Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 74
Tổng truy cập: 1365950
THI HÀNH SỨ MẠNG
THI HÀNH SỨ MẠNG
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Sau khi kể lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Ga-li-lê. tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Na-da-rét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Na-da-rét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do Thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Na-da-rét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ I-sai-a nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đợi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Lu-ca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. I-sai-a công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo. Người tôi tớ ấy chính là tôi, người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều I-sai-a đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn Sách Thánh này. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tât. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lỗi. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. Những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ I-sai-a đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo Hội và trong Giáo Hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo Hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách I-sai-a thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo Hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Va-ti-ca-nô II, Giáo Hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo Hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến "linh hồn". Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện, các trại phong, trại tế bần, trại dưỡng lão...Ai đã khai hóa cho thế giới "Mandi" của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo Hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bổn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hữu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoặc xua đuổi hoặc giữ người khác lại cho Chúa Ki-tô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Ki-tô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
38.Tôn giáo của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca kể lại một lần Chúa Giêsu về thăm Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, Ngài vào hội đường với mọi người trong ngày Sa-bát, như từ nhỏ đến lớn Ngài vẫn tới hội đường này. Cũng như tại các nơi khác, Ngài đã làm như thế từ lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng. Có lẽ vì đã nghe tiếng đồn về công cuộc rao giảng của Ngài nên người ta trao Sách Thánh cho Ngài đọc, Ngài mở ra và đọc trúng đoạn ngôn sứ Isaia nói về sứ mạng người tôi tớ của Thiên Chúa.
Đọc xong, Ngài gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Luca chỉ ghi lại một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa Giêsu muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết rằng: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà Isaia đã loan báo, người tôi tớ ấy chính là tôi.
Suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời Sách Thánh ấy. Ơn cứu độ Chúa Giêsu công bố và thực hiện không phải chỉ là “cứu các linh hồn” nhưng là sự giải phóng toàn diện con người và xã hội khỏi nghèo đói, bệnh tật, tù đày, áp bức, bất công… Chúa cho người ta hưởng một phần hiệu quả của sự giải phóng ấy qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Ngài cho người ta nếm những ân huệ của “Năm Toàn Xá của Thiên Chúa”. Như vậy, chính Chúa Giêsu đã tự giới thiệu sứ mạng của Ngài tại hội đường Na-da-rét, và qua ba năm cuộc đời công khai, quả thực Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng ấy.
Ngày hôm nay, sứ mạng của Chúa Giêsu vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại, hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Đối với chúng ta hôm nay, nhờ bí tích rửa tội, chúng ta đều thuộc về Giáo hội, chúng ta đã và đang thụ hưởng những hồng ân cao cả của Chúa, chúng ta phải làm sao cho những người mình gặp gỡ, tiếp xúc, được hưởng những ân huệ ấy như mình. Vậy chúng ta phải làm gì và làm thế nào? Chúng ta hãy sống cho thật tốt đẹp ơn gọi làm người của mình. Tại một bộ lạc trong rừng già Phi châu, có ba thanh niên, sau khi trải qua một số thử thách, đã đến trình diện với viên tù trưởng của họ. Ông nhìn từng người rồi nói: “Trong sáu ngày qua, các ngươi đã được đưa vào rừng sâu để trải qua một cuộc thử thách, sau không biết bao nhiêu gian khổ và nguy hiểm, các ngươi đã trở về bình an vô sự, nhưng vẫn chưa đủ, các ngươi hãy kể lại cho ta nghe tất cả những gì các ngươi đã làm trong sáu ngày qua để xứng đáng được gọi là chiến sĩ”.
