Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1372860
THIÊN CHÚA ĐẤNG TRUNG TÍN
Thiên Chúa, Đấng trung tín
Anh chị em thân mến,
Trên đời này, chữ tín rất quan trọng; có chữ tín người ta mới dễ dàng thành công trong công ăn việc làm. Chúng ta thử nhìn ra giữa chợ, phố xá: vì chữ tín, người ta dám cho nhau vay, cho mượn hàng trăm triệu đồng không cần thế chấp, giấy tờ. Điều đó đủ minh chứng chữ tín vô cùng quan trọng...
Trong kho tàng văn học Pháp, có một câu chuyện ngụ ngôn: Một em nhỏ tính tình không tốt, em lại thích gạt gẫm người khác... Một hôm, em từ bìa làng chạy vào, vừa chạy vừa la thất thanh: chó sói, chó sói...cứu tôi, cứu tôi! Người trong làng nghe la chạy ra, vừa chạy tay cầm theo gậy hèo để tiếp cứu; nhưng khi đến nơi mới biết bị em bé gạt. Họ tiu nghỉu bỏ ra về. Không lâu sau đó, một hôm em bé trở về làng, cũng la thất thanh và kêu cứu như thế. Lần này dân làng vì nhớ chuyện củ, nghĩ rằng lại bị em bé ngổ nghịch gạt nữa, nên không ra tiếp. Em bé bị chó sói cắn thật, đến mất mạng... Hôm nay, Hội thánh lại nói đến việc Thiên Chúa là Đấng trung tín hết lòng, đã hứa và đã thực hiện... Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, đã hứa từ ngàn xưa trong Cựu Ước: Qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta biết Adam và Evà đã phạm tội, do đó đã đem lại hậu quả tai hại là hết mọi người đều phải chết. Dù vậy lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa không đành bỏ mặc con người phải chết đời đời, Người đã hứa sẽ tìm cách cứu vớt lại lỗi lầm đó, qua các Tổ phụ, các Tiên tri:
Trong vườn địa đàng, sau khi con rắn cám dổ Ông bà phạm tội, Chúa đã chúc dữ cho con rắn và phán: "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người Nữ. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân Người..." (Stk 3, 15).
Thiên Chúa sai Isaia nói cùng vua Achaz rằng: "chính Chúa ban cho các ngươi một dấu lạ. Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel."(Is 7, 14).
Ở chỗ khác, trong sách Mikêa: "Chúa phán thế này: phần ngươi, hởi Bêlem Epphrata, ngươi nhỏ nhất trong phần đất Giuda, nhưng từ nơi ngươi, sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel, Người có từ đời đời..."(Mic 5, 1)
Dân tộc Israel, (Do thái) được coi là dân riêng Thiên Chúa tuyển chọn, để Người thực hiện Lời Hứa này; chính họ hiểu rõ Lời Hứa đó hơn ai hết, và họ luôn trông ngóng ngày giờ Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa, một thời gian rất dài, từ Adam Evà cho đến khi Đấng Cứu thế giáng sinh. Kinh thánh kể là lối 2000 năm, nhưng thực tế lịch sử cho ta biết còn dài hơn nhiều....
b/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, khi đến thời đến lúc, Người sẽ thực hiện lời Người đã hứa:
Bài TM hôm nay tường thuật lại biến cố giáng sinh; Lời Thiên Chúa hứa qua chính Con Một của Ngài: "Nầy đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai. Bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu David, Tổ phụ Người, Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Nguời sẽ vô tận." (Lc 1, 31-32)
Chính thánh Phaolô quả quyết: "khi xưa vì một người duy nhất đã sa ngã (Adam củ trong vườn địa đàng) mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, nay nhờ một người duy nhất (Adam mới: Đức Giêsu Kitô) đã thực hiện lẻ công chính, mà mọi người được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống (Roma 5, 18).
