Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1364719

THEO CHÚA CŨNG LẮM HẠNG NGƯỜI

Theo Chúa cũng lắm hạng người

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Dân Samaria lại thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc xung đột đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Gióđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem. Trở về thủ đô, Chúa Giêsu muốn đi qua xứ Samaria. Nhưng một làng đã không đón tiếp Ngài khiến cho Gioan và Giacôbê nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thiêu rụi cả làng ấy. Chúa Giêsu không chấp nhận. Ngài đã quở trách hai môn đệ được mệnh danh là con của thiên lôi này, và Ngài quyết định đi sang làng khác. Trên đường đi xuất hiện 3 người muốn theo Ngài làm môn đệ.

– Mẫu người thứ nhất: Theo Matthêu, đây là một luật sĩ. Chính đương sự tự giới thiệu và đề nghị được đi theo Chúa. Không những thế, ông còn tuyên bố mạnh mẽ sẵn sàng theo Chúa đến bất cứ đâu. Lời đề nghị này cho thấy lòng nhiệt thành nơi ông là rất lớn. Tuy nhiên, động cơ đi theo Chúa có lẽ là vinh quang, danh vọng và địa vị trần thế mà ông mong là Chúa Giêsu có thể mang lại. Ông thiếu sự thành tâm thiện chí, thiếu cả ý ngay lành.

Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh trước sự ảo tưởng của ông: “Cáo có hang, chim có tổ, còn Con Người không chỗ gối đầu.” Ở đây, ta thấy rằng Chúa Giêsu không chiêu mộ đồ đệ theo kiểu tiếp thị ngày nay… Ngài nói rất rõ những điều kiện khắt khe cho những ai muốn theo ngài. Theo Ngài là phải chấp nhận sự bấp bênh thiếu an toàn tiện nghi: “Con Người không có chỗ tựa đầu.” Ngài không đưa ra một bảo đảm nào cho cuộc sống hiện tại. Có chăng là Ngài chỉ bảo đảm cho cuộc sống mai sau, tức là sự sống đời đời. Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là biết chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đôi khi cũng thiếu thốn cả những tiện nghi cơ bản của cuộc sống.

– Mẫu người thứ hai: Khác với người thứ nhất, người thứ hai không tự đề nghị theo Chúa mà chính Chúa Giêsu đính thân ngỏ lời cùng anh: “Anh hãy theo tôi!” Thái độ của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu là gì? Anh xin được về chôn cất cha anh trước đã. Thực ra ở đây phải hiểu là không phải cha người này vừa chết; ông ta vẫn còn sống. Ý của anh là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi đã, rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo. Có thể nói anh ta là một người rất tốt, rất có hiếu. Nhưng đề nghị của Chúa Giêsu có vẻ như rất phủ phàng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”, tức là để cho người thế gian lo việc thế gian. Như vậy rõ ràng điều kiện thứ hai của người đi theo Chúa là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình, nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn. Tin Mừng phải có chỗ đứng trên hết, các giá trị Tin Mừng phải được đề cao tuyệt đối, sứ mạng loan báo Nước Chúa phải có tầm quan trọng và cấp thiết hơn tất cả các nghĩa vụ khác. Ngoài ra còn cần phải biết phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa.

– Mẫu người thứ ba: Chính anh tự nguyện xin theo Chúa Giêsu. Nhưng anh lại xin thêm một ân huệ: “Xin cho phép tôi về từ biệt gia đình tôi trước đã.” Thỉnh nguyện của anh ta xem ra chính đáng, nhưng thực sự anh ta vẫn còn dây dưa, chưa dứt khoát, anh vẫn còn để cho những chuyện tình cảm riêng tư ràng buộc, giống như kiểu đi tu rồi nhưng tạm thời xin về một thời gian để chia tay với người yêu. Lời đáp của Chúa Giêsu khiến ta nhớ lại chi tiết trong Bài đọc I. Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình. Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình cho Êlisê (áo choàng tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ). Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng với lời nài xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia. Dù sao đây cũng là một hình ảnh tuyệt đẹp về ơn gọi rồi.

Thế nhưng nếu xưa kia Êlia đồng ý cho Êlisê được phép về từ giã cha mẹ trước, thì hôm nay Chúa Giêsu lại không đồng ý. Điều kiện Ngài đưa ra là phải dứt khoát, hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi. Không bắt cá hai tay, không để những tình cảm trần thế (dẫu là tình cảm gia đình) chi phối và ràng buộc: “Cầm cày không ngoảnh lại.”

Theo văn mạch thì Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là thương khó tử nạn và phục sinh. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Tuy nhiên, người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.

Như vậy, điều kiện thứ ba mà Chúa dạy là phải chấp nhận quên đi quá khứ đời mình. Quá khứ đó có thể là những quyến luyến tình cảm phù du, những ước mơ trần tục, kể cả những mặc cảm tội lỗi xa xưa,… đồng thời phải dứt khoát với mọi thứ ràng buộc, vì người theo Chúa cần có một con tim không san sẻ để luôn biết lo cho vinh quang Nước Trời.

Tôi có thuộc mẫu người nào trong 3 mẫu người trên không? Có khi nào tôi thuộc cả 3 mẫu người cùng một lúc hay không? Có thể lắm. Đó là khi tôi theo Chúa mà thiếu thành tâm thiện chí, thiếu ý ngay lành; tôi theo Chúa mà không dứt khoát từ bỏ những ràng buộc trần thế; và nhất là chưa biết ưu tiên cho các giá trị Tin Mừng.