Lần lượt mỗi người kể lại thành tích của mình. Người thứ nhất cho biết là anh đã giết được con báo. Người thứ hai kể lại anh đã hạ được một con trăn khổng lồ. Đến phiên mình, người thứ ba chỉ biết đứng im lặng, tên anh là Ma-ma-đu. Ông tù trưởng hỏi anh: “Nào Ma-ma-đu, ngươi đã làm được gì?”. Một cách nhỏ nhẹ, anh nói rằng anh đã lấy được một tảng mật ong. Nghe thế mọi người cười ồ lên, bởi vì họ cho rằng lấy được mật ong thì có gì đáng gọi là một thành tích. Ông tù trưởng hỏi anh: “Tại sao ngươi lấy mật ong mà không chịu đi săn thú dữ?”. Ma-ma-đu trả lời: “Cha mẹ tôi đã già yếu bệnh tật, tôi luôn nghĩ đến các ngài, cho nên tôi đã lấy mật ong mang về biếu các ngài”. Nghe thế, viên tù trưởng liền đứng dậy, ông lấy cây đao trao cho người thanh niên và tuyên bố: “Ngươi hãy cầm lấy cây đao, bởi vì ngươi là người xứng đáng để lãnh nhận danh hiệu chiến sĩ hơn cả. Trước khi trở thành một người thợ săn giỏi, cần phải nên người đã, và chỉ có một cách duy nhất để biết một kẻ nào đó đã thực sự nên người là kẻ đó biết đặt tình thương trên tất cả mọi sự và hiếu thảo với cha mẹ mình”.
Trước khi trở thành một chiến sĩ, phải sống xứng đáng như một con người đã. Người dân nước Mỹ có thể sẽ nói: “Trước khi trở thành tổng thống, hãy sống xứng đáng như một con người đã”. Đó là lý do tại sao người Mỹ đòi hỏi vị tổng thống của họ phải là một người có đời sống trong sạch, gương mẫu. Tất cả những ứng cử viên bị phát giác có những lem nhem, lăng nhăng đều bị cử tri tẩy chay.
Chúng ta cũng có thể nói: Trước khi là một tín hữu Chúa Kitô, hãy sống xứng đáng như một con người đã. Thực ra ơn gọi làm Kitô hữu không loại bỏ hoặc chồng lên ơn gọi làm người. Thiên chức Kitô hữu phải là một thể hiện cao độ của chính ơn gọi làm người. Và ngược lại, sống cho ra người, sống xứng với những đòi hỏi của phẩm giá con người, đó cũng có thể là một cách thế làm Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người của Ngài. Ba mươi năm thinh lặng của Ngài ở Na-da-rét là một thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người ấy. Sống cho tha nhân, chết cho tha nhân, đó cũng chỉ là đòi hỏi tất yếu của ơn gọi làm người mà thôi. Con người không thể làm người một cách thành toàn nếu không đặt tình yêu thương trên tất cả mọi sự. Chúa Giêsu đã đi cho đến tận cùng ơn gọi làm người ấy khi Ngài dốc cạn giọt máu cuối cùng, Ngài đã trở thành con người kiểu mẫu, bởi vì Ngài đã sống trọn vẹn cho tha nhân. Vì thế, đạo của Chúa Giêsu, tôn giáo của Chúa Giêsu cũng chính là đạo, là tôn giáo của con người. Chúng ta chỉ có thể là tín đồ đích thực của tôn giáo ấy nếu chúng ta biết yêu thương mọi người như anh em của mình.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Kitô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
39.Những lời tiên tri được ứng nghiệm
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 Hôm nay, trong Hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời Tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc.
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa ra cho họ một lời Thánh Kinh, và bắt đầu từ tu sĩ trẻ nhất, thầy hỏi ý nghĩa của lời ấy. Mỗi tu sĩ đều nói theo khả năng của mình. Nhưng với tu sĩ nào thì thầy Antôn cũng nói: "Anh chưa tìm ra ý nghĩa".
Tu sĩ cuối cùng nói với thầy Giuse:
- "Còn thầy, thầy giải thích lời đó ra sao?"
Thầy Giuse đáp:
- "Tôi không biết".
Lúc ấy thầy Antôn nói:
- "Đúng, thầy Giuse đã tìm được giải đáp, vì Thầy nói: tôi không biết".
Trước lời giải đáp của những vị tu sĩ cao niên đã nhiều năm sống đời tu hành trong hoang địa, ngày đêm không ngừng suy niệm Lời Chúa, thầy Antôn vẫn nhất mực nói: "Anh chưa tìm ra ý nghĩa". Nhưng với thầy Giuse, người có uy tín nhất, người đã trả lời "tôi không biết", thầy Antôn lại bảo: "chính thầy Giuse đã tìm được giải đáp".
Thưa anh chị em,
Phải chăng có một nghịch lý trong giai thoại trên đây?
Trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, trí khôn con người làm sao có thể hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả được? Bởi vậy, cách giải thích Lời Chúa trung thực nhất là thú nhận rằng mình không giải thích nổi. Chỉ Thiên Chúa mới hiểu biết Lời Ngài và nói Lời Ngài cách thích đáng và xứng hợp. Hôm nay chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích cho chúng ta:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe".