Câu chuyện: Có một giai thoại hài kể lại: người ta nói rằng: người Mỹ là người nói trước làm sau, nghĩa là nói là làm, rất uy tín. Người Nhật còn dữ dội hơn; họ làm trước nói sau, nên không bao giờ mất uy tín. Còn người VN chúng ta, thì sao biết không? Thưa: nói một đàng làm một nẻo. Xin lỗi anh chị em, nói câu này không biết có bị chưởi bới và bị kết án như Đức Tổng Kiệt không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta, điều này ta thật dễ hiểu. Nhưng nói Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn giữ lờiNgười đã hứa, nhất là với con người chúng ta, điều này xem ra không dễ hiểu tí nào. Vì do tội nguyên tổ, con người chúng ta hay thay lòng đổi dạ, ít khi trung tín với nhau. Vậy mà qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa tỏ ra vô cùng trung tín. Trong mùa giáng sinh này, xin cho mọi người kitô hữu hiểu được điều đó, để sẳn sàng đáp lại tình yêu vô bờ của Thiên Chúa.
35. Hãy là nhịp cầu đưa Chúa đến với anh em
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng vượt qua trở ngại để gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến được những phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng, giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh chóng, dễ dàng.
Nhưng làm cách nào để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
* * *
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, quan hệ nồng thắm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như bất tận.
Vì tự cách ly với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn lụi dần như thân phận của những chiếc lá lìa cành.
Nhưng Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền."
Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mình và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.
* * *
Tuy nhiên, cho tới hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân lệnh Ngài truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
* * *
Nguyện xin Chúa giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, mà phận làm tôi thì không được làm trái mệnh lệnh Chúa truyền.
Nguyện xin Mẹ dạy chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và thưa cùng Ngài: "Nầy tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền."
36. Quyền năng Chúa
Trong cuốn Linh Thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm ba bước.
Bước thứ nhất là hãy tưởng tượng xem thế giới thời trước Chúa Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan, hờ hững với Thiên Chúa. Sự xấu thì tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người thì rơi vào một tình trạng tuyệt vọng.
Bước thứ hai là hãy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao nhìn xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn ngàn vì sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét. Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang quì cầu nguyện.
Bước thứ ba là hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới câu:
- Quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.
Ba chữ “bao trùm lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:
- “Bấy giờ có một đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt hòm bia giao ước”.
Bao lâu đám mây ấy còn bao trùm lên lều tạm, thì lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng ba chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ý, vì nó gồm tóm một ý nghĩa sâu xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt hòm bia giao ước của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung lòng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa.
Như thế, nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì chính Thiên Chúa thực sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi vì đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.
Thực vậy, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật, bởi vì Ngài đặt để một cái gì đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một nhạc sĩ đã đặt để một cái gì đó thuộc bản thân ông trong dòng nhạc mà ông đã sáng tác.
Tiếp đến Ngài có thể hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong tiếng nhạc của ông.
Sau cùng, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi trình diễn.
Và như thế, qua Đức Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn độn, gia đình có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi vì quyền năng của Thiên Chúa đã xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hãy tự hỏi xem, chúng ta đã làm được những gì để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đã ngự xuống nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria?
37. Xin vâng
Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa lên lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc hẳn ngay từ những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioan Kim đã dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.
Thực vậy, bấy giờ Mẹ đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một lời xin vâng quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đã giữ sự im lặng, bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được hiểu.
Trong lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa lại nhìn sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe và ghi nhớ trong lòng.
Rồi khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu lên:
- Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi.
Chúa cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của Chúa.
Rồi đêm hôm đó Chúa đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng đớn đau Chúa đã kêu lên:
- Một vâng theo ý Cha mà thôi.
Mẹ cũng thưa:
- Này tôi là tôi tá Chúa.
Mẹ luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.
38. Xin vâng
Có một người kia đã nói: “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gabrien; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẫu đối thoại: từ một mẫu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabrien và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gabrien đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình như Mẹ.