Chúa Giêsu đã dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các thứ khác ngài sẽ ban cho sau.” Những ai tin tưởng điều này và ưu tiên chọn lựa Chúa và các giá trị Tin Mừng trong đời sống, chắc chắn họ luôn xứng đáng là những người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, và chắc chắn sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn cho dư dật. Amen.

 

32. Muốn theo Chúa, cần có điều kiện gì?

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Một bài hát ta thường hát hoặc đã nhiều lần nghe, đó là bài: “Chúa là Gia Nghiệp” của nhạc sư Mi Trầm, trong đó có đoạn viết: “Chúa là gia nghiệp đời con. Xin Ngài bảo toàn thân con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy hạnh phúc, và chỉ nơi Chúa con tìm thấy được nguồn vui”. Qua bài hát này, gợi lại cho chúng ta tâm tình xác tín rằng: chỉ có Chúa là chỗ nương thân, chỉ có Chúa là nguồn hạnh phúc, chỉ có Chúa là Đấng cứu độ. Và, ta mong sao cho được thuộc về Chúa và được Ngài đưa ta đến bến bờ hạnh phúc.

Hôm nay thánh Luca kể lại ba mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và những người muốn theo Ngài cũng như những người Ngài muốn gọi họ. Tâm tư của Đức Giêsu cho những người muốn theo và được gọi này là đạt được hạnh phúc đích thực.

Tuy nhiên, muốn có được điều đó, hẳn phải đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là con đường từ bỏ, phó thác, dứt khoát, hy sinh và đôi khi phải chấp nhận lội ngược dòng với đầy tình tiết phưu lưu.

  1. Đi theo Chúa là phải sống tinh thần phó thác tuyệt đối

Câu chuyện Tin Mừng được khởi đi từ một sự kiện: khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, bất chợt có một chàng thanh niên tình nguyện đến xin đi theo Ngài, vì thế, anh ta đã thốt lên những lời rất tâm huyết: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9, 57). Đứng trước lời đề nghị được đi theo mình, Đức Giêsu đã không nói là thâu nhận hay không, mà chỉ thấy Ngài nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58).

Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn đưa anh vào một lộ trình của niền tin và phó thác hoàn toàn cho sự an bài của Thiên Chúa; mặt khác, Ngài cũng muốn tiên báo cho anh về sự thiếu thốn, bấp bênh trên hành trình sứ vụ. Sự phưu lưu này không có nghĩa là làm cho anh hoang mang về con người và sứ vụ cứu độ của Ngài, mà là giúp cho anh nhận định thật rõ, để anh thấy trước được những khó khăn của sứ vụ. Khi nói cho chàng thanh niên này như vậy, Đức Giêsu muốn báo cho anh ta biết sứ vụ và cuộc sống của Ngài không giống như những vị lãnh đạo khác, mà là một Đấng Mêsia khiêm tốn, từ bỏ sang giàu, quyền lực. Sống nghèo khó và vâng lời Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối.

Vì vậy, nếu anh thanh niên này muốn theo, thì cũng phải đón nhận cuộc sống như Ngài đã sống. Một cuộc sống mà theo lối nói của Việt Nam thì: “Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”.

  1. Theo Chúa là lo tìm Nước Thiên Chúa trước hết

Khác với trường hợp thứ nhất, lần này Đức Giêsu chủ động lên tiếng gọi một người thanh niên: “Anh hãy theo tôi!” (Lc 9, 59). Ngài muốn anh ta lên đường với Ngài để loan truyền Nước Thiên Chúa, để cùng Ngài sống chứng tá cho Nước Trời. Đứng trước lời mời gọi này, chàng thanh niên đã đặt ra cho Đức Giêsu một điều kiện, đó là: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc 9, 59), rồi đi theo Ngài sau. Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận, Ngài đã phủ nhận thái độ đó và coi là không xứng hợp với tinh thần tông đồ, nên Ngài đã nói: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9, 60).

Qua câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài cho anh ta thấy rằng: thời điểm này và ngay tức khắc, anh hãy theo tôi để loan báo Triều Đại Thiên Chúa cho những người chưa biết, vì đây là sứ mạng quan trọng nhất, cấp bách, vượt lên trên mọi tình cảm tự nhiên của con người. Ngài không chấp nhận sự lần lữa và kèo nèo của một người môn đệ. Sứ mạng loan báo Tin Mừng là gian nan khốn khổ, đòi buộc phải hy sinh, phải từ bỏ, phải mau mắn… Vì thế, không thể chấp nhận một con người có thái độ trì hoãn.

  1. Muốn theo Chúa: phải có thái độ dứt khoát

Đi xa thêm một chút nữa, Đức Giêsu lại cất tiếng gọi một người khác đi theo Ngài. Khi được gọi, người thanh niên này thưa: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã” (Lc 9, 61). Người thanh niên này quả thực cũng muốn theo Chúa, nhưng anh ta muốn xin Đức Giêsu cho lui lại ít thời gian nữa, để anh ta lo giàn xếp chuyện gia đình… Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62). Qua câu nói này, Đức Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Cũng vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình… Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy. Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.

  1. Còn chúng ta thì sao?

Khi đọc bài Tin Mừng này, hẳn mỗi người chúng ta đều đặt ra cho mình một câu hỏi: chúng ta có được Thầy Giêsu gọi không? Điều kiện của Ngài đặt ra cho chúng ta thời nay là gì?

Trước tiên, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, được tháp nhập vào dân của Chúa, được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Cha. Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ ý riêng, chết đi cho con người cũ với những tham sân si, và mặc lấy con người mới để chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng như ngọn nến cháy sáng. Đây là ơn gọi căn bản của mỗi chúng ta.

Thứ đến, vào một thời điểm nhất định, mỗi người đều có một lựa chọn cho bậc sống của mình. Người thì xây dựng gia đình; người thì đi tu. Hai con đường. Hai ơn gọi. Nhưng đều chung một sứ vụ là loan báo Tin Mừng và đi tìm hạnh phúc đích thực.

Thật vậy, nếu là một người chồng mẫu mực; một người vợ thủy chung; một người con hiếu thảo; một đời tu trung thành, thánh thiện… Thì đây, chính là đời môn đệ tuyệt hảo khi chúng ta thuộc về Đức Giêsu và đáp lại lời mời gọi của Ngài để loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống gương mẫu của mình. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa. Biết từ bỏ ý riêng để thánh ý Chúa được thể hiện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác vì phần rỗi của họ như Chúa khi xưa. Amen.

 

33. Không nhìn trở lại – McCarthy

Suy Niệm 1. KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI ĐÀNG SAU

Trong cuốn tiểu sử tự thuật, Con Một, nhà văn Ailen Frank O’Connor kể lại một cách sinh động cái đêm mà sau cùng ông đã quyết định trở thành một nhà văn. Ông đã mất việc làm trong ngành đường sắt ở Great Southern Railway và không có tiền. Những người láng giềng nhìn ông như một tên khùng vô tích sự. Tuy nhiên, ông đã trình ra trước công chúng những điều ông đã viết:

“Hành động tin tưởng hy vọng quan trọng đến nỗi bằng cách nào đó, ở nơi nào đó, tôi muốn chứng tỏ tôi không điên cũng không vô tích sự; bởi vì giờ đây tôi nhận ra rằng tôi phải trả giá cho mọi sự, và không được quay đầu lại đàng sau. Khi còn là những cậu bé, chúng tôi đến bức tường bao quanh một vườn cây ăn quả, có vẻ quá cao khó mà trèo qua được, chúng tôi cởi mũ lưỡi trai ra và ném chúng qua bức tường và rồi không có chọn lựa nào khác hơn là phải đi theo chúng. Tôi đã ném cái mũ qua bức tường đời tôi và tôi biết rằng tôi phải đi theo nó, bất cứ nơi nào mà nó rơi xuống”.

Trong Tin Mừng, một cách nào đó, Đức Giêsu đã đối xử tương tự với ba người muốn trở thành môn đệ của Người. Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Người nêu bật sự cần thiết phải cam kết dấn thân và nói rằng không thể quay đầu nhìn lại đàng sau. Nếu bạn muốn cày một luống cày thẳng, bạn phải tập trung chú ý công việc bạn đang làm, không để bị phân tâm. Nếu bạn cứ quay đầu nhìn lại đàng sau, bạn sẽ không làm tốt công việc. Bạn cần phải có sự dâng hiến và cam kết. Nếu bạn bắt đầu công việc như thế, thì bạn toàn tâm toàn ý với công việc ấy.

Mọi người chúng ta đều tra tay cầm cày, không cày này thì cày khác. Thanh niên thì bắt tay vào việc học… vợ chồng thì bắt tay vào cuộc hôn nhân… linh mục thì bắt tay vào tác vụ… còn có thể kể thêm nhiều nữa. Và khi được rửa tội, chúng ta tra tay vào một cán cày khác –đi theo Đức Kitô, hoặc gia nhập và hàng ngũ các môn đệ của Người.

Nếu chúng ta cứ nhìn lại đàng sau, thì sự tập trung của chúng ta bị phân tán. Do đó năng lực của chúng ta cũng suy giảm. Chúng ta không dấn thân trọn vẹn. Chúng ta chỉ có một nửa nhiệt tình. Chúng ta hầu như đánh mất thời gian, đánh mất tầm nhìn hướng về mục tiêu, và bị cám dỗ quay trở lại và hoàn toàn rời bỏ công việc. Nhìn lại đàng sau cũng gợi ý rằng chúng ta có những suy nghĩ thứ hai, và có lẽ là nghi ngờ hoặc hối tiếc. Có lẽ chúng ta thấy rằng cái giá phải trả quá cao. Có lẽ những việc khác mà chúng ta nghĩ rằng mình đã từ bỏ vẫn còn giằng co trong tâm hồn chúng ta?

Nhưng nếu chúng ta nhìn tới trước, chúng ta sẽ có sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ có một sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ hoàn toàn phó thác. Chúng ta sẽ toàn tâm toàn ý. Điều đó sẽ cho chúng ta sức mạnh to lớn. Tất cả mọi tiềm năng của chúng ta sẽ được tập họp và triển khai cho nhiệm vụ. Chúng ta sẽ không bị chệch hướng. Và do đó chúng ta có một cơ hội tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Những người toàn tâm toàn ý vào công việc sẽ tìm thấy niềm vui, bất chấp gian khổ. Những người không toàn tâm toàn ý sẽ không có được niềm vui ấy. Vậy sứ điệp là: Đừng quay đầu lại; cũng đừng nhìn lại đàng sau.

Bài đọc một cho thấy Êlisê đã nghe theo lời gọi của Êlia như thế nào. Sự đáp lại của ông thì toàn diện, và bằng việc giết bò, đốt cày ngăn cản mình quay về đời sống cũ. Trong Tin Mừng chúng ta thấy gương mẫu tốt nhất trong chính Đức Giêsu. Người hướng đến Giêrusalem dù biết rằng sự loại trừ, phản bội và cái chết đang chờ đợi Người ở đó. Người không muốn đào thoát khỏi con đường đó. Người đã đem lại một gương sáng cho các môn đệ của Người về loại dâng hiến mà Người được đòi hỏi.

Loại dâng hiến ấy là một thách đố lớn. Nó có thể dễ dàng lúc khởi đầu. Nhưng để giữ được sự kiên định, chúng ta cần có ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng này sẽ giữ chúng ta trung tín với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta kiên trì trên con đường đã chọn, bền bỉ trong nhiệm vụ đã chọn. Lúc đó chúng ta sẽ hiểu được niềm vui của người tận hiến và đến thời gian thuận lợi, chúng ta thấy mình đã phù hợp với Nước Trời.

Suy Niệm 2. GIỮ LÒNG TRUNG TÍN

Viktor Frankl, người đã trải qua ba năm dài ở các trại cải tạo Auschwitz và Dachau, kể lại câu chuyện sau đây. Là một bác sĩ, ông dành phần lớn thời gian để săn sóc cho các tù nhân bị bệnh hấp hối trong trại. Khi chiến tranh gần chấm dứt, ông cùng một bạn tù lên kế hoạch để trốn trại.

Ông bắt đầu thu thập một ít vật dụng: một bát đựng lương thực, một đôi găng tay bị rách, những ghi chú cho một cuốn sách mà ông hy vọng sẽ viết ra. Rồi ông nhìn một lần cuối cùng những bệnh nhân của ông đang nằm trên những tấm ván dài bằng gỗ mục ở mỗi góc của căn lều. Ông bước đến bên một người đàn ông sắp chết, Frankl cố che giấu hành động chạy trốn của ông. Nhưng người đàn ông không bị đánh lừa. Và một giọng nói buồn rầu, mệt mỏi vang lên: “Vậy ra ông cũng bỏ đi sao?”. Frankl chối bỏ điều đó. Nhưng những lời “Vậy ra ông cũng bỏ đi sao?” ngắt lời ông và lên án ông. Sau khi đi hết một vòng, ông trở lại với người đàn ông. Một lần nữa, ông được đón chào bằng một cái nhìn tuyệt vọng chiếu thẳng vào ông. Ông cảm thấy đã phản bội người đàn ông ấy. Thình lình ông quyết định nắm lấy số phận trong đôi tay mình. Ông chạy ra khỏi căn lều và nói với người bạn ông hãy ra đi đừng đợi ông nữa. Ông sẽ ở lại với các bệnh nhân. Lập tức cảm giác bất hạnh của một kẻ phản bội rời bỏ ông. Và ông nói rằng cho dù ông không có ý niệm gì về những ngày phía trước đưa ông đến đâu, ông có được sự bình an nội tâm mà trước đó chưa bao giờ ông cảm nghiệm. Và ông vẫn còn sống khi được giải thoát khỏi trại cải tạo.

Tin Mừng hôm nay bắt đầu với việc loan báo Đức Giêsu cương quyết tiến về Giêrusalem. Người biết rõ điều đang chờ đợi Người ở đó –loại bỏ, phản bội, và cái chết. Nhưng đối với Người, không có việc quay đầu lại. Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ mang ơn cứu độ đến cho các em trai, em gái của Người. Người không có chọn lựa nào khác.

Karen Blixen (tác giả cuốn Out of Africa) nói: “Có lẽ luôn luôn có một lúc trong đời khi vẫn có hai khả năng để theo đuổi và một lúc khác khi chỉ còn có một khả năng. Vào lúc cuối cùng này, tôi đã đốt những chiếc thuyền của tôi và sau đó, không còn con đường để rút lui”. Đức Giêsu đã đạt đến điểm đó.

Với những người muốn trở thành môn đệ của Người, Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn quay lại nhìn đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Điều này đi ngược với sự cam kết và dâng hiến với nhiệm vụ đã chọn. Lúc khởi đầu, nhiệm vụ ấy có thể dễ dàng. Nhưng với năm tháng đi qua, những khó khăn gia tăng. Những công việc đều đặn mỗi ngày lấy đi sự kiên trì. Chúng ta bắt đầu nhìn lại đàng sau. Trong những lúc khó khăn chúng ta dễ dàng không giữ những điều mà chúng ta đã hứa trong những lúc vui tươi hơn. Một cái chảo càng mau nóng thì cũng càng mau nguội. Ngày này, chúng ta sống trong thời đại “ăn xổi ở thì”.

Lời trung tín không phải là một con đường dễ dàng. Đức Giêsu không giấu giếm điều đó, với các môn đệ của Người. Người khuyên chúng ta sống trung tín và chính Người nêu gương sáng cho chúng ta và hứa sẽ giúp đỡ chúng ta.

Đức Chúa vẫn còn kêu gọi người ta hôm nay và vẫn còn có những người đáp lại. Theo Đức Kitô có nghĩa là gì đối với một con người bình thường? Nó có nghĩa là được kêu gọi làm người Kitô hữu ở nơi bạn sống và trong nghề nghiệp bạn đã chọn. Có nhiều cách để phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Trong lúc ban đầu, ơn gọi là để trở nên một môn đệ hơn là một Tông đồ.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Dostoyevsky kể lại câu chuyện một thiếu niên bị cha cậu đưa ra khỏi thành phố. Khi còn trẻ, cậu có nhiều mơ ước và hy vọng về một đời sống mới đang mở ra trước mắt cậu. Tuy nhiên, không lâu sau, cậu có được bài học khắc nghiệt về thực tế. Họ dừng lại một quán trọ để nghỉ ngơi, giải khát. Trong lúc môt viên chức của chính phủ bước vào và nốc một cốc rượu Vốt-ka. Rồi ông ta chạy đến chiếc xe ngựa và không một lời giải thích, nhào vô người đánh xe ngựa nghèo nàn, bất hạnh là một anh nông dân và đấm anh này túi bụi. Rồi ông ra lệnh cho người đánh xe ngựa cho xe đi. Người đánh xe đáp lại bằng cách quất cái roi vùn vụt trên lưng mấy con ngựa với hết sức lực. Vừa hoảng sợ vừa đau đớn, những con vật chồm lên kéo chiếc xe chạy lao tới.

Bạo lực nuôi dưỡng bạo lực. Nhưng Đức Kitô thách đố chúng ta đáp trả bóng tối bằng ánh sáng, đáp trả điều xấu nhất nơi người khác bằng điều tốt nhất trong chúng ta. Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều xấu mà không làm thêm điều xấu trong quá trình ấy.

 

34. Lên đường với Ngài – R. Gutzwiller

Trên bước đường Chúa đi, nhiều thanh niên muốn theo làm môn đệ Ngài, vì họ muốn theo gương Ngài khăng khít hơn. Họ cảm phục Ngài đức độ cao dầy, vì giáo huấn trong sáng, vì những phép lạ kỳ diệu, vì sức mạnh việc Ngài thực hiện, và vì dự định quả cảm của Ngài. Họ nôn nóng và tỏ ra sẵn lòng theo Ngài, lên đường với Ngài.

Người thứ nhất.

Anh tỏ ra dứt khoát, hết sức sẵn sàng ‘tôi xin theo Thầy bất cứ Thầy đi đâu’. Anh muốn theo Ngài bất chấp nghịch cảnh, hy sinh tất cả, dù hoàn cảnh nào chăng nữa. Thật là tiếng đáp trả quyết liệt, vô điều kiện.

Nhưng chắc là anh còn ảo tưởng, nên Đức Giêsu khẳng định mạnh mẽ: ‘Chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu’.

Bình thường, ai cũng thích một nơi ăn chốn ở an toàn, thật bảo đảm, nơi họ được tự do định đoạt mọi chuyện, tha hồ thoả mãn nhu cầu riêng, được sống ‘hết sức thoải mái’, muốn làm gì thì làm, còn mặc ai nấy sống. Dù ở nơi tầm thường, dù chỉ là một túp lều tranh sập sệ, nhưng có tự do và thoải mái vẫn hơn.

Nhưng đi theo Chúa Kitô không đem lại cho ta thứ tình cảm an toàn ấy. Đức Kitô vốn lang thang, nay đây mai đó. Ai quyết chí theo và vững tâm phục vụ Ngài ắt phải như Ngài không đóng đô ở đâu cả, không ham lối sống an cư lạc nghiệp. Có tiếng mời gọi, tức khắc cất bước lên đường, dứt khoát cả nội tâm lẫn ngoại giới. Nơi an toàn của ta ở bên kia thế giới. Nơi nương ẩn của ta đặt ở nơi Chúa. Và an bình thư thái thực sự lại thuộc về đời sau.

Không thể như con chồn được: chọn hang sâu hốc hiểm làm nơi an thận bình phận: thù bất nhập, mà an toàn khỏi mọi thời khí độc hại. Cũng không thể như con chim tự làm cho mình một tổ ấm an lành. Bởi vì đời sống luôn có những giông bão nổi lên, tàn phá và làm tan những chòm cây an toàn đã khổ công xây dựng cho riêng mình thay vì cho những người khác. Theo gương Đức Kitô, bước đi theo Ngài, có nghĩa là hiến thân cho con người và sống trong sự bấp bênh.

Người thứ hai

Anh không tự quyết theo Chúa, song được Ngài mời gọi ‘hãy theo Ta’. Anh thưa: ‘xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã’.

Theo đó, vấn đề không chỉ là việc chôn cất cho bằng anh tự cho rằng mình còn phải có trách nhiệm với cha mình và vì tình cốt nhục mình phải ở lại phung dưỡng cha già đến ngày ông mất. Khi ấy anh mới sẵn sàng theo. Điều này cũng tự nhiên thôi; có lẽ, còn thuộc về bản chất tốt của người Công giáo nữa.

Dù sao, ta không thể để song thân lâm cảnh cơ cực. Phải để ý đến anh em và phụ giúp gia đình, bỏ đi như vậy là không được. Vì công cha nghĩa mẹ, phận làm con là phải đáp đền. Tuy hôn nhân là một bí tích, gia đình là cơ cấu do Chúa an bài. Hơn nữa Đức Kitô đã chẳng sống ba mươi năm tại Nagiarét và thánh hoá gia đình đó sao?

Tất cả thật là chí lý, vậy sao Đức Giêsu lại nói ‘để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa’.

Thiên Chúa là Tôn sư tối cao. Ngài đã cất tiếng mời gọi thì phải đáp lại dứt khoát. Yêu sách của Ngài phải được ưu tiên hơn mọi nhu cầu khác. Luật Chúa phải sáng chói hơn hẳn luật con người. Ơn gọi trên cao đòi tha phải tích cực đáp trả vô điều kiện.

Mẹ Ngài trách Ngài: ‘Tại sao con lại làm thế với cha mẹ’. Ngài đã thưa lại: ‘Mà tại sao cha mẹ lại tìm con, cha mẹ không biết là con phải lo công việc Cha con sao?’. Ngài không thể khép vào thế giới bé bỏng Nagiarét nhưng thuộc về vương quốc bao la của Cha Ngài.

Ai muốn rao giảng nước Thiên Chúa ắt phải từ bỏ vợ con và gia đình. Phải có một tâm hồn quảng đại và đôi tay thong dong, không bị ràng buộc bởi bất cứ một trở lực nhân loại nào. Phải hy sinh cái thế giới gia đình, tuy đẹp nhưng nhỏ bé và phấn đấu cho cái vũ trụ lớn lao là nước Thiên Chúa. Lời mời gọi của Chúa Kitô là một lời động viên. Ai đã dứt khoát dấn thân phục vụ Thiên Chúa, không thể để mình dan díu với những gì thuộc thế giới chết chóc được.

Người thứ ba.

Người này xem ra đắn đo hơn. Anh phát biểu sự ưng thuận của anh với điều kiện: ‘Thưa Ngài, tôi xin theo Ngài nhưng cho phép tôi quay về từ biệt gia đình trước đã’. Như vậy, anh ta đã sẵn sàng chưa? Hẳn là chưa. Anh tạm hoãn quyết định của anh. Trước khi dứt khoát, anh còn có việc khác phải làm: anh xin được trở về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn để cáo từ cha mẹ và thân thuộc.

Qua đó, ta thấy có chút mơ mộng và tình cảm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại cách quả quyết: ‘Kẻ vưà tra tay cầm cày vừa ngó lại sau, không xứng đáng với Nước Thiên Chúa’. Ta thấy ngay một lối sắp xếp giả tạo. Theo Chúa Kitô không phải là nhìn lại phía sau mà nhìn phía trước, cứ nhắm Đấng kêu gọi mà tiến bước, cứ dõi theo mục tiêu của con đường ta đi qua. Tình cảm sẽ làm tê liệt. Cứng đầu cứng cổ sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho việc theo Chúa. Chúa là tôn sư, Ngài đòi ta phải hy sinh trọn vẹn, nguyên tuyền và vui vẻ sẵn sàng.

Ai muốn đồng hành với Ngài, phải có quyết định gan dạ và chấp nhận dặm trường. Ai dừng chân ở mỗi khúc quanh để ghi nhớ những hình ảnh vừa đi qua, ngoái cổ nhìn lại, thì chính họ sống bằng quá khứ hơn là tương lai; họ không hề biết dặm trường hiểm nguy. Nếu mỗi chặng đường đều có sẵn một chiếc ghế dài thoải mái, hẳn họ sẽ dừng lại nghỉ ngơi và chẳng đặt vấn đề theo Chúa nữa.

Cần lưu ý nữa là ba đòi hỏi của Đức Kitô thật phù hợp với đời sống gia đình. Với người này, Ngài nói phải từ bỏ cuộc sống an toàn của tổ ấm; với người kia, sẽ chỉ ở lại nhà cho đến lúc anh có thể tự thoát khỏi những ràng buộc mà không phẫn nộ. Và người thứ ba sẽ hành động mà chẳng chú ý gì đến gia đình cả.

Nếu cùng một vấn đề được đề cập tới trong ba câu đáp thì ắt không phải do tình cờ ngẫu nhiên. Cha mẹ và thân thuộc dễ nghĩ rằng mình được quyền định đoạt theo quyền lợi mình. Họ không ngừng phẫn nộ khi một người trong họ nghe theo tiếng Chúa từ bỏ gia đình cất bưóc ra đi. Có nhiều cha mẹ, anh chị em không thông cảm nổi mỗi khi có người con trai hay gái theo tiếng gọi ấy. Nhưng những người con này vẫn đành chấp nhận… Thiên Chúa lớn lao hơn.

Khi Ngài đặt tay trên ai thì người này hoàn toàn thuộc về Ngài. Không có chuyện chia sớt, gây tổn hại. Rõ ràng từ bỏ là ray rứt, chia lìa là khổ đau, Chúa diễn tả minh bạch. Chỉ có một cách giải quyết: Ai muốn đi với Ngài, phải thành tâm theo Ngài. Và dứt khoát chỉ theo một Thày. Đó là lý do môn đệ phải dự phần vào sự đơn độc của Ngài.

 

35. Điều kiện căn bản để theo Chúa

Trước khi trở thành người sáng lập Dòng truyền giáo mới, gọi là những nhà truyền giáo của Đức Bác Ái, Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã là nữ tu khấn trọn của dòng các nữ tu Côlôrentô và đang sống an nhàn, tiện nghi của một giáo viên trường trung học tại Calcutta, nhưng bỗng chị như cảm thấy sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, từ bỏ nếp sống an lành đang có để ra đi đến một nơi khác, dấn thân phục vụ người nghèo nhiều hơn.

Trong tập sách có tựa đề là: “Mẹ Têrêxa thành Calcutta” hay “Cây Viết Chì Trong Tay Thiên Chúa”, kể lại giây phút thay đổi tận căn này trong cuộc đời của Mẹ Têrêxa. Đó là vào sáng ngày 01/08/1946, Mẹ Bề Trên cộng đoàn các nữ tu Côlôrentô nhận được bức thư của Đức Giáo Hoàng Piô XII giải lời khấn cho chị nữ tu Maria Têrêxa để được tự do ra đi theo tiếng gọi mới của Chúa. Phản ứng của mọi người lúc đó là ai nấy đều ngạc nhiên không biết mình có làm gì gây phiền cho chị Maria Têrêxa hay không để chị phải ra đi như vậy. Mọi người đều khóc khi phải chia tay chị Têrêxa, vì thật sự chị được mọi người trong cộng đoàn yêu mến.

Phần chị Maria Têrêxa sau khi nhận được bức thư thì chị rất bình tĩnh và nói một câu vắn tắt: “Bây giờ tôi có thể đi đến xóm nghèo”. Lúc đó chị Maria Têrêxa Calcutta đã phải cương quyết, dứt khoát lắm để có thể bỏ lại mọi tiện nghi vật chất đang hưởng và mọi tình thân thương của cộng đoàn. Sách tiểu sử của chị sau này ghi lại rằng, chị ra đi khỏi cộng đoàn với đôi chân không, hành trang của chị là một sâu chuỗi, một vé xe lửa và năm đồng Rubi trong túi, chị đã dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo Chúa trên con đường Chúa muốn.

Mẹ Têrêxa ra đi bắt đầu công việc phục vụ người nghèo với năm đồng Rubi trong túi, một món tiền không đủ sống cho một ngày bình thường, Mẹ đã thực hiện tinh thần theo Chúa như được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay.

Sự dứt khoát, nhất là quyết ra đi như Mẹ Têrêxa mà trong túi chỉ có năm đồng tiền là điều mà Chúa muốn những ai theo Ngài phải thực hiện và từ bỏ những cái đang quyến rũ hay níu kéo chúng ta trở lại phía sau, không tiến lên theo Chúa trọn vẹn hơn. Chúa có phải là người tôi yêu mến nhất hay không?

Truyện cổ Hy Lạp có kể lại câu chuyện của vua Ả rập lên đường chu du khắp nơi, với đoàn tùy tùng đông đảo và những con lạc đà chở theo nhiều của cải phân phát cho dân chúng; dĩ nhiên có nhiều đầy tớ theo phục vụ nhà vua. Khi đi được một ngày đàng, nhà vua dừng lại phân phát của cải cho dân nghèo và chỉ giữ lại một ít của cải cho đoàn tùy tùng rồi tiếp tục lên đường. Một số những người theo phục dịch nhà vua không tiếp tục cuộc hành trình theo nhà vua qua sa mạc nữa, nhưng dừng lại để nhận những thùng lương thực mà nhà vua để lại phân phát cho dân chúng.

Đi qua nửa sa mạc, nhà vua truyền dừng lại và để lại những thùng đựng vàng, bạc, châu báu mà ban phát rồi nhà vua tiếp tục lên đường. Nhưng lần này thì hầu như tất cả những người theo nhà vua đều ở lại để chia nhau những thùng vàng ngọc châu báu, ngoại trừ một người phục vụ duy nhất đi theo, dù nhà vua không còn gì để phân phối cho nữa. Lấy làm lạ, nhà vua quay lại hỏi anh ta: – “Sao nhà ngươi theo ta mà không ở lại để chia những thùng của cải ta để lại đó?”. Người phục vụ trả lời: “Thưa nhà vua, con theo nhà vua vì lòng yêu mến kính phục nhà vua chứ không phải vì tiền bạc giàu sang, nhà vua là tất cả của con”.

Trong cuộc đời ta có bao giờ ta đã thưa với Chúa như vậy chưa? Lạy Chúa, con muốn theo Chúa vì yêu mến Chúa chứ không phải vì điều gì khác, có Chúa là phần gia nghiệp của con thế là đủ cho con rồi. Khi dấn bước theo Chúa, trong niềm sốt sắng chúng ta hân hoan dâng bài ca: “Chúa là gia nghiệp đời con”, lúc đó xem ra như không còn gì phân lìa ta ra khỏi tình yêu của Chúa. Thế nhưng tại sao với thời gian tình yêu của ta đối với Chúa bị nhạt dần, bị phai mờ đi vì những thử thách, vì những bám víu, vì những mưu toan lo cho bản thân mà chối bỏ Chúa, chối bỏ không dấn thân sống sứ điệp của Chúa.

Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ lại một số điều kiện căn bản để sống theo Chúa: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi”. Đây là mộ phản ứng nồng nhiệt, tình cảm, nhưng Chúa Giêsu cảnh tỉnh anh về cuộc sống theo Chúa là không có sự an toàn êm ả trong một căn nhà êm ấm đâu, mà phải chịu thiệt thòi, phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, kể cả những gì con người tự nhiên có quyền hưởng. Chúa muốn chúng ta phải có thái độ dứt khoát theo Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài và vì Ngài mà thôi. Chúa sẽ bù lại gấp trăm nhưng theo cách thức mà Chúa muốn, theo ý Chúa an bài, chứ không phải theo ý riêng của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được dứt khoát theo Chúa cho đến cùng. Amen.

 

36. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa Nhật thứ XIII thường niên, với chủ để chính là: “Chúa cất tiếng gọi”. Ngỏ lời là sáng kiến của Thiên Chúa và con người đáp trả. Êlia và Êlisê là hai nhân chứng. Chúa đã dùng Êlia gọi Êlisê, Êlisê đáp trả (x.1 V 19,16b.19-21). Vì là sáng kiến của Thiên Chúa nên Chúa gọi người Chúa muốn: “Hãy theo Ta” (Lc 9, 51-62). Hôm qua cũng như hôm nay, Thiên Chúa vẫn đến gọi con người ngay giữa dòng đời. Chúa gọi Êlisê khi ông đang cày ruộng (x.1 V 19, 19). Tiếng gọi của Thiên Chúa là nhất. Chúa gọi, Êlisê không thể trốn được, đến nỗi ông không nói được gì. Tiếng gọi của Thiên Chúa là bắt buộc. Êlia làm điều tốt cho Êlisê khi ông đòi trở về nhà để hôn chào cha mẹ. Êlisê bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: “Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài” (1 V 19, 20).

Khung cảnh thật đơn sơ, nhưng đầy xúc động, không giấu được. Khi Chúa gọi con người, con người không thể cưỡng lại, Ngài không dùng sức mạnh để áp đặt. “Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai” (1 V 19, 19) nghĩa là công việc gần xong. Thiên Chúa đến ra cho ông một chân trời mới. Qua trung gian Êlia, Thiên Chúa gọi Êlisê một cách rất kín đáo: “Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông” (1 V 19, 19). Không một lời chiêu mộ, không một huấn lệnh để bắt ông vâng theo. Êlisê thấy sự công chính và hành động ngôn sứ của Êlia, ông hiểu theo lòng mình. Tiếng Chúa gọi lay động lòng người.

Để đáp lại tiếng Chúa, con người phải có tự do là lẽ đương nhiên. Tự do này do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô giải thoát chúng ta để chúng ta thực sự tự do” (Gl 4, 31b). Chúng ta chỉ thực sự tự do khi chúng ta hoàn toàn đáp lại tiếng Chúa. Từ lúc Thiên Chúa gọi đến lúc con người đón nhận ân sủng để đáp trả cách tự do là cả một thời gian dài để đắn đo và cân nhắc. Như Êlisê, hành động trước tiên là ông thu mình vào trong dĩ vãng, và tìm kiếm sự an toàn nơi gia đình. Đây là người chắc chắn, nhưng ơn của Thiên Chúa là không đổi. Êlia từ chối sự trốn chạy của Êlisê, dù Êlisê không lượm áo choàng Êlia tặng cho. Khi Êlisê tìm gặp được sức mạnh, ông nắm bắt ngay, ông bỏ lại tất cả những gì mình đang có để dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.

Tương tự như bài Tin Mừng, có ba người được gọi (x. Lc 9, 51-62). Nhưng lịch sử cuộc đời của mỗi người khác nhau. Vấn đề là tiếng Chúa gọi và sự đáp trả của con người.

Câu hỏi được đặt ra cho người thứ nhất khiến chúng ta suy nghĩ. Trước hết, anh không được Đức Giêsu gọi, anh đến xin làm môn đệ Người (x. Lc 9, 57). Giống như ở trường các thầy Rabbi, học trò đến xin theo học. Đức Giêsu không ở trong trường đặc biệt này, Người không có điều kiện ổn định, Người đang trên đường. Bước vào trường Giêsu là lên đường, từ bỏ tất cả những gì ổn định, ngay cả gia tài và địa vị. Theo Đức Giêsu là gắn bó với Người, lên đường tiến về phía trước, cần phải tự mình quyết định, nhưng không thể tiến bước một mình.

Người thứ hai là một ngoại lệ. Chính Đức Giêsu gọi anh. “Hãy theo Ta” (Lc 9, 59). Người này được kêu gọi cách đặc biệt đi vào trong giao ước tình yêu gắn kết với Thầy. Đối với anh, Đức Giêsu yêu cầu từ bỏ cách triệt để, không trở về chôn cất mẹ cha. Khi anh thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 59 – 60). Chúng ta không biết anh đáp lại ra sao. Nhưng đòi hỏi ở đây cho thấy, phục vụ Nước Trời luôn kéo theo một sự từ bỏ tận căn. Từ bỏ chính là thước đo tình yêu của ta đối với Đức Giêsu.

Người thứ ba xin theo Đức Giêsu với điều kiện (x. Lc 9, 61). Như trong bài đọc I, thái độ là điều cần phải suy nghĩ. Đối với Đức Giêsu tra tay vào cầy, nghĩa là đang phục vụ người khác chuẩn bị cấy cầy, ngoái lại sau là bỏ dở việc. Quyết định này làm sáng tỏ điều trên. Từ bỏ gia đình không phải là một từ bỏ, vì nó mở ra một gia đình khác. Theo Chúa không loại trừ gia đình đầu tiên nhưng là vượt qua. Gia đình Thiên Chúa là gia đình có Thiên Chúa hiện diện, liên kết hết mọi người lại với nhau một cách chặt chẽ sâu xa hơn gia đình tự nhiên.

Tóm lại, nhân đức đầu tiên của trang Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống chỉ đẹp khi thực sự sống tự do. Chính tự do, Đức Giêsu “dứt khoát ” lên đường đi Giêrusalem nơi Người biết rằng mình sẽ chết. Giá trị của cuộc sống lớn lao hơn khi người ta sử dụng tự do để phục vụ sự sống cho người khác. Cần bước qua những thử thách trong đời, lằng nghe tiếng Chúa gọi và đáp trả. Lịch sử nhân loại chúng ta đang sống, người này liên đới với người kia. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Ước chi tự do của anh em không phải là cái cớ để làm thoải mãn tính ích kỷ của anh em, trái lại, anh em hãy phục vụ mọi người trong tình yêu” (Gl 5,13).

Công Ðồng Vaticanô II quả quyết rằng “kẻ được Thiên Chúa Cha kêu gọi… theo ý định của ân sủng Ngài” (Lumen Gentium, số 40). Đúng thế, theo Chúa là ra khỏi ý định riêng tư, để đặt mình trong bàn tay và ý định nhiệm mầu của Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa là đặt mình trên đường theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con thưa với cả cuộc đời: “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Chúa” (x. Dt 10,7).

home Mục lục Lưu trữ