Phải, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời Tiên tri trong Cựu Ước tiên báo, trước khi Ngài sinh ra hàng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của Ngài.
Thật vậy, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời Tiên tri tiên báo: Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau nầy, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải Ngài là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm được nói v.v… đúng như lời Tiên tri Isaia tiên báo.
Hôm nay, trong Hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời Tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc. Ngài có sứ mạng đem ơn Cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, tù đầy, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ. Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ ; Ngài lấy việc giải thoát họ làm sứ mạng của mình, và ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là tái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Và Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nổ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô, đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Chính Giáo Hội đã khai sinh ra các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão. Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm, ngày nay vẫn còn giá trị. Và hôm nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn trương hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và sôi nổi nhất, liên quan đến công lý, giải phóng, phát triển và hòa bình.
Mẹ Têrêxa Calcutta trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô. Mẹ đã bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, Mẹ bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt Thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho Mẹ Têrêxa vào Thiên đàng. Thánh Phêrô nói: "Không để cho một người ở khu ổ chuột được vào Thiên đàng: Thiên đàng không có nơi cùng khổ".
Mẹ Têrêxa tức giận nói với Thánh Phêrô: "Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên đàng".
Tội nghiệp Thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ đó, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Ngày nay với gần 3000 nữ tu đang dấn thân với danh nghĩa là "thừa sai bác ái" trong 350 cơ sở xã hội, thuộc gần 100 quốc gia, những thừa sai bác ái ấy là những nhân chứng cho Chúa Kitô, cho sức mạnh của Tin Mừng, sức mạnh giải phóng những người nghèo khổ trên thế giới.
Nhắc lại thành quả của Mẹ Têrêxa, không nhằm làm chúng ta hãnh diện cho bằng thúc giục chúng ta, mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe ". Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Chúa Kitô chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ môn đồ Chúa Kitô như thế, thì lời Tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
40.Thời gian cứu độ đã đến – Cố Lm. Hồng Phúc.
Chúng ta đều biết rằng Thánh lễ gồm hai phần liên kết chặt chẽ là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Trong Phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng lời hằng sống của Chúa. Trong Phụng vụ Thánh Thể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt và Máu Thánh của Ngài.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa trong đạo cũ Do-thái và người khởi xướng ra là một tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa GS. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nohemi kể lại việc ông tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích. Dân chúng nghe, tung hô, rồi phủ phục trước Thiên Chúa cầu nguyện.
Đó là nghi thức Phụng vụ Lời Chúa thường được tổ chức tại Hội đường Do-thái trong ngày Sabba.
Thì, trong bài Phúc Âm, Luca kể lại một nghi thức Phụng vụ đặc biệt tại Hội đường Nagiaret, quê quán của Chúa Giêsu. Trong xóm nghèo Nagiaret, ai cũng biết Ngài là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria. Ngài đã từng sống giữa họ, chia sẻ đời sống của họ. Rồi gần đây, Ngài bỏ họ, bỏ nghề, bỏ làng đi rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ. Danh tiếng đồn thổi khắp nơi. Hôm nay, ngày Sabba lễ nghỉ, họ được tin Ngài trở về làng. Thế là họ ùn ùn kéo đến Hội đường nơi người sẽ giảng, đến vì muốn xem sự việc xảy ra làm sao. Con bác thợ mộc, ít học trở thành một Rabbi!
Người ta trao cho Ngài sách Tiên tri Isaia, Ngài mở đúng vào nơi có chép: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn xám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Đoạn đó trích ở Isaia, chương 61, tiên báo về Đấng Messia. Đến đây, không có gì lạ. Đoạn ấy dân chúng đã nghe nằm lòng. Sự lạ lớn lao như quả bom nổ là: Người gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, Lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện.” Chưa một tiên tri nào nói như thế hay cả dám nói như thế. Chữ “hôm nay” thật là quan trọng. Lời của Thiên Chúa mà đem áp dụng vào mình, y rằng mình là Thiên Chúa. Họ ngạc nhiên, họ bàn tán, họ châm biếm: Đó là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria đầu xóm kia mà. Trong Hội đường, có lẽ chỉ có một người đàn bà hiểu, một người đang đứng với chị em phụ nữ bên kia tấm chấn song ngăn cách. Đó là Đức Mẹ.