39. Xin vâng
Hôm nay, nhiều người tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của mình”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết gì, không phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề gì ràng buộc với mình.
Tất nhiên, thật tốt đẹp và cần thiết trong việc tìm kiếm và thực hiện điều gì sâu xa mà chúng ta cảm thấy rằng mình được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con người là gì, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân mình. Trong phương pháp “làm theo nhu cầu riêng của mình”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có nghĩa là đi con đường dễ dãi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến tình trạng nô lệ và mất hạnh phúc.
Ở đây có một sự thật quan trọng: chắc chắn sẽ tìm thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận trách nhiệm mà thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn phải là biết chấp nhận trách nhiệm trong lòng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết lòng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng khó khăn bao nhiêu, thì chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.
Về việc này, Đức Maria đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đã không nói với sứ thần “Xin lỗi, nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”. Nhưng Mẹ đã nói “Không phải ý riêng của tôi, nhưng ý muốn của Thiên Chúa mới là quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria đã làm cho mình trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ý trong công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.
Thật vậy, Mẹ nói “Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ đã mở tất cả mọi khả năng của mình ra. Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình.
Những người nào biết chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đã thực hiện, thì có thể không tìm thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ tìm thấy và nhận biết điều đó một cách sâu xa.
Ân sủng lớn lao nhất trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.
40. Sự tin tưởng
Bối cảnh: Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ của anh đã qua đời. Anh nghiêm khắc đối với các con, nhưng cư xử rất tốt và yêu thương chúng. Anh là một luật sư liêm khiết và xuất sắc. Tuy nhiên, anh đã tự làm cho mình trở nên rất xa cách đối với mọi người trong tỉnh, khi chọn một người đàn ông da đen đã từng bị tố cáo là một tên ám sát – tỉnh này đầy rẫy sự phân biệt đối xử đối với những người da đen.
Tại cuối con đường, có một người phụ nữ lớn tuổi sống ở đó, bà hay ngồi ở trước vườn của mình suốt các buổi chiều. Bà cứ gọi hai đứa con của vị luật sư, khi chúng đi ngang qua đó trên đường đi học và trở về nhà. Bọn trẻ cảm thấy rất bực mình, khi bà réo tên của cha chúng.
Vào một buổi tối, cậu con trai quyết định nhảy vào khu vườn của bà, và phá vài cây hoa, rồi chạy về nhà. Sau đó, người cha nói “Con không nên làm như vậy”.
Cậu con trai phản đối “Nhưng con làm điều đó là vì bố mà”.
Người cha bảo “Bà ấy là một người phụ nữ rất đau yếu. Bây giờ, con hãy đến xin lỗi bà ấy đi”.
Cậu bé miễn cưỡng ra đi. Người phụ nữ yêu cầu cậu bé mỗi tối đến đọc sách cho bà trong vòng một giờ. Cậu bé e sợ khi nghĩ đến công việc đó, nhưng cha cậu lại bảo rằng cậu nên đồng ý giúp bà cụ già đó trong công việc này. Thế là cứ mỗi tối, cùng với em gái mình, cậu bé đến đọc sách cho bà cụ. Khoảng một giờ sau, bà cụ bị run lên bần bật. Hai đứa trẻ ra về và một người y tá đến săn sóc bà cụ. Vài tuần sau, những cơn run đó trở nên bớt xảy ra thường xuyên hơn.
Thế rồi vào một buổi chiều, người cha nói với hai đứa trẻ là bà cụ vừa mới qua đời. Chúng nghĩ thầm “Cám ơn Chúa”, nhưng không nói ra điều đó. Sau đó, khi người cha nói với chúng rằng trước đây vài tuần, một bác sĩ ghi toa cho bà cụ uống mấy viên thuốc giảm đau, và bà cụ đã bị nghiện những thứ thuốc này. Nhưng khi bác sĩ nói rằng bà cụ không còn sống được lâu nữa, thì bà cụ quyết định là trước khi chết, bà sẽ thử bỏ thói quen uống thuốc. Những cơn run mà chúng nhìn thấy là triệu chứng do cai nghiện.
