Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 45

Tổng truy cập: 1371253

THIÊN CHÚA CỨU CHUỘC THẾ GIAN BẰNG TÌNH YÊU

THIÊN CHÚA CỨU CHUỘC THẾ GIAN BẰNG TÌNH YÊU (*)-Noel Quession

Như ông Môsê đã gương cao con rắn trong sa mạc

Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm”, “đưa mắt” hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh trong suốt “bốn mươi” năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm “một dấu hiệu chữa trị”, một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người” (Kn 16,7).

Qua sự giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái “nhìn” tự nó không chữa. lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị đoan. Nhưng đó là dấu chỉ “Đức tin”, nghĩa là nhờ một cử chỉ bên ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang “quay về” với Thiên Chúa.

Con người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời.

Vâng, thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.

Cần phải dám ngắm nhìn “Đấng chịu đóng đinh” đó, Đấng được “giương cao” trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao” (“upsothènai” trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được “giương cao) trên thập giá, vừa được “đưa lên” ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).

Vâng, thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm “hình ảnh” này, và đây là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với Gioan, “Thập giá” và “Phục sinh” thuộc cùng một mầu nhiệm mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: “Đức Giêsu được đưa lên cao khỏi đất”. Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ “vinh quang” của Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa

Ngay khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh” (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: “‘Đã đến giờ Con Người được tôn vinh… Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác… phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,23-32).

Vậy khi đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được “gương cao” giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là “đỉnh cao của tình yêu”: Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người bị tra tấn đến ứa máu, chính là một “chóp đỉnh của đau đớn” và chết chóc”, nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần phải nhắm mắt lại để “thấy” những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh tượng trên mới chỉ là “dấu chỉ”: Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt tâm hồn con người đó, Đức Giêsu “không ai có tình thương lên hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là “dấu chỉ” của một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người” (Ga 3,16).

Vì thế, các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ “vinh quang” nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh “Lạy Cha”.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.

Thời đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: ‘Thế gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được’ chúng ta cũng dễ hiểu sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp, lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng… Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một ‘cái nhìn yêu thương’, thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng sống cho anh em.

Người đã ban cho Con Một mình

Hai động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: “Yêu và cho”! Ta hãy cầu nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.

Ta cũng nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: “Một” hay “độc nhất” (tiếng Hy Lạp là ‘Monogénes’). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó được đưa vào trong kinh Tin kính: “Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa”. Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại chấp nhận một cách kỳ diệu ‘hy sinh’, ‘ban tặng’ đứa con đó: thánh Gioan nhớ rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).

Tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng “Con Một” Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể nghĩ ngược lại được: “Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất”, Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).

– Thiên Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một “sự sống từ trời” được ban tặng (Ga 3,3).

– Thiên Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.

– Thiên Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ.

– Công trình của Con Người cũng là “công trình của Thiên Chúa” (1Tm 2,4).

Ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.

Thiên Chúa là “Đấng hằng sống” tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định “cứu độ phổ quát” của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành tựu, con người còn phải chấp nhận “ân huệ” đó. Hiển nhiên không thể tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế, thì thật sự là tạo một thứ “hỏa ngục”. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người: Kẻ nào không muốn “sự sống” mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự “đối diện với Thiên Chúa”.

Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.

Trích đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.

Đoạn văn quả quyết hai điều:

– Một là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người.

– Hai là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên Chúa.

Như thế, việc “lên án” không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc “Con Một của Người hiến thân” cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự. Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc “lên án” không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng “diện kiến” tự kết án mình trở thành một thế giới “ở bên ngoài” Thiên Chúa; một thế giới chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.

Chúng ta cần ghi nhận rằng, “bi kịch của thái độ vô tín” không chỉ là một vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình, thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của Thiên Chúa “Đấng không đến để xét xử”.

Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: “Mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa”

Sau hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ không ngừng tạ ơn tình yêu đó và ‘sự sống vĩnh cửu’ này đã khởi sự, đó là một sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một ’sự nghỉ ngơi đời đời’. Đối với Tin Mừng thứ tư, đó là một ‘sự sống vĩnh cửu’, tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã nói: “Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. Sống là “hành động”! Đó là những “hành động”, những “việc làm”; những “công trình”. Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những “việc làm của con người” cũng được công nhận như những “việc làm của Thiên Chúa”. Đó là cuộc sống vĩnh cửu.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- B

CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO- Chú giải của William Barclay

Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.

Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu. Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.

Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.

Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.

Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:

-Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.

-Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.

-Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.

Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.

Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.

-Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.

-Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.

-Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.

-Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.

-Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.

TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)

Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.

-Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.

-Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.

-Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.