Ngài tuyên bố: Thời gian cứu độ đã đến. Chính Ngài là Đấng “hôm nay” đến để cứu chuộc nhân loại, khai mạc mùa hồng ân cứu rỗi. Ơn cứu chuộc đó, mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, thì trong bài đọc II, Thánh Phaolô dạy chúng ta phải ăn ở xứng đáng vì “chúng ta là chi thể của Ngài.” Mỗi người trong thân phận của mình hãy làm sáng danh Chúa.
Lạy Chúa, “giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa sáng ngời”, xin sáng soi con mắt và đường lối con đi.
41.Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tim hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết tâm thực hiện không?
42.Hôm nay đã ứng nghiệm ...
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Truyền thống cũng là sáng tạo
''Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Luca.''
Để hiểu ý nghĩa của câu này, cần phải biết rằng Tin Mừng hoàn toàn không phải là một bộ sưu tập những mẩu chuyện liên quan đến Đức Giêsu và các giáo huấn của Người. Mỗi tác giả Tin Mừng đều là một chứng nhân về Con Thiên Chúa, và khi viết Tin Mừng, tác giả có ý trả lời vấn đề vẫn thường được nêu lên: Đức Giêsu là ai? để nhờ đó mỗi người có thể gặp được Đức Giêsu khi nghe nói về Người, hay khám phá ra Người qua cuộc sống của các môn đệ. Mỗi nhân chứng này kể lại lòng tin của mình vào Đức Giêsu dựa theo một lịch sử: những sự kiện và những lời Đức Giêsu nói. Tuy nhiên mỗi tác giả còn dựa vào kinh nghiệm riêng của mình và của môi trường sống. Điều này giải thích vì sao mỗi tác giả có nét đặc trưng và âm giọng khác nhau.
Dù vậy, vẫn luôn chỉ có một Tin Mừng, bởi vì chỉ có một Đức Giêsu Kitô. Mọi bản văn trong Kinh Thánh đều quy hướng về Người.
Bản văn được phụng vụ sử dụng hôm nay là một thứ sắp xếp lại. Đây là một cách thức đọc Tin Mừng. Cách thức này làm nổi lên ba đề tài: Luca quyết định viết một quyển sách; Đức Giêsu mở quyển sách; Người gấp sách lại và bắt đầu hoạt động.
Thánh Luca biên soạn theo một trật tự có sẵn. Người ta nhận ra ngay đây là một ông thầy đang nghiên cứu và soạn thảo nhằm hiểu các biến cố cách khách quan. Mục đích của tác giả thật rõ ràng: giúp người đọc nhận thức được rằng giáo huấn mình đã học hỏi thật là vững chắc. Chính vì vậy, những chữ được viết ra phải đem lại điều chắc chắn. Tác giả mong muốn mỗi người cảm nhận được sự vững chắc này và mỗi người phải tự kiểm chứng lại giá trị của điều đã được viết ra. Nói cách khác, mỗi người phải chọn lựa và dấn thân. Một truyền thống được gọi là đích thực khi truyền thống ấy luôn khơi dậy sức sáng tạo.
Khi vào hội đường Na-da-rét và đọc bản văn ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu cũng không làm gì khác hơn. Người không lặp lại bản văn, không bình luận về bản văn lâu đời này; Người cũng không đưa ra những nhận định uyên bác về thời kỳ bản văn được soạn thảo. Trái lại, Người làm nảy sinh một ý nghĩa mới, Người đem lại sức sống cho những chữ chết. Chữ viết không chỉ là chứng từ của quá khứ, nhưng trở thành nguồn mạch cho hoạt động. Đức Giêsu không phải là nhà khảo cổ hay người chú giải. Người hoàn tất điều bản văn đã nói. Người mở ra một thế giới mới. Vì vậy, Người quả quyết: ''Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.''
Đức Giêsu là Đấng mà mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ''có'' nơi Người (2 Cr 1,20), Người không thể đọc lời Chúa mà không thi hành, không hoàn tất ngay tức khắc. Chính vì thế, theo bước chân Người đi, các phép lạ được thực hiện cho những người nghèo khó, những kẻ bị tù đày, người mù, người bị áp bức ...