Bọn trẻ hỏi một cách sốt sắng “Thế bà cụ cai nghiện có thành công không?”.
Người cha trả lời “Có. Ngay trước khi qua đời, bà cụ nói với bố rằng bà cụ sẽ không bao giờ có thể cai nghiện thành công được, nếu chúng con không đến đọc sách cho bà. Bà cụ muốn gửi lời cảm ơn chúng con”.
Người cha bảo “Điều đó không quan trọng. Điểm chính yếu là chúng con đã làm theo lời dạy bảo của Bố. Chúng con là những đứa trẻ ngoan. Bố tự hào về chúng con”.
Hai đứa trẻ chưa nhận ra được đầy đủ ý nghĩa của công việc mà người cha yêu cầu chúng làm. Tuy nhiên, chúng vẫn làm điều đó trong tinh thần yêu mến và vâng phục.
Trong cuộc sống, chúng ta thường không nhìn thấy toàn bộ ý nghĩa của những việc mình làm. Đôi khi, ý nghĩa này còn bị che khuất đối với chúng ta, giống như hai đứa trẻ trên. Trong trường hợp đó, công việc trở nên rất khó thực hiện, đặc biệt đối với công việc nào không thoải mái, hoặc đối với những người có thái độ vô ơn trước sự giúp đỡ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được thấy cách thức Đức Maria bằng lòng trở thành mẹ của Đấng Cứu độ. Nhưng khi Mẹ thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, Mẹ chưa nhận ra được đầy đủ những điều liên quan đến sự đồng ý của mình. Mẹ cho biết rằng đến ngày sinh của Đức Giêsu, mọi cánh cửa đều khép lại trước mặt Mẹ; rồi một thời gian ngắn sau ngày sinh của Đức Giêsu, Mẹ sẽ trở thành một người đi tị nạn tại một quốc gia khác; và 33 năm sau, Mẹ sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu bị kết án như một tên tội phạm.
Đức Maria đã không chỉ thưa lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản đó rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Nếu không có sự vâng phục của Đức Maria đối với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Mỗi người chúng ta đều đã từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy vào bóng tối, bởi vì chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên quan đến điều mà chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ từ cho chúng ta trong khi chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải xác quyết lời xin vâng cơ bản của chúng ta, không chỉ một lần, mà là nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta giữ được lòng trung thành.
Giống như những trẻ nhỏ thường thắt mắc, Đức Maria cũng hay đặt câu hỏi. Lòng tin không phải là sự mù quáng. Lòng tin vượt ra ngoài lý luận, nhưng không chống lại sự lý luận. Nhưng sau khi đặt câu hỏi, thì những câu trả lời có thể không bao giờ làm chúng ta được hoàn toàn thỏa mãn, chúng ta phải để cho Thiên Chúa được làm Thiên Chúa. Chúng ta phải qui phục mầu nhiệm thôi.
41. Vui nhận ý Chúa
Anh chị em thân mến.