TÌNH YÊU VÀ XÉT XỬ (Ga 3,17-21)

Đến đây chúng ta lại đối diện với một trong những điểm dường như nghịch lý trong Phúc Âm Gioan –nghịch lý giữa yêu thương và xét xử. Chúng ta vừa suy nghĩ về tình yêu của Chúa và bây giờ thình lình phải đối đầu với sự xét xử, buộc tội và kết án. Gioan vừa mới tuyên bố Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài cho thế gian; rồi ông tiếp tục cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nói: “Ta đã đến thế gian để xét xử” (Ga 9,39). Làm sao cả hai điều trên đây đều đúng được?

Chúng ta có thể tạo cho một người kinh nghiệm chỉ có tình yêu mà thôi, nhưng chính kinh nghiệm đó lại trở thành hình phạt cho người ấy. Chúng ta có thể cung ứng cho một người một kinh nghiệm vui sướng hạnh phúc, nhưng kinh nghiệm đó lại là một hình phạt cho người ấy. Giả như chúng ta rất thích nhạc đại hòa tấu, dường như chúng ta cảm thấy rất gần gũi với Chúa trong tiếng vang rền của âm điệu hơn bất cứ nơi nào khác. Giả như chúng ta có một người bạn không biết gì về âm nhạc, chúng ta muốn giới thiệu với người bạn ấy cái kinh nghiệm tuyệt diệu của mình, để chia sẻ cho họ và tạo dịp tiện để họ được tiếp cận với vẻ đẹp vô hình của âm nhạc mà chúng ta thích thú. Chúng ta không có mục đích gì khác ngoài ra làm cho bạn mình thấy hạnh phúc trong một kinh nghiệm mới mẻ tuyệt vời. Chúng ta đưa người bạn ấy đến buổi hòa nhạc giao hưởng; chỉ trong chốc lát, người ấy thấy uể oải, chán ngán và dáo dác nhìn chung quanh hội trường. Người bạn ấy đã chịu hình phạt chính mình vì chẳng có chút âm nhạc nào trong tâm hồn cả. Cái kinh nghiệm nhằm đưa anh ta đến với niềm vui lại trở thành hình phạt cho anh.

Điều này cũng thường xảy ra cho con người khi đứng trước một nhân vật vĩ đại, cao trọng. Chúng ta có thể đưa người ấy đi xem các tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, nghe một nhà truyền đạo lừng danh giảng thuyết, ngắm một cảnh đẹp nào đó, hoặc một cuốn sách hay để đọc. Nhưng phản ứng của họ lại trở thành một lời phán xét, một hình phạt cho chính họ. Nếu họ không thấy chút gì là đẹp, không có chút rung động nào, thì chắc hẳn đã có một điểm mù trong tâm hồn họ rồi. Người ta kể rằng có một du khách được đi xem triển lãm nghệ thuật. Trong phòng triển lãm có những tác phẩm vô giá, những kiệt tác vượt thời gian và không gian của những bậc thiên tài thực sự. Sau khi đi hết một vòng, người du khách nói: “Tôi không thấy mấy bức tranh cũ này của ông có giá trị gì”. Người hướng dẫn phòng triển lãm nói: “Thưa ông, tôi xin nhắc để ông nhớ các họa phẩm này không còn bị đem ra xử, nhưng chính chúng xử những người đến xem chúng”. Phản ứng của người này cho thấy ông ta là kẻ đui mù về nghệ thuật cách đáng thương hại.

Với Chúa Giêsu cũng vậy. Khi một người gặp Chúa với tâm hồn rung động trước sự kỳ diệu và vẻ đẹp của Ngài, thì người ấy đang ở trên con đường cứu rỗi. Nhưng nếu đã gặp Chúa và vẫn không thấy Ngài có gì đáng yêu cả, thì người ấy đã bị phán xét. Chính phản ứng của người kết án người. Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến trong tình yêu để cứu rỗi người ấy, nhưng Chúa Giêsu đã trở thành một lời buộc tội người ấy. Chúa không buộc tội người Ngài yêu thương, nhưng chính người ấy đã tự kết án mình.

Người thù nghịch Chúa Giêsu là người đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng. Điều khủng khiếp đối với một người thất sự tốt lành thánh thiện, là luôn luôn có một yếu tố vô thức nào đó trong lòng vẫn lên án mình. Chính lúc so mình với Chúa, chúng ta mới thấy mình là thể nào. Alcibiades, một thanh niên tài ba, nhưng hư hỏng, của thành phố Athène, bạn của Socrates, thỉnh thoảng thét lên: “Socrates ơi, tôi ghét anh, vì mỗi lần gặp anh thì anh cho tôi thấy tôi là gì”. Một người làm ác chẳng bao giờ muốn sự sáng soi rọi điều ác mình. Nhưng một người làm lành chẳng bao giờ sợ ánh sáng.

Người ta kể rằng, có lần một kiến trúc sư đến với Plato đề nghị đưa cho ông ta một số tiền, ông sẽ xây cho Plato một ngôi nhà nhiều phòng mà ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy người trong phòng. Plato đáp: “Tôi sẽ tặng ông số tiền gấp đôi để ông xây một ngôi nhà mà ở trong phòng nào người ta cũng thấy được”. Chỉ kẻ làm ác mới không muốn nhìn thấy chính mình, cũng không muốn người khác nhìn thấy mình. Người như thế chắc chắn sẽ thù ghét Chúa Giêsu, vì Ngài sẽ chỉ cho người ấy thấy rõ chính mình, đó là điều cuối cùng mà người ấy muốn thấy. Người ấy yêu thích bóng tối che dấu, và không muốn ánh sáng soi tỏ, phơi bày ra.

Phản ứng của một người đối với Chúa Giêsu bày tỏ con người thật của người ấy. Qua phản ứng đối với Chúa Cứu Thế, tâm hồn con người được phơi bày trần trụi. Nếu người ấy nhìn Chúa Cứu Thế với tình yêu, dù chỉ là mơ ước, người ấy vẫn còn hy vọng. Nhưng nếu người ấy chẳng nhìn thấy có gì đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, thì người ấy đã tự kết án chính mình. Đấng đã được phái đến trong tình yêu đã trở thành sự phán xét buộc tội người ấy.

 CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- B

ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHÚA CON ĐEM ĐẾN CHO CON NGƯỜI (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.

 2Sb 36: 14-16, 19-23

Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.

Ep 2: 4-10

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki-tô.

Ga 3: 14-21

Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)

Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích nầy nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành đô bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.

Tội của dân Ngài:

Tác giả ghi lại những biến cố nầy vào thời gian rất lâu sau nầy, cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.

Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Việc dân bi trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng”.

Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ”. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông, vân vân. Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.

Thiên Chúa tha thứ:

Nhưng cơn thịnh nộ nầy chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên nầy. Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích nầy là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.

Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa “làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem”. Nếu Thiên Chúa sai phái các sứ giả của Ngài, chính “vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự”. Hành động đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ki-rô tuyên bố “xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem”.

Mầu nhiệm Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.

BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)

Thánh Phao-lô viết thư nầy từ Rô-ma trong hoàn cảnh bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư nầy không chỉ cho cộng đoàn  Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.

Thư nầy biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.

Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích nầy rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.

Quyền Tối Thượng của Chúa Cha.

Thánh Phao-lô luôn luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư nầy, trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…

Chúa Cha giàu lòng xót thương.

Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Chuộc: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.

Cuộc sống tương lai:

Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.

Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ nầy? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.

Đức tin, việc làm và ân sủng.

Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ nầy. Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất; nhờ Ngài, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.

TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)

Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài ban đêm. Với đoạn trích nầy, nhân vật Ni-cô-đê-mô biến mất khỏi câu chuyện: không còn cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Diễn từ của Đức Giê-su không còn ngỏ lời với người biệt phái thiện cảm nầy nhưng với tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của “phiên tòa” lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ phiên tòa xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.

Đoạn văn này gồm ba phần: trước hết, dấu chỉ của con rắn đồng; tiếp đó, ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người; sau cùng, tấn thảm kịch của sự chọn lựa.

Dấu chỉ của con rắn đồng (3: 14-15)

Đối với những người Biệt Phái chất vấn Ngài, Chúa Giê-su cho những câu trả lời thường bí ẩn. Đối với ông Ni-cô-đê-mô, Ngài ám chỉ đến một sự kiện sắp đến mà ông không thể nào hiểu được: việc Ngài bị treo lên trên thập giá được sánh ví với việc con rắn đồng được ông Mô-sê treo lên trên một cây sào trong hoang địa để mà những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn mà khỏi phải chết. Rõ ràng điều này muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu nếu đặt trọn niềm tin của mình vào Đấng chịu đóng đinh.

Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng (Ga 3: 14; 8: 28; 12: 32), loan báo hành vi cứu độ của Thập Giá. Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá là tột đỉnh ý định của Thiên Chúa.

Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người (3: 16-18)

Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu “Con Một” có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2); nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều có được sự sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.

Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa.

Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất này tràn ra cho hết mọi người, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.

Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)

Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối nầy cô đọng Thần Học Gioan.

Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của  ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.

Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”.

home Mục lục Lưu trữ