Như vậy, quả là điều vô ích khi một số Kitô hữu muốn đóng khung truyền thống, đóng khung lời nói và hoạt động của Đức Giêsu. Người ta muốn hiểu chính các điều đã xảy ra trong quá khứ, thế nhưng người ta lại quên rằng, những điều ấy được truyền lại cho thế hệ sau với mục đích mỗi thế hệ phải đọc lại theo một cung cách mới, phù hợp với bối cảnh sống hiện tại của mình. Dấn thân phục vụ lời Chúa, đó là bước vào một hoạt động sáng tạo, đó là biến mình trở thành người phục vụ cho những khởi đầu mới.
Lời Chúa không thể mất đi
Tin Mừng cứ chạy, chạy mãi: từ Luca đến Ti-mô-thêu, từ những nhân chứng tai nghe mắt thấy đến tất cả chúng tôi - tức là những cộng đoàn tiên khởi, từ ngôn sứ Isaia đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến những người Do-thái đang tụ họp trong hội đường, và đến cả những người ngày nay - tại sao lại không?
Lời Thiên Chúa do Đức Giêsu công bố, dù mọi người đã biết, nhưng vẫn có tính cách đặc biệt. Người ta chẳng hiểu vì sao Người có uy quyền như thế.
Trước đấy, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng ra khắp miền Galilê. Nhưng khi trở về quê hương, Người biết rõ là người ta không để ý lắng nghe lời Người nói. Tại những miền khác, Người thường đến với những kẻ bị bỏ rơi, những kẻ bị tù đày, những người mắc bệnh phong hủi, hay với kẻ mù loà, với người đàn bà goá ... Còn hôm nay, Người xuất hiện trong một cuộc hội họp: Người tỏ mình ra trong Hội Đường của người Do-thái.
Đức Giêsu đứng lên, đọc sách, và ngồi xuống như những người khác. Thế nhưng điều Người nói quả là lạ lùng, khó có thể tin được:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố
cho kẻ giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa.
…
Hôm nay dã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Các lời Đức Giêsu nói và những việc Người làm vừa có tương quan hỗ tương với nhau, vừa có liên hệ tới toàn bộ sứ điệp Cựu ước. Vì vậy, các thính giả nhận ra một sự thật rõ ràng: Thần Khí Thiên Chúa luôn có mặt!
Người ta vẫn gặp thấy những người hăng hái dấn thân phục vụ người nghèo, mặc dù hoàn cảnh của họ không thuận lợi lắm -nếu không muốn nói là bi đát, và công việc phục vụ của họ rất khiêm tốn. Chính lúc ấy, dường như lời họ nói có sức thuyết phục hơn, chặt chẽ hơn, làm cho người nghe phải bối rối. Trước những mẫu gương này, thường có hai phản ứng: một là bịt tai lại, không muốn lắng nghe, hai là để ý và theo dõi bước chân người đi trước.
Theo cái nhìn trong đức tin, các vị thánh, các ngôn sứ hay những người được Chúa xức dầu là những người dùng lời nói hay hành động của mình để thúc đẩy người khác nói và hành động, làm cho vương quốc tự do của Chúa được xuất hiện.
Như thế, Thần Khí Thiên Chúa luôn hoạt động trong mọi người và trong mọi thời để người nghèo, kẻ tù đày, người bị áp bức trong mỗi thời đại được giải thoát, về cả đời sống vật chất lẫn những khát vọng sâu xa của con người.
Và như vậy, Tin Mừng không bao giờ bị mất đi.
"Ngày hôm nay''
Tất cả được bắt đầu vào ngày Đức Giêsu mở sách ra và đọc lại lời ngôn sứ Isaia, và tuyên bố với mọi người: ''Hôm nay'' đã ứng nghiệm ...
Không ai, có thể lầm lẫn về lời tuyên bố này, vì đoạn sách Đức Giêsu vừa đọc lại nói về Đấng Mê-si-a. Và Đức Giêsu quả quyết: Hôm nay và chính tôi.
Lời tuyên bố này không phải là một lời sấm, nhưng là một biến cố, một biến cố duy nhất và không thể đảo ngược lại. Lời tuyên bố này đòi mỗi người phải tự xác định lại mình trong tương quan với Đức Giêsu. Bởi vì vẫn chỉ là một lời duy nhất, một lời luôn có tính hiện đại: lời Đức Giêsu nói tại hội đường Na-da-rét, lời thánh Luca viết cho ông Thê-ô-phi-lô, và lời chúng ta đang nghe hôm nay.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào lịch sử cửa toàn thể nhân loại và của mỗi người. Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải hành động vì cuộc sống vĩnh cửu của mình.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người bước vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng duy nhất.
Chính ngày hôm nay là một cuộc truyền tin cho mỗi người, bởi vì họ phải lắng nghe và chọn lựa.
Chính ngày hôm nay, Thiên Chúa đang đến với mỗi người. Chính Người đang hiện diện, qua Hội Thánh, qua các bí tích. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải đón tiếp Thiên Chúa.
Phần chúng ta, chúng ta sống ngày hôm nay như thế nào, chúng ta làm gì?
Thánh Luca đã khởi đầu Tin Mừng từ ngày hôm nay. Đó cũng là khởi đầu cho mọi cuộc loan báo Tin Mừng. Ngày hôm nay là một biến cố, người ta không chỉ bình luận về biến cố, nhưng người ta sống và loan báo.
43.Phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Người ta kể: "Có ông nhà giàu Do Thái kia có tên là Rabba, nhiều ruộng vườn, gia nhân đầy tớ và thợ làm công. Một hôm có người thợ làm việc cho ông lỡ làm bể một thùng rượu, ông giận dữ mắng, chửi thậm tệ và buộc bồi thường. Bọn thợ đến than phiền với một tiến sĩ luật, vị này khuyên ông Rabba tha cho đám thợ nghèo. Ông Rabba hỏi vị luật sĩ: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ trả lời: "Phải, nếu ông hiểu biết tinh thần luật". Nghe thấy, Rabba tha không đòi đám thợ bồi thường nữa. Có lần khác, đám thợ can đảm than thở thẳng với ông chủ của họ: "Thưa ông, chúng tôi quá nghèo túng, mặc dầu được ông thương cho việc làm và chúng tôi cũng đã làm hết sức như ông thấy, nhưng chúng tôi cũng đói khổ và thiếu thốn mọi sự". Vị tiến sĩ biết chuyện, nói với ông Rabba: "Ông hãy cho họ lãnh lương tháng trước đi, nhưng đừng ghi sổ và sau đó sẽ quên chuyện này". Ông Rabba hỏi: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ luật trả lời: "Phải, nếu ông hiểu tinh thần luật, vì thật ra luật Chúa đòi buộc công bằng, nhưng có chủ đích làm cho con người trở nên tốt lành hơn".
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, mở mắt tinh thần canh tân tâm lòng và sống tốt lành hơn giữa những suy đồi xã hội một cách đích thực. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Do Thái đã có công rất lớn trong nỗ lực hồi sinh dân Israel, tái thiết thành Giêrusalem và xây lại đền thờ sau khi họ từ Babylon trở về nước vào năm 537 trước Tây Lịch. Hai tác phẩm mang tên hai vị tường thuật công tác tái thiết cuộc sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo của dân Do Thái trong thời ấy. Chương VIII sách Nêhêmia nêu bật vai trò của Lời Chúa trong công trình tái thiết. Thật vậy, đối với dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, đã nhận được luật lệ Chúa ban, nghĩa là Lời Người nói với họ, thì công trình tái thiết không thể chỉ hạn hẹp trên bình diện vật chất như xây lại nhà cửa đền đài, tổ chức trở lại bộ máy chính trị, kinh tế và các dịch vụ hành chánh của cuộc sống thường ngày, mà còn phải tái thiết cuộc sống tinh thần nữa.
Tái thiết ở đây, trước tiên có nghĩa là trở về với các đòi buộc của Giáo Hội, tuân giữ các luật lệ của Chúa, sống chìm ngập trở lại trong bầu khí đạo hạnh, tin tưởng vững mạnh vào các Lời Chúa hứa vào giao ước và các phúc lành của Chúa. Nói cách khác, dưới ánh sáng Lời Chúa, việc tái thiết đầu tiên mà dân Do Thái phải làm là công cuộc tái thiết cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần bị tội lỗi phá hủy. Vì nếu không thì công cuộc tái thiết vật chất cũng sẽ không giúp dân Do Thái hồi sinh thật sự. Có đền thờ đẹp mà làm gì với tâm lòng con người đầy tràn tội lỗi và xa rời Thiên Chúa. Đây là lý do giải thích tại sao mặc dầu có rất nhiều điều phải làm trong giai đoạn tái thiết, ông Nêhêmia vẫn tổ chức các buổi cử hành Phụng vụ Lời Chúa và dành thời giờ cho việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, và toàn dân tán thành việc tái thiết cuộc sống tinh thần do ông đề xướng.