Có một chàng thư sinh nghèo nhưng lại có căn bệnh sĩ diện, nên đi đến đâu anh cũng muốn chứng tỏ mình là một người phong lưu, hào phóng với mọi người. Có những lúc phải vay nợ vì sự hào phóng nầy. Mọi người đều rất ngưỡng mộ anh vì tưởng anh là một công tử nhà giàu, nên mới hào phóng như thế. Tiếng đồn đến tai một tên trộm, hắn lần mò theo dấu chân chàng thư sinh nọ và đến nhà anh ta. Tên trộm vào nhà tìm mãi không được của gì đáng giá, nó mới tìm cách khống chế gia chủ, sau một lúc dùng biện pháp mạnh tra hỏi, mới biết trong nhà không có gì, tên trộm vừa bỏ đi vừa nói: hôm nay là ngày không tốt, đến trộm nhà một người còn nghèo hơn cả mình. Chàng thư sinh nọ nghe thế, máu sỉ diện trổi dậy, anh cố tìm hết trong nhà còn được mấy đồng lẻ, chạy theo, cố nài nỉ đưa cho tên trộm và bảo: hôm nay trong nhà hết tiền, còn mấy đồng anh xài đỡ, đừng nói cho mọi người biết việc hôm nay. Thật là một căn bệnh không thuốc chữa. Chàng thư sinh không biết mình đang cần gì và mình đang thiếu những gì. Anh ta chỉ sống bằng cái vỏ bọc bên ngoài, lâu ngày quen dần nên không còn biết mình là ai và đang cần gì hoặc đang thiếu những gì. Căn bệnh sĩ diện làm cho anh chỉ biết cho mà không dám nhận, nên khi trở về với con người thật thì anh không còn gì. Làm sao cho được cái mà mình không có.
Hôm nay một lần nữa, chúng ta vừa được chứng kiến lại giây phút lịch sử của tình yêu thương, giây phút mang niềm hy vọng, mang sự sống đến cho con người.
Mẹ Maria nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, Mẹ cũng đang trông chờ ơn cứu rỗi, trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người. Mẹ cũng có những dự tính, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ biết những gì mình đang có và mình phải cho đi những gì. Đó chỉ là những giới hạn nhỏ bé của con người. Quan trọng hơn Mẹ còn biết mình đang thiếu thốn những gì và cần những gì. Trong tâm tình biết cho và nhận, Mẹ đã nhận lời đề nghị của Thiên Chúa với tâm tình của một người tôi tớ, nhận với tất cả sự vâng phục, nhận vì Mẹ nhìn thấy đây là điều thiết phải chấp nhận. Mẹ còn chấp nhận vì thấy mình còn đang thiếu và cả nhân loại cũng đang thiếu và cần đến sự chấp nhận của Mẹ. Trong khi nhận, Mẹ đã biết cho đi những gì là riêng tư của mình. Mẹ đã cho đi tuổi thanh xuân của một thiếu nữ, cho đi những ước muốn, cho đi những toan tính, cho đi cả sự bình an mà Mẹ đã chuẩn bị cho mình. Mẹ đã biết cho và nhận vì Mẹ biết mình đang cần gì và còn đang thiếu những gì. Chính vì Mẹ đã biết cho và nhận một cách quãng đại như thế, nên hồng ân cứu rỗi mới được ban xuống cho loài người.
Nhân loại ngày hôm nay đã nhận biết bao hồng ân, nhưng vì là con người: nhân vô thập toàn nên họ cũng còn thiếu thốn rất nhiều. Vậy mà rất nhiều người không biết mình đang có gì và đang cần gì, chính vì thế họ không biết mình phải cho những gì vì cần phải nhận những gì để cho đời sống mình được phong phú hơn.
Mỗi người trong chúng ta không thoát khỏi cái thường tình của con người. Hiện tại rất nhiều người mang lấy căn bệnh của chàng thư sinh nghèo; con người trống rỗng, không có gì hết, nhưng lại không muốn cho ai biết sự nghèo nàn trong cuộc sống. Chúng ta đang nghèo tình yêu thương, nghèo về sự quảng đại, nghèo về lòng tha thứ, nghèo về hồng ân Chúa. Vậy mà bao nhiêu lời khuyên và lời kêu mời quay trở về với Chúa để được đong đầy, chúng ta không thể thực hiện được. Chúng ta đang mang căn bệnh sỉ diện của tự ái, của lười biếng, của sự ích kỷ hiềm khích, nên không thể lắng nghe và hành động được.
Chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và noi gương Mẹ để biết cho đi con người yếu hèn của mình và xin Chúa cho được ơn can đảm biết chấp nhận những gì xảy đến trong đời sống hằng ngày. Đó là chúng ta biết nhận cùng với sự vâng phục như Mẹ. Nếu chúng ta biết cho đi những định kiến, những nóng vội, những phán đoán không cần thiết, để biết bình tỉnh chấp nhận Thánh ý Chúa trong những nghịch cảnh, trong những người không làm cho mình vui, hay trong những lúc ưu sầu phiền não. Những lúc đó, chúng ta đang đi theo những bước chân của Mẹ rất thánh, là biết cho đi và biết chấp nhận. Như thế thì hồng ân Chúa đang đến với mỗi người và nhờ đó lan toả ra cho nhiều người.
Xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người, để biết đón nhận hồng ân Chúa cho xứng đáng.
42. Truyền tin – R. Gutzwiller.
1) Khung cảnh bên ngoài
Đây cũng là một cuộc loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà cũng chính do thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng là chương trình Thiên Chúa đưa ra, sẽ được thực hiện từng điểm một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn. Cả khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong. Đây ta hãy xem:
Trên kia, Lời Thiên Chúa được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói trong một tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có lẫn dân ngoại. Và không được trong tỉnh lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc một thị trấn bên bờ hồ, nhưng trong một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.
Ở kia, sự loan tin xảy ra nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng; ở đây, trong một căn lều quê mùa vào lúc mà chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia, người đón nhận là một trong hàng tư tế Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi chờ, cầu nguyện; ở đây lời của thiên thần đến với một thiếu nữ bình dị mang tên là Maria, một cái tên thông thường có quá nhiều người đặt; không một ai hiện diện. Một bên với vẻ bên ngoài thật là hùng vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên thì bé nhỏ, bình thường và vô nghĩa.
Tuy nhiên, dù cả bên ngoài đi nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có những điểm lớn lao cao đẹp. Vì đang khi thiên thần chờ sẵn thì Giacaria mới bước vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, còn Giacaria là người tiến đến gặp. Thiên thần nhập truyện luôn mà không chào hỏi gì cả. Đang khi đó, Đức Maria ở nơi phòng của ngài, ngài là người tiếp đón, trái lại thiên thần đi đến, đi vào. Như được yết kiến một nhân vật quan trọng với lời chào đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.
Tìm lại văn bản ba yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng cuối cùng đã đặc biệt được nhấn mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn đầy ơn và giờ này lại càng đặc biệt hơn nữa “Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở với Maria, bây giờ thì sự hiện diện đó lại càng đặc biệt và vững bền hơn.
Giacaria phản ứng lại bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo nguồn gốc của trình thuật Kinh Thánh- sự rung động còn hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào tận thâm tâm và cả hiện hữu của ngài. Việc chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến với ngài hoàn toàn là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ thầm mong được sống một cuộc sống bình thường với một tâm tình đạo đức bình dị, nên Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse. Như bất cứ một phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ gì ngoài con đường của những người xung quanh trong dân Israel. Vậy thì Thiên Chúa muốn Mẹ làm gì đây? Lời mời gọi đã đến, đột ngột quá. Đó hẳn không phải là một hậu quả của một tình trạng tâm lý dễ giải thích, mà cũng chẳng phải là một dự phóng của một niềm hy vọng thầm kín hay một đáp ứng cho một niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do Thiên Chúa và chỉ vì một mình Ngài thôi.
Đối với Giacaria và Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể luôn mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà Giacaria sợ khó xảy ra nên mới xin một dấu. Còn Maria, chẳng đợi chờ gì hết, lời của Thiên Chúa làm Mẹ hoảng hốt, sửng sốt. Như vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với nhau, nhưng lại hoàn toàn khác biệt nhau. Điều đó còn rõ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.
2. Đàm thoại.
Hai sứ điệp của Thiên thần mang theo hai câu trả lời của Đức Maria.
Sứ điệp thứ nhất: Lời nói dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự kiện: ‘vì chị đã đắc sủng nơi Thiên Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn huệ hay tự cung cấp được cho mình. Người ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận lãnh. Và bản chất của ơn này được mặc khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai và sinh một con trai’. Để nhận hồng ân, ở đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa, một thực tại thể xác chứ không phải chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên thần thì đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế Ngôi Lời mang xác phàm trong lòng Mẹ. Đứa trẻ mà Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy mới đúng với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một con trai’. Con Thiên Chúa trở nên con loài người vì đó người ‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.
‘Và chị sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị tiền hô đã giầu ý nghĩa, thì danh hiệu này còn hơn biết bao. Vì ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’. Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính ơn cứu độ đã xảy ra ở đây, đó là biến cố quyết định cho tất cả thời gian cứu độ.
Lời Thiên thần diễn tả một sự quả quyết, nhưng cũng là một lệnh truyền: ‘chị sẽ sinh con’. Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng sự nhất trí của mình.
Như đối với vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá nhân và nhiệm vụ liên hệ.
Cá nhân: ‘Ngài sẽ làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và Ngài sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’. Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là Con, mà cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.
Với tư cách là Lơì nội tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời đúng thực là ‘Đấng được phán’. Chính bởi sự hiện hữu của việc ‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi sự hiện hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt tên’ với ý nghĩa đầy đủ và dồi dào nhất.
Nhiệm vụ: ‘và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít, tổ tiên Ngài’. Làm con Đức Maria, và làm Con Cha trên trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít. Triều đại của Đavít tìm lại được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ nhưng không phải vẻ hào nhoáng bên ngoài của một quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ bên trong của vinh quang Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ làm Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường độ lớn hơn vì thêm hai chữ ‘ đời đời’. Đó là vì nói tới hình thức của một vương quốc và một triều đại khác. Cái vòng khép kín của thời gian với sự trở lại chắc chắn của những biến cố cũ đã bị phá rồi: vì Thiên Chúa, Đấng điều khiển thời gian, đã can thiệp vào thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương quốc được thiết lập, triều đại được tu chỉnh, sẽ là vương quốc và triều đại vĩnh cửu.
Một vương quốc thế trần bị thời gian giới hạn xem ra không sao có được ý tưởng gì để so sánh. Vua dân Do thái đấy, không cần ngai vàng vật chất, mà cũng chẳng cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập tự, mang trên đầu mão gai, thì đó đâu phải là ngày tàn của vương quốc và triều đại Ngài, mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc đã đến, nền tảng đã vững.
‘Vương quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương quyền đó không hoàn tất trong không gian và thời gian. Hãy cố có một hình ảnh về Vĩnh cửu, ta biết ngay nó vượt ngoài tầm tay con người và vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói của Thiên thần biểu hiện một lời quả quyết mạnh mẽ và long trọng, ý nghĩ mỗi lúc mỗi tiến hơn theo từng tiếng một, sâu như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi cao và những tiếng sấm vang.
Mới chợt nhìn, trong vẻ đơn sơ, câu trả lời của Đức Maria thật lạ lùng, hầu như là ngã lòng, của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị bộc lộ một tâm hồn đáng thán phục ‘việc ấy xảy ra làm sao được, vì tôi không nghĩ tơí người nam’. Thái độ tinh thần này không còn là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu lộ hẳn ra bên ngoài, và chấp nhận với tất cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ vì quá kinh hãi hay một sự rút lui vì khiêm nhường không đúng chỗ.
Nó cũng giống thái độ của Giacaria. Đối với Maria, đương nhiên là mong muốn xảy ra chuyện mà Thiên Chúa đã loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ có vấn đề là ‘cách thế’. Mẹ muốn và phải biết Mẹ phải làm gì, con đường Thiên Chúa chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không biết tới người nam’, đó chẳng qua là Mẹ muốn biết xem, theo Thánh ý Thiên Chúa, thì Mẹ phải lập gia đình thực sự với Giuse sao? Phải chăng Thiên Chúa đòi sự thụ thai và sinh con trong hôn nhân? Đức Maria thực sự đã đính hôn, Thiên Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và thụ thai Đức Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách khác? Đức Maria không đặt những điêù kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rõ Thánh Ý Thiên Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ hẳn sẽ xảy ra theo sau.
Lần truyền tin thứ hai này của Thiên thần đã đi quá xa lần loan báo cho Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ chị’. Như vậy có sự tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng Đấng Tối Cao, Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần đã bay xà trên mặt đất trong buổi đầu của thế giới, như nguyên lý tạo dựng. Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để tạo dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện diện lạ lùng nhưng rất đặc biệt.
‘Bởi đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là ĐẤNG THÁNH, mà là Thánh.
Vì bản tính sinh ra cách trực tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là chính Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, vì Ngài là Thánh trong tất cả ý nghĩa đầy đủ của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân được chọn sẽ tái sinh trong Ngài, Đấng đã nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của Người Con. Ngài là Con Thiên Chúa vì Người Con từ nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài người như bản tính riêng của mình.
Maria không đòi một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính Thiên thần đã cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét son sẻ đã sinh con trong tuổi già. Một việc thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn khác nhau. Ở trên, tự bản chất là son sẻ, còn ở đây, son sẻ bên ngoài là do sự giữ đồng trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm bằng chứng cho lời của Thiên thần là một động lực sâu xa: ‘vì không có gì là không thể đối với Thiên Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế (18,14): tiên báo cho Abraham rằng người vợ già cả Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một điềm báo, một sự sửa soạn vho phép lạ đang thực hiện, ở đây, của việc thụ thai và sinh ra của Con thực Thiên Chúa đến để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản văn cứ từng chữ phải nói là: ‘Vì Thiên Chúa có thể làm được tất cả những gì Ngài nói’. Tiếng ‘Thiên Chúa’ được Thiên thần thốt lên ở đây là một hạn từ diễn tả quyền năng, truyền khiến, động lực của ý chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi, nhưng còn là sự đòi hỏi và hơn nữa còn là hành động tác tạo của Thiên Chúa.
Vì thế, câu trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của Đức Maria mặc một vẻ vĩ đại hoà lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời Ngài’.
Một sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đã làm cho gần gũi giữa đầy tớ và chủ nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và Người trở nên cao cả vào giờ phút này, đã chỉ nhận cho mình là đầy tớ. Đó chính là sự nhận thức khiêm hạ về một thực tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá và tạo vật, giữa ý chí quyết định, tuyệt đối tự do, có quyền đòi hỏi và tạo dựng với ý chí được thỉnh nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc đặt mình vào ý muốn của Thiên Chúa để được chìm vào giòng nước bao la của Ngài.
‘Xin hãy thành sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính cách quyết định nhất của lịch sử này đã mở màn… ‘Xin hãy thành sự cho tôi’ vừa diễn tả sự sẵn sàng thụ động và sự chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách thế thực hiện và hình thức tạo lịch sử, đã đặt vào đây yếu tố nhân loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều ấy sẽ làm sao được?’. Là câu trả lời của Đức Maria: ‘Xin hãy thành sự cho tôi!’. Đây hẳn không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà cũng chẳng do một lời cầu khiêm hạ, nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự nhiên Thánh Ý Thiên Chúa, một khi đã nhận thức rõ ràng. Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta thấy được vẻ lớn lao vĩ đại. Đối với Maria chẳng phải là ý riêng, cũng không phải vì ý chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào đưa đến mà chỉ do ý muốn và lời của Chúa.
‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu chuyện trên về Giacaria, chính ông rời đền thờ, còn ở đây Thiên thần biến đi. Từ đây phòng ở Nagiarét đã trở nên đền thờ. Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là một dấu chứng của sự im lặng sâu xa mà ở nơi đó trong cung lòng Đức Nữ Trinh, mầu nhiệm của Thiên Chúa được hoàn thành. Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang trang trọng liên kết với vẻ đơn sơ trinh khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh khiết làm chứng một vẻ vĩ đại thực sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam