng bao gồm việc quan tâm đến người đang gặp đau khổ và có những hành động tích cực để giúp đỡ họ.

Khi bày tỏ lòng thương xót, người tín hữu noi gương Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ quá bận rộn đến nỗi không thể giúp người khác về mặt vật chất lẫn tinh thần. Khi biết người khác gặp khó khăn, Chúa Giêsu bày tỏ lòng cảm thông và tìm cách giúp đỡ họ.

Chúng ta có thể bày tỏ lòng thương xót qua nhiều cách. Chẳng hạn, gặp người bất hạnh, khó khăn, chúng ta thăm viếng và lắng nghe họ với lòng thông cảm, cũng như an ủi họ. Lòng nhân từ hay lòng thương xót chính là nền tảng cho đời sống của người Kitô hữu. "Hãy xót thương như Chúa Cha" là ‘phương châm’ của Năm Thánh này. Vì thế, khi nỗ lực trở nên giống Cha trên trời, chúng ta hãy sống lòng thương xót. Dụ ngôn về người Samaritanô là một thí dụ điển hình, nêu bật được lòng thương xót đối với nạn nhân. Người môn đệ của Chúa không thể làm ngơ và nhắm mắt trước nỗi khổ của anh em mình.

Nơi lòng thương xót, chúng ta tìm thấy bằng chứng về cách thức Thiên Chúa thương chúng ta. Ngài trao ban toàn bộ chính Ngài cho chúng ta, không yêu cầu hồi đáp. Ngài đến giúp chúng ta bất cứ khi nào chúng ta cầu khẩn Ngài (Tông sắc về năm Thánh Lòng Thương Xót, số 13).

Lạy Chúa, xin mở mắt, mở lòng chúng con, để chúng con thấy và động lòng thương xót đối với anh em chúng con. Amen.

 

43.Chúa Nhật 15 Thường Niên

(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XV Thường Niên Năm C mời gọi chúng ta suy gẫm về Thiên Chúa, Ngài là Đấng cao cả tuyệt mức nhưng cũng là Đấng vô cùng gần gũi với chúng ta. Đây là hai chiều kích bất khả phân về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Đnl 30: 10-14

Lời Chúa không ở xa chúng ta, nhưng ở gần bên chúng ta, ngay trong miệng trong lòng để chúng ta đem ra thực hành.

Cl 1: 15-20

Thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Cô-lô-xê tính ưu việt tuyệt đối của Chúa Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật tự siêu nhiên.

Lc 10: 25-37

Tin Mừng thuật lại huấn lệnh “yêu người” của Đức Giê-su được minh họa qua dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân lành”. Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su để cho thấy Ngài đến với chúng ta bằng trọn tấm lòng xót thương của Ngài, cúi xuống trên những khốn khổ của chúng ta và làm cho mình trở thành người thân cận của chúng ta.

BÀI ĐỌC I (Đnl 30: 10-14)

Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuối cùng của bộ Ngũ Thư.“Đệ Nhị Luật”, tức “luật thứ hai” (deuteros: thứ hai và nomos: luật), vì thế cũng được gọi một cách ngắn gọn“Thứ Luật”. Đây là nhan đề mà Kinh Thánh Hy-lạp đặt cho sách vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên.

1. Bối cảnh:

Quả thật, sách được trình bày dưới hình thức năm bài diễn từ của ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa. Thật ra, tác phẩm này đã được biên soạn nhiều thế kỷ sau này, vào thời kỳ mà dân Chúa bất trung cần những lời nhắc nhở về lịch sử Giao Ước và những yêu sách mà Giao Ước đòi hỏi. Cuộc khủng hoảng này chắc chắn xuất xứ từ vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên và một thế kỷ sau đó đã để lại hệ lụy cho vương quốc miền Nam.

Vì thế, sách Đệ Nhị Luật là thể loại giáo lý về Giao Ước nhằm trả lời cho một câu hỏi cơ bản: Tại sao dân Ít-ra-en lại thiếu niềm tin? Do bởi niềm tin này đã không được sống ở trong lòng, những huấn lệnh cũng như những chỉ thị của Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài con người. Đoạn văn mời gọi một đời sống tôn giáo nội tâm này, vốn là một trong những nét đặc trưng nhất của sách, thuộc về phần cuối diễn từ thứ năm của ông Mô-sê, tức là phần kết của tác phẩm.

2. “Anh em hãy nghe tiếng của Đức Chúa”:

Lệnh truyền “Anh em hãy nghe” là một trong những điệp khúc của sách Đệ Nhị Luật, nhất là ở nơi lời kêu gọi long trọng của lệnh truyền “mến Chúa” (6: 4-9), bắt đầu với: “Hãy nghe đây, hỡi Ít-ra-en”, hình thành nên lời mở đầu kinh nguyện thường ngày của Do thái giáo, được gọi là kinh “Shê-ma”.

Lệnh truyền: “Hãy trở về với Đức Chúa, là Chúa của anh em, hết lòng hết dạ”, nhắc nhở Ít-ra-en phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình. Chúng ta gặp thấy ở nơi lệnh truyền này một định nghĩa về Giao Ước, tức là một kết ước tình yêu từ hai phía. Phải đáp trả những ân tình của Thiên Chúa bằng cách “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Ở nơi tư tưởng này của sách Đệ Nhị Luật, người ta phát hiện ảnh hưởng của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Hô-sê. Ngôn sứ Hô-sê đã sánh ví tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài với tình yêu của chồng đối với vợ của mình. Do đó, ngôn sứ Hô-sê xem Giao Ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài là Hôn Ước, vì thế, đòi hỏi dân Thiên Chúa phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình, giữ trọn tình yêu nhất mực chung thủy với Thiên Chúa của mình.

3. Nội tâm hóa Lề Luật:

“Vì mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay”. Từ “hôm nay” này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật nhằm để chuyển từ chuyện kể sang lời khuyên bảo, từ quá khứ sang hiện tại, từ “ôn cố” sang “tri tân”. Vì thế, “hôm nay” muốn nói lên giá trị thường hằng của Lề Luật.

Lề Luật này không ở ngoài tầm tay của chúng ta, nhưng ở trong tâm khảm của chúng ta. Sau này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sẽ phát biểu theo cùng một cách như vậy: “Này đến ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân Ta” (Gr 31: 31-33).

4. Nhân cách hóa Lời Thiên Chúa:

Lề Luật bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì thế Lề Luật là Lời Thiên Chúa. Tác giả nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Thiên Chúa: “Vì Lời Chúa ở sát bên anh em, ngay trong miệng trong lòng, để anh em đem ra thực hành”. Việc nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Chúa này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời. Các sách minh triết sẽ dâng hiến vài ví dụ như thế. Những cách tiếp cận Lời Chúa của các hiền nhân này không xa lạ với thần học Ngôi Lời, mà thánh Gioan sẽ khai triển, không chỉ trong Tựa Ngôn, nhưng cũng trong ý nghĩa và tầm mức mà thánh nhân sẽ ban cho động từ “ở”. Thánh Phao-lô sẽ trích dẫn những câu Đệ Nhị Luật này để đối lập sức mạnh bên trong của Đức Tin với sự vô ích bên ngoài của Lề Luật (Rm 10: 6-8).

Tin Mừng hôm nay, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”, nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã đích thân đến ở kề bên chúng ta để cứu giúp chúng ta trong những khốn cùng của chúng ta.

BÀI ĐỌC II (Cl 1: 15-20)

Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê và trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô còn bảo tồn cho chúng ta hai bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô (Cl 1: 15-20 và Pl 2: 6-11). Cả hai bài thánh thi này dường như thuộc về gia sản phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi; chúng hình thành nên những chứng liệu quý báu. Bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được đặt vào bối cảnh của lời khuyến dụ luân lý; còn bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thì đáp ứng mối quan tâm đạo lý.

1. Bối cảnh:

Thành phố Cô-lô-xê là một thành phố nhỏ thuộc miền Phy-gi-a, cách Ê-phê-xô khoảng chừng 200 cây số về hướng đông. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố này đã mất đi nhiều tầm quan trọng xưa kia của nó. Thành phố này đã không được thánh Phao-lô đích thân rao giảng Tin Mừng, nhưng bởi một trong những cộng sự viên của thánh nhân, là ông Ê-páp-ra, nguyên quán Cô-lô-xê, ông này cũng đã thiết lập các cộng đoàn Ki-tô hữu ở Lao-đi-xê và ở Hi-ê-ra-pô-li, hai thành phố khác được định vị trong thung lũng Lycus, như Cô-lô-xê.

Những khó khăn đạo lý nổi lên khiến ông Ê-páp-ra lo lắng, vì thế ông đến thỉnh ý thánh Phao-lô, lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, hoặc ở Rô-ma (61-62), hoặc còn ở Xê-da-rê trước khi bị chuyển đến Rô-ma (58-60). Thánh Phao-lô không thể đích thân đến tận nơi, nên viết thư này gởi tín hữu Cô-lô-xê.

Chúng ta khó biết được đích xác những biện luận sai lạc làm xao động các tín hữu Cô-lô-xê, chúng liệu cốt yếu mà chúng ta có được là bức thư này. Dù thế nào, chắc hẳn những biện luận này giảm thiểu vai trò của Đức Ki-tô, trong khi đề cao tầm quan trọng của các hữu thể thần thiêng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Quả thật, trong Thư, thánh Phao-lô nói về “mãnh lực thần thiêng hay quyền năng thượng giới”, “những yếu tố vũ trụ”, “việc cúng tế các thiên thần”, từ vựng gợi lên những biện luận tôn giáo hỗn hợp mà vài người Cô-lô-xê say mê.

Để trả lời, thánh Phao-lô trích dẫn liền ngay sau những lời chào hỏi thông thường và một lời mào đầu khuyến dụ, bài thánh thi ca ngợi quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như thuộc trong trật tự siêu nhiên.

Vài người nghĩ rằng bài thánh thi này có nguồn gốc ngoại giáo nhằm ca ngợi sự hài hòa của vũ trụ theo trường phái triết học khắc kỷ và đã được Ki-tô hóa. Nhưng bài thánh thi này, rất gần với lời mở đầu Thư gởi tín hữu Do thái và với Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, hướng về một nền tảng Kinh Thánh chung, đặc biệt nền tảng của các sách minh triết.

2. Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên:

- “Đức Giê-su Ki-tô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,

 là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo” (Cl 1: 15)

Những câu mở đầu này áp dụng cho Đức Ki-tô những từ ngữ ca ngợi tính ưu việt của Đức Khôn Ngoan, trong các bản văn thuộc trào lưu minh triết Kinh Thánh:

“Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,

là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,

là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26),

hoặc:

“Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người,

trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.

Ta đã được tấn phong từ đời đời,

từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất

…..

Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời

…..

Khi người đặt nền móng cho đất,

ta hiện diện bên Người như tay thợ cả” (Cn 8: 22-30).

- Thánh Phao-lô ca ngợi Đức Ki-tô vừa nguyên nhân tác thành vừa nguyên nhân cùng đích của vũ trụ:

“Vì trong Người, muôn vật được tạo thành

trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình…

Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng

nhờ Người và cho Người” (Cl 1: 16)

Thánh Gioan sẽ lấy lại những từ ngữ này trong Tựa Ngôn của mình:

“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

và không có Người, thì chẳng có chi tạo thành.

Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống,

và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 3).

- “Người có trước muôn loài muôn vật,

tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).

Chúng ta không nên nghĩ rằng viễn cảnh này mang tính vũ trụ, trước hết nó mang tính thần học. Đức Ki-tô “thâu tóm” ở nơi Ngài toàn thể vũ trụ, như các nhà thần học nói.

3. Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự siêu nhiên:

Nếu Đức Ki-tô là khởi nguyên công trình tạo dựng trong trật tự tự nhiên, thì Ngài không kém là khởi nguyên toàn bộ sự sống siêu nhiên. Ngài là đầu Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Ngài. Ngài là “Trưởng Tử trên mọi loài thọ sinh” như thế nào, thì Ngài là người đầu tiên từ cõi chết sống lại như vậy, nghĩa là Ngài đã khai mạc sự sống vinh quang; Ngài là Chủ Tể đời sống mới này. Ngài là “khởi đầu và kết thúc, An-pha và Ô-mê-ga” mà thánh Gioan sẽ nói trong sách Khải Huyền.

Chính Đức Ki-tô là tác giả của ơn cứu độ: “Nhờ máu Người đổ ra khi chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”. Đối chiếu với sự hài hòa của vũ trụ là sự hài hòa của các tâm hồn mà việc tha thứ tội lỗi mang lại: sự bình an trong tâm hồn này là thành quả hy tế của Đức Ki-tô.

Khi trích dẫn bài thánh thi ca ngợi tính ưu việt của Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã thấy ở đây trước tiên một vũ khí chống lại những lời nói vớ vẩn của các triết gia Cô-lô-xê; nhưng đồng thời thánh nhân cũng đã gặp thấy ở đây những từ ngữ thần học, diễn tả sâu xa thần học của thánh nhân. Biến cố trên đường Đa-mát đã mặc khải cho thánh nhân tầm quan trọng hàng đầu của vai trò Đức Ki-tô. Con người Đức Ki-tô ngự trị trên quan điểm về ơn cứu độ, quan niệm về Giáo Hội, cũng như kinh nghiệm nội tâm của thánh nhân. Đức Ki-tô là tất cả trong mọi sự.

TIN MỪNG (Lc 10: 25-37)

Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất là cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với vị thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất: “Mến Chúa và Yêu Người”, và phần thứ hai là dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” để minh họa giới luật “Yêu Người”.

Trong nhiều dụ ngôn riêng của Tin Mừng Lu-ca, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” là một trong những dụ ngôn danh tiếng nhất. Thánh Lu-ca đặt dụ ngôn này ngay trước cuộc viếng thăm của Đức Giê-su tại nhà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, ở đó cô Mác-ta và cô Ma-ri-a tiếp đón Đức Giê-su, mỗi người mỗi cách, để minh họa cho giới luật “Mến Chúa”. Như vậy, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri” này cùng với câu chuyện “hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a” hình thành nên bức tranh bộ đôi dồi dào về ý tứ và phong phú về giáo huấn: “Mến Chúa và Yêu Người”.

Cuộc đối thoại giữa Đức Ki-tô và người thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất này, cũng được thánh Mát-thêu (22: 34-40) và thánh Mác-cô (12: 28-31) thuật lại. Cả hai thánh ký này đều định vị cuộc đối thoại này vào khuôn khổ sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó; trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc đối thoại này ở đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su.

Ngoài ra, thánh Mác-cô nhận định thái độ tích cực của vị thông luật này: khi hỏi Chúa Giê-su, ông chân thành muốn biết giới luật nào đứng hàng đầu và khi thấy câu trả lời xác đáng của Chúa Giê-su, chính ông đã tán thưởng: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng” (Mc 12: 32). Trái lại, thánh Lu-ca cũng như thánh Mát-thêu xem câu hỏi của vị thông luật này là có ác ý: hỏi một vấn đề nan giải để “thử” Chúa Giê-su ngỏ hầu để Ngài lỡ lời mà bắt bẻ hay để Chúa Giê-su không trả lời được mà dèm pha bêu xấu Ngài.

1. Câu hỏi của vị thông luật:

Trong Tin Mừng Lu-ca, vị thông luật này lên tiếng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Nhưng Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp mà hỏi ngược lại vị thông luật này: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”. Vì thế, chính vị thông luật này đặt câu hỏi và cũng chính ông trả lời bằng cách liên kết giới luật: “mến Chúa” được dạy trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5) và giới luật “yêu người” được ghi trong sách Lê-vi (19: 18).

Có thể các kinh sư trước thời Chúa Giê-su đã đối chiếu hai bản văn này rồi. Tôn giáo về một Thiên Chúa giàu lòng yêu thương được mặc khải trong Cựu Ước là một mặc khải duy nhất và đáng kính so với quan niệm về Thượng Đế tại các dân tộc khác, kể cả triết học Hy-lạp. Trong câu chuyện của Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô, chính Đức Giê-su công bố hai giới luật mến Chúa và yêu người là ngang bằng nhau. Chắc chắn, các nhà thông luật đã không dám đẩy lời dạy của họ xa cho đến mức xem hai giới luật này ngang bằng nhau như vậy.

Sau khi nghe câu trả lời của vị thông luật, Chúa Giê-su chỉ còn xác nhận: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng để chứng tỏ là mình có lý, vị thông luật lại hỏi Chúa Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Quả thật, trong sách Lê-vi, người thân cận được định nghĩa là người thuộc vào dân Thiên Chúa và phải được cư xử như là anh em. Chúa Giê-su muốn phá vỡ quan niệm hẹp hòi này. Để giúp vị thông luật hiểu rõ hơn, Ngài kể dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân hậu”.

2. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu:

Hai thành phố này cách nhau khoảng hai mươi lăm cây số với độ chênh lệch khá lớn (Giê-ru-sa-lem được định vị ở độ cao khoảng 800 đến 900 mét; Giê-ri-cô ở dưới mực nước biển khoảng 250 mét). Vào thời đó, đoạn đường giữa hai thành phố này có những đồi núi khô cằn, những hốc đá và những khe núi, vì thế, đầy những hang ổ trộm cướp và những chuyện cướp bóc thường hay xảy ra đối với khách bộ hành. Vì thế, câu chuyện của Chúa Giê-su phản ảnh thực tế đoạn đường đầy hiểm nguy này.

Trên con đường đó, có một người bị sa vào tay bọn cướp, “chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết”. Trước hết, một thầy tư tế, đoạn, một thầy Lê-vi đi qua con đường đó mà trở về nhà sau khi đã chu toàn nghĩa vụ của mình ở Đền Thánh. Cả hai đều gặp thấy nạn nhân nữa sống nữa chết nằm trên đường, nhưng “tránh qua bên kia mà đi”. Chúa Giê-su không nói cho chúng ta biết tại sao họ tránh qua một bên mà đi. Có thể họ không muốn mình bị ô uế qua việc đụng chạm đến xác chết (Lv 21: 11) hay lo sợ an nguy đến tính mạng của mình, vì có thể tên cướp vẫn còn ẩn khuất ở một nơi nào đó để phục kích. Xem ra thật hơn, Chúa Giê-su đưa hai nhân vật này vào câu chuyện vì họ là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng và đạo đức nhất trong xã hội Do thái để tạo nên một sắc màu tương phản với nhân vật Sa-ma-ri bị coi là tạp chủng, bị khinh bỉ, bị khai trừ, mà người Do thái ghét cay ghét đắng tránh giao tiếp. Điều Chúa Giê-su muốn nêu bật chính là hai nhân vật đáng kính và đạo đức này, sau khi đã thực thi lòng mến Chúa trong Đền Thờ lại dững dưng vô cảm trước người anh em khốn khổ bất ngờ gặp thấy trên đường.

Sau cùng, một người Sa-ma-ri tình cờ đi qua con đường đó. Thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn, anh “động lòng thương”. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân này là ai, thuộc dân tộc nào, theo tôn giáo nào, có quan điểm hay chính kiến nào, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp nạn nhân bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.

3. Câu hỏi của Chúa Giê-su:

Sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giê-su hỏi trở lại vị thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Vị thông luật trả lời: “Chính là kẻ thực thi lòng thương đối với người ấy”. Chúa Giê-su xác nhận câu trả lời của ông là đúng và mời gọi ông: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Như vậy, ở đầu câu chuyện, qua câu hỏi của mình, vị thông luật nói lên nỗi bận lòng của ông là muốn phân biệt rõ ràng ai là người thân cận của tôi để tôi thực thi luật yêu người; còn ở cuối câu chuyện, câu hỏi mà Chúa Giê-su đặt ra cho ông ngầm chứa câu trả lời của Ngài: không phải “ai là người thân cận của tôi” như vị thông luật đã hỏi trước dụ ngôn, nhưng “tôi phải là người thân cận của bất cứ ai cần đến sự cứu giúp của tôi trên đường đời”. Đó là cách thức “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” mà anh đã nêu lên ở đầu câu chuyện.

4. Bài học:

Phải chăng ở nơi nhân vật Sa-ma-ri nhân hậu này, Chúa Giê-su muốn gợi lên hành động của chính Ngài, Đấng Cứu Độ đầy lòng xót thương? Và kẻ bị đánh trọng thương, bị trấn lột, bị bỏ rơi dỡ sống dỡ chết bên đường, đó không phải thân phận của nhân loại tội lỗi bị sự Ác đè nặng nên không thể tự mình cứu mình được? Lời giải thích này thật sự trở nên kinh điển tại các Giáo Phụ theo lối giải thích ẩn dụ. Các ngài đã phân tích dụ ngôn này cho đến từng chi tiết, chẳng hạn như cách giải thích của thánh Âu-gút-ti-nô: Đức Giê-su đã xuống từ Giê-ru-sa-lem thiên giới để cứu chữa nhân loại bị trọng thương do tội lỗi. Dầu và rượu biểu tượng các bí tích; quán trọ là hình ảnh Giáo Hội mà Chúa Ki-tô trao gởi những tội nhân để băng bó và chữa lành, trong khi chờ đợi ngày Ngài trở lại, ngày Ngài hoàn tất ơn cứu độ của chúng ta, sau khi đã giải thoát chúng ta khỏi mọi nợ nần.

Tuy nhiên, theo văn mạch, mỗi độc giả phải thấy chính mình ở nơi người Sa-ma-ri nhân lành này. Chính hành động cứu giúp anh chị em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ nào đi nữa, dù đó là thầy tư tế hay thầy Lê-vi đi nữa. Đối với bổn phận “yêu người”, không có bất kỳ hạn định nào, bởi vì đó là luật phổ quát nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận cõi thâm tâm của con người được gọi tiếng nói lương tâm của mỗi người như câu thành ngữ của người Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”, và làm cho con người khác với con vật như câu nói thời danh: “Chỉ có con vật mới quay lưng lại trước nỗi khổ đau của đồng loại”.

Như thế, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân hậu”, Chúa Giê-su chấm dứt tinh thần duy luật, chấm dứt chủ nghĩa dân tộc, chấm dứt sự phân biệt đối xử, chấm dứt mọi lý lẽ đưa ra để biện minh cho thái độ “tránh sang một bên” trước những nỗi khốn khổ của anh em đồng loại của mình trong cuộc sống đời thường. Nói như Lu-the: “Điều làm tôi kinh hãi không phải kẻ ác làm điều ác mà là người thiện thờ ơ lãnh đạm trước những đau khồ của anh em mình”. Tác giả Suy Niệm Lời Chúa đã nhận xét như sau: “Có những tội tiêu cực biểu lộ qua việc đắm chìm trong vũng lầy của tội lỗi; nhưng có những tội tiêu cực biểu lộ bằng sự dững dưng, thờ ơ, khoanh tay chẳng thèm làm gì. Một thái độ nhắm mắt làm ngơ cũng đủ bị kết án. Vì sự thánh thiện hay tội lỗi của một người không chỉ ảnh hưởng trên bản thân họ, mà còn lan tỏa đến những người khác, đến môi trường họ sống”.

 

home Mục lục Lưu trữ