Mặc dầu giờ đây họ cũng đang rách rưới, đói khát cơm bánh, cần đến nhà cửa và công ăn việc làm, nhưng người dân hiểu rằng trong quá khứ, kiểu cách sống tội lỗi sa đọa của họ đã khiến cho Giêrusalem bị đánh chiếm và thành thánh bị phá hủy bình địa, thì giờ đây, chỉ có cuộc sống tâm linh mới giúp họ duy trì những gì họ sẽ xây dựng mà thôi. Nếu không có nếp sống tinh thần mạnh mẽ, nền văn minh vật chất cao, sớm muộn gì cũng dẫn đưa con người đến chỗ diệt vong.
Lịch sử thăng trầm của mỗi dân tộc trên thế giới đều minh xác sự thật này. Sự suy đồi luân lý đạo đức và các giá trị tinh thần là dấu chỉ các bước đầu suy thoái của một xã hội. Do đó phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần là cách thế hữu hiệu nhất giúp duy trì và thăng tiến cuộc sống xã hội. Ngay trên bình diện vật chất, lập trường của ông Nêhêmia là một bài học quí báu cho các vị lãnh đạo tinh thần, cho các cộng đoàn dân Chúa. Công việc cấp thiết nhất luôn luôn là việc đào tạo nhân lực, củng cố tinh thần sống đạo sâu đậm của tín hữu, chớ không phải là xây thêm nhiều nhà thờ và cơ sở cho to, cho lớn, cho đẹp. Các cơ sở cần thiết nhưng chúng không làm nên sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này đã được thánh Phaolô áp dụng như tường thuật trong chương 12 thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
Cộng đoàn này hồi đó bị chia rẽ nội bộ trầm trọng, các cuộc cải vã, tranh chấp giành địa vị xảy ra trong các tầng lớp trong cộng đoàn, thêm vào đó là kiểu cách sống và hành xử đi ngược tinh thần Kitô. Trong các tín hữu có người sống dâm loạn, buông thả các nhân đức Kitô, đặc biệt là đức bác ái bị lãng quên. Để tái tạo sự hiệp nhất giữa các thành phần cộng đoàn và cho thấy tất cả mọi người đều có một chỗ đứng quan trọng và một phận vụ cần thiết đối với cộng đoàn, thánh Phaolô đã dùng lại hình ảnh thân mình và các chi thể là một hình ảnh quen thuộc trong nền văn chương Ai cập, và nhà văn Rôma, Titô Liviô, đã dùng lại để diễn tả nỗ lực của hoàng đế Agrippa làm hòa lại giữa hai nhóm cùng đinh và quý tộc Rôma tranh chấp chống đối nhau. Tuy nhiên, thánh Phaolô không chỉ dùng hình ảnh thân mình và chi thể như một kiểu nói ám chỉ, diễn tả tính cách bổ túc và phối hợp điều hòa giữa các chi thể với nhau trong thân thể con người, mà thánh nhân cũng còn rất thường hay nói đến thân mình thật sự của Chúa Kitô là bí tích Thánh Thể và thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô là cộng đoàn tín hữu, là Giáo Hội. Cộng đoàn tín hữu phải có khả năng diễn tả cho mọi sinh hoạt và kiểu cách sống của mình, những gì được biểu lộ trong bí tích Thánh Thể, nghĩa là diễn tả sự hiệp nhất tinh thần, chia sẻ ơn thánh, thái độ sống tận hiến cho nhau, hòa tan trong nhau và xây dựng cho nhau và với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là các tương quan giữa các tín hữu với cộng đoàn và nhiệm vụ mỗi người giữa lòng Giáo Hội, phải được sống như trong bí tích Thánh Thể, phục vụ, hy sinh và tận hiến, chớ không được để cho chủ trương tranh giành địa vị, đòi hỏi quyền lợi như các thái độ vụ lợi trần tục chi phối và hướng dẫn.
Trong viễn tượng và tinh thần đó, mỗi một Kitô hữu đều tìm ra chỗ đứng của mình trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà không bị rơi vào chước cám dỗ coi mình là có nhiều khả năng nhất, tài giỏi nhất và giữ địa vị quan trọng nhất, không có mình thì không xong. Thay vì cố gắng xây dựng vun trồng cộng đoàn Giáo Hội vững mạnh thì lại sống phản chứng, ích kỷ, kiêu căng ngạo mạn để đi đến chỗ trở thành dụng cụ của Satan, đánh phá Giáo Hội, gây chia rẽ kỳ thị khiến cho cộng đoàn Giáo Hội bị thương tích tan rã và suy yếu đi.
Mỗi khi không sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô và không diễn tả những gì được thể hiện qua bí tích Thánh Thể, là người tín hữu chối bỏ ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân loại khi nhập thể làm người, khi bước vào lịch sử và sống giữa lòng xã hội con người. Trong chương 1 và 4, thánh Luca có ý củng cố niềm tin của tín hữu, đặc biệt những người nghi ngờ nền tảng lịch sử của ơn cứu độ. Thánh nhân đề nghị với mọi người theo sát chương trình sống của Chúa Giêsu Kitô, chương trình này hiện thực Lời Thiên Chúa hứa, vĩnh viễn can thiệp vào cuộc sống của con người đã bị tội lỗi biến sự sống trở thành cái chết. Tất cả những động từ thánh Luca dùng trong chương 4,14-21, như giải thoát, chữa lành, trao ban ơn thánh cho con người, diễn tả ơn cứu độ toàn vẹn mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Chúng cũng phải là kiểu cách sống của một Kitô hữu, khi nào và ở đâu có bóng dáng Kitô hữu, thì ở đó bóng tối của sự dữ cũng phải bị đẩy lui. Khi đó, ở con người cũng có cuộc sống sung túc lành mạnh hơn trên thân xác mà nhất là trong tinh thần. Đây là lý do giải thích mọi nỗ lực và mọi sinh hoạt của xã hội trong việc củng cố cuộc sống tâm linh và thăng tiến cuộc sống xã hội cho con người. Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện, một thân thể có to lớn mập mạp béo tốt đến đâu mà không có tinh thần và tâm trí lành mạnh, thì cũng chỉ là một thân thể bệnh hoạn đáng thương.
44.Xin hãy sai con – Lm. Ignatiô Trần Ngà.
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Chúa đầy lòng yêu thương, một thính giả không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:
Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Ngài nhắm mắt làm ngơ trước cảnh biết bao nhiêu người nghèo khổ, tuyệt vọng, mất phương hướng phải sống trong sầu đau mà không ban cho họ một tin mừng, một tia hy vọng?
Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Cha nhân ái khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù vật chất, trong sự trói buộc của các đam mê mà Ngài không ra tay giải thoát?
Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Ngài để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.
Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm sao Chúa không giải thoát họ?
Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, ông chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của đêm trường:
- Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?
- Ngài ra tay lúc nào đâu? Ngài đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?
- Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?
Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Ngài hành động, Ngài thực hiện mọi việc qua chúng ta. Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Ngài cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thiếu nhi nên tốt thì Ngài cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.
Xưa kia Thiên Chúa Cha đã nhờ đến Chúa Giê-su để đem Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức thế nào, thì hôm nay, Ngài cũng cần đến chúng ta để thực hiện những công việc đó.
Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chúng ta chấp nhận ở lại trong nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Ngài để tiếp tục sứ mạng của Ngài, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Ngài sử dụng và sai khiến.
Tờ Times, một tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Cuối năm 2006 vừa qua, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là... "Bạn" (You). Tức là mỗi một người trong quý ông bà anh chị em.
Đúng vậy, đó không phải là chuỵên đùa. Mỗi người trong chúng ta làm nên lịch sử. Thế giới nầy có được đổi mới, có được tiến bộ hay không cũng là nhờ sự cộng tác của từng người, của mỗi một người trong cộng đồng nhân loại.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ như thế đó.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy đó.
Hãy nhận ra rằng mình là chi thể của Chúa, là khí cụ cứu rỗi của Ngài. Hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình của Chúa.
Điều chính yếu và quan trọng là chúng ta hãy hiến dâng đời mình cho Chúa, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, nầy con đây, xin hãy sai con.
Một khi chúng ta đã hành động theo lời sách tiên tri Isaia hôm nay, để cho "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức"..., chúng ta có thể mãn nguyện và nói như Chúa Giê-su hôm xưa rằng: "hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe".
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam