Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1365545
THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI NGƯỜI HỐI CẢI
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông. Ông viết tội của mình lên một tờ giấy, cầu xin được tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Lúc cha ông còn nằm liệt giường, Gandhi đưa tận tay cho ông cụ tờ giấy đó, rồi ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông nằm ở trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội. Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ chảy xuống chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức giận và trừng phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa con trai đã biết hối cải.
Cảm nghiệm rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có tội đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói: “Chỉ người nào đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu này, mới có thể nhận biết được tình yêu là gì”.
Đây là loại tình yêu mà người con thứ đã cảm nhận được, khi anh trở về nhà. Không có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha anh không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với tất cả tâm tình, và đầy sự rộng lượng.
Trong sự tiếp đón mà người con thứ đã nhận được, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu chúng ta là tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, không phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được yêu thương vì mình là người hoàn hảo. Chúng ta cần được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ánh lại thái độ của người Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người Pharisêu đang ở trong chúng ta.
Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn tất cả chúng ta chưa đáng xách giầy cho người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta đều đã từng lãng phí và sử dụng ân sủng của Thiên Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng ta đều cần đến lòng thương xót hơn là lẽ công bằng?
Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.
“Khi một người cha cứ than thở rằng con trai của ông đã đi theo con đường xấu xa, thì ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều hơn nữa” (Baal Shem Tov)
Suy Niệm 2. SỰ BỘC LỘ TÂM HỒN
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái lại, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên, nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn người của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nạn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng. Tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Sự trống rỗng của tâm hồn là sự nghèo nàn nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.
55.Người con trai đi hoang
Dụ ngôn “Người con trai đi hoang” này thật quý báu, chỉ được một mình Luca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.
Theo luật của người Do Thái, người cho không được tự do phân chia tài sản mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nói đã nói “cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi…
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái vì luật pháp nói: “Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó trở về với chính mình (tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang trở về nhà.
Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:
1. Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội lỗi.
Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được no.
2. Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng, vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta”.
“Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm thấy lại và “thêm giá trị”. Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của ông vì nó đã được “tìm thấy lại” và “sống lại”. Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó”. (ĐTC Gioan Phaolô II, DM6).
Nhưng câu truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” mà dùng chữ “thằng con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa của chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm thấy” (DM 6)
Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không trân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
56. “Tôi muốn trở về với cha tôi”
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Ngày xưa người ta thích gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người con hoang đàng. Nhưng bây giờ, nhiều người không đồng ý như thế. Họ thích gọi dụ ngôn là dụ ngôn Người Cha nhân hậu. Có lẽ cách gọi sau hay hơn cách gọi trước vì, rõ ràng, dụng ý của thánh Luca khi viết dụ ngôn này, đã cho thấy vai trò của Người Cha chủ động trong tình yêu của ông, một tình yêu lớn không thể tưởng, không thể hiểu nổi bởi nó vượt quá sức những gì ta có thể tưởng nghĩ, có thể hiểu được: một tình yêu vĩ đại không gì sánh bằng.
Người cha đó không ai khác hơn là chính Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa của tình yêu. Hơn thế, Người là chính tình yêu. Bởi vậy, dù loài người có thể đánh mất, hoặc đã tự mình đánh mất tư cách làm con Thiên Chúa, tự mình vong thân và vuột khỏi tình yêu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn một mực đón nhận loài người. Thiên Chúa vẫn trung thành trong tình yêu của mình. Thiên Chúa chẳng thôi làm cha bao giờ cả. Ngược lại, vẫn mãi mãi là một người Cha cần mẫn, bao dung, tha thứ, từ bi hãi hà…
Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, thì tình thương của Chúa vẫn cứ sâu nặng, vẫn cứ cao ngất, vẫn cứ mạnh mẽ, không có bất cứ một chướng ngại nào có thể cản trở.
Dù chúng ta có tự tách mình đi xa tình yêu Thiên Chúa tới mức độ nào, Thiên Chúa vẫn không ngừng kiên nhẫn chờ đợi để tha thứ và thông chia cho ta chính sự sống của Người, miễn là ta biết nhìn nhận tội lỗi và thành tâm sám hối quay trở về với Người.
Trở về với Chúa là nhìn nhận mình tội lỗi và quyết tâm chừa tội, quyết tâm thay đổi đời sống. Đứa con hoang đàng, sau khi đã nếm đủ mọi mùi vị đắng cay, đói khổ, cả đến nhục nhã: thấp hơn loài heo, bởi chỉ “muốn ăn đồ heo ăn mà cũng chẳng ai cho”, đã tự nhủ: "Tôi muốn trở về với cha tôi". Sau cùng, anh ta đã đứng lên, trở về thật, dù sự trở về của anh không hề vì tình yêu của cha, mà chỉ vì mình, chỉ vì bụng đói. Vậy mà người cha bất kể anh trở về với ông vì lý do gì, miễn là anh trở về, và đứng trước mặt ông là đủ để ông tha thứ tất cả, quên tất cả lỗi lầm của con ông. Lòng nhân từ của ông không thể có bất cứ điều gì sánh ví được.
Chúng ta cũng vậy. Hãy trở về với Chúa để đón nhận lòng nhân từ vô biên của Người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta, đón tiếp chúng ta, quên tất cả, và quên một cách hết sức nhanh chóng tất cả những gì trong quá khứ chúng ta lỗi phạm. Người tha thứ cho chúng ta vô điều kiện. Tình yêu thương, lòng tha thứ đại lượng của Thiên Chúa, đó là những điểm then chốt của bí tích hòa giải, bí tích mà Hội Thánh tha thiết kêu nài chúng ta hãy lãnh nhận trong Mùa Chay này.
Trong mùa Chay, Hội Thánh mời gọi ta trở về với Chúa và trở nên giống Thiên Chúa. Hội Thánh dạy ta hãy để cho tình yêu của Chúa ngự trị trên cuộc đời mình, và hãy tin tưởng ngã vào tình yêu của Người. Bởi đó, dụ ngôn trên được gọi là dụ ngôn Người Cha nhân hậu lại càng ý nghĩa hơn, có sức mời gọi ta mạnh hơn, tích cực hơn, giúp ta hiểu rằng, khi ta trở về với Chúa, trước hết, là do tình yêu của Chúa, nại vào tình Chúa yêu ta, chứ không phải tự bản thân ta. Bởi nếu ta có cố gắng vươn lên, thì đó cũng chỉ là nỗ lực cộng tác của ta vào tình yêu của Chúa mà thôi. Chính Chúa là Đấng đoái nhìn đến ta, chủ động yêu thương và tha thứ cho ta. Ước gì mỗi người chúng ta biết hồi tâm sám hối, biết lãnh nhận niềm vui được tha thứ, được Chúa ôm ấp trong cánh tay nhân từ của Người, bởi Người là tình yêu, là suối nguồn bình an muôn đời của loài người chúng ta. Tất cả chúng ta hãy sống và luôn luôn tâm niệm lời của người con hoang đàng: “Tôi muốn trở về với cha tôi”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng phó thác tuyệt đối vào tình yêu của Chúa. Chúng con biết, nhiều lần, chúng con cũng giống như người con hoang đàng bỏ Chúa mà ra đi theo thế gian, theo tiếng gọi của cám dỗ. Xin tha thứ cho chúng con. Xin uốn nắn lòng chúng con, để từ đây, nhất là trong mùa Chay thánh này, chúng con làm lại những gì đã đánh mất và xứng đáng hơn với tình yêu vô bờ của Chúa. Chúa là Cha nhân từ. Chúng con muốn trở về với Cha chúng con. Amen.
57.Người con hoang đàng - R. Gutzwiller
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ… Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!... Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa.
58.Người con phung phí - Lm. Phêrô Thiên
Ba câu mở đầu bài Tin Mừng là lời dẫn nhập cho "ba dụ ngôn về lòng thương xót": con chiên lạc tìm được, đồng tiền đánh mất tìm được, đứa con đi hoang tìm được. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể để tự biện hộ về những quan hệ chướng tai gai mắt (đối với phái Pharisêu) mà Người có với những "kẻ tội lỗi".
"Một người kia có hai con trai..." Ta thường có thói quen xấu là chỉ nghe nửa đầu của dụ ngôn, phần nói về đứa con thứ. Thế nhưng, ông cha mới là người hùng của câu chuyện. Chúng ta sắp nghe không phải dụ ngôn "Người con phung phá" song là "Người cha phung phí", một vở kịch hai màn: cuộc "tranh chấp" giữa một người cha với 2 đứa con, cả hai đều được yêu mến như nhau, yêu mến điên cuồng, mặc dầu chẳng có đứa nào xứng đáng với tình yêu đó cả! Một câu chuyện tình cảm động nhất (Charles Dickens), một hình ảnh đẹp nhất của Cha trên trời!
1- Thái độ của người cha đối với đứa con thứ
Đứa con này chỉ là một tên trục lợi: nó đòi tiền bạc, rất nhiều tiền bạc. Nó chỉ nghĩ tới mình. Nó nhận tất cả từ cha, nhưng chẳng hề biết ơn cha, mà chỉ nghĩ một chuyện: đòi hỏi, yêu sách... Phần người cha thì hoàn toàn trái ngược. Ông chỉ là cho không, chia sẻ vô vị lợi, tôn trọng tự do người khác, tóm lại chỉ là tình yêu! Hình ảnh Thiên Chúa!
Đứa con thứ chính là hình ảnh Biệt phái vẫn thường vẽ lên về tội nhân: a/ Là đứa con nổi loạn, đòi độc lập tự chủ, y quả tượng trưng chủ nghĩa vô thần của mọi thời: hưởng dùng các "ân huệ" của Thiên Chúa nhưng chẳng thừa nhận Thiên Chúa, còn sống xa Người, muốn làm mọi chuyện mà chẳng bị ai kiểm soát cả: "không Chúa không chủ". Điều đó đặc biệt đúng với hôm nay! b/ Hơn nữa, đối với Biệt phái, đứa con Israel này đã xuống tới đáy ti tiện đê hèn. Nó đã bán thân làm nô lệ cho một người ngoại, thành thử chẳng còn giữ ngày sabát cũng như các tập tục về thanh sạch: nó chăn heo, con vật nhơ bẩn, ghê tởm, bị cấm đoán. c/ Hơn nữa, dẫu chỉ xét về mặt con người, sống như thế cũng không hợp luân lý: đây là một tên phóng đãng, một loại người hạ đẳng, biến chất, trở lùi lại thú tính. Nó sống như một loài heo: kiếm tiền, ăn nhậu, làm tình... chỉ biết đến cái tôi, thuần mơ chuyện hưởng thụ...
Ta quả là tô vẽ nó khi ca ngợi sự hoán cải của nó. Không, đứa con thứ vẫn chẳng có thần nào khác ngoài tư lợi ích kỷ: đổ cho đầy bụng! Việc nó trở lại nhà chỉ là một tính toán đê tiện nhằm tìm lại chỗ trú và bàn ăn. Câu nói hoa mỹ, nghe rất lâm ly bi đát, chỉ là một màn kịch soạn sẵn nhằm làm mủi lòng người cha mà nó nghĩ là sẽ la rầy, trừng phạt nó đích đáng và... chính đáng. Có đứa con nào đi xa nay trở về thăm cha mẹ mà lại chuẩn bị trước những câu nói vốn sẽ tự nhiên trào ra tận đáy lòng một khi trông thấy quê nhà dấu yêu? Đứa con thứ xót bụng hơn đau lòng! Nó đúng là một tên khốn khiếp, nạn nhân của các bản năng, của lũ bạn bè quý hóa: nó đã đánh mất tập quán yêu thương, chỉ còn biết nghĩ tới chính mình. Lạy Chúa, đó là hình ảnh của con. Con thường sống như vậy!
Thằng con trở về với ý đồ đê tiện. Nhưng khi "nó còn ở đằng xa", còn chưa mở miệng thì người cha đã làm tất cả. Bốn cử chỉ: "ông đã trông thấy nó", "ông chạnh lòng thương...", "ông bổ nhào ra...", "ông ôm cổ nó và hôn lấy hôn để". Cử chỉ chạy bổ nhào ra có lẽ là cử chỉ mạnh nhất của toàn thể dụ ngôn. Trong tập quán của mọi thời, không có chuyện một người trên chạy tới với một người dưới, nhất là khi kẻ dưới này có một thái độ đáng trách. Đây lại là một ông già đông phương đường bệ, lúc nào cũng ăn nói và đi đứng khoan thai từ tốn.
Vâng, ta bóp méo hoàn toàn dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của đứa con này như mẫu gương "hoán cải". Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả sự "thống hối" của một tội nhân, giáo huấn này đã chẳng gây khó chịu cho người Biệt phái. Tại Israel, người ta đã biết từ lâu, toàn thể Kinh Thánh làm chứng, là Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân hoán cải. Nhưng thái độ của người cha ở đây còn đi xa hơn nhiều: ông không mảy may lưu ý xem thằng con biểu lộ một lòng thống hối đích thực hay giả tạo. Ngay khi nó còn ở đằng xa, ông đã chạy ra gặp nó. Đức Giêsu không nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, trên những cử chỉ thống hối đền tội của nó, nhưng trên tình yêu vô vị lợi của người cha... một người cha đã tha thứ vô điều kiện, trước khi đứa con thú lỗi! Đức Giêsu nói cho ta biết "làm con" là gì: trước hết đó không phải là có thái độ thế này thế kia với cha hay mẹ... nhưng là được cha và mẹ thương yêu, cho dù mình xứng hay bất xứng! Đó đã là mạc khải của ngôn sứ Hôsê: Thiên Chúa tiếp tục yêu thương cô vợ bất trung bất tín của Người (Hs 3,1; 11,1-9; 14,5-9). Hỡi những ai tự nhận là vô thần, những ai sống như kẻ vô thần, những ai đã xa lìa Thiên Chúa vì tội lỗi, Đức Giêsu nói với quý vị: "Cho dẫu bạn không tin Thiên Chúa lẫn yêu mến Người, Người cũng chẳng bao giờ ngừng tin và yêu bạn!". Ta hiểu vì sao những kẻ tội lỗi đã chạy đến cùng Đức Giêsu.
Trong vòng tay cha, thằng con bắt đầu tụng lên câu nói đã dọn sẵn, nhưng ông không để nó kết thúc. Ông chẳng cần biết nó dối trá hay chân thành. Ông chỉ biết nó là con ông và ông là cha nó. Trái tim tràn tình yêu của ông khiến ông đổ đầy nó bằng tặng phẩm! Đây quả thực là một lễ cưới: áo, nhẫn, giày, tiệc, ca nhạc, quả thực là nghi lễ phục hồi chức vị làm con. Ông lăng xăng chạy từ nhà trên xuống nhà dưới, từ đầu sân đến cuối sân, hối thúc gia nhân dọn tiệc. Niềm vui ông thật vỡ bờ. Nếu có hình dung sự hoán cải của thằng con đểu giả thì chính là lúc này đây, khi nó đứng giữa sân như trời trồng rồi khóc lên sung sướng vì nhận thấy tất cả tình thương bao la vĩ đại của cha. Nhưng đó không phải là điều tác giả dụ ngôn muốn đề cập.
Tình thương của người cha được cô đọng trong câu: "Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy". Đây là điệp khúc chấm dứt màn nhất của vở kịch. Lát nữa ta sẽ gặp lại nó cuối màn hai với vài từ thay đổi. Chết-sống... Thất lạc-tìm lại... Cái chết nào đối với Đức Giêsu đây? Mạc khải nào Người muốn đưa ra cho nhân loại đây? Thưa rằng: xa Thiên Chúa, đó là chết, đó là đánh mất chính mình! Con người chỉ hiện hữu thật sự trong mối tương quan với Thiên Chúa thôi. Người ta có thể tưởng mình sống, thế mà đã chết trong thực tế.
Nhưng khi phàm nhân trở về, thì "cuộc liên hoan" của Thiên Chúa bắt đầu, "niềm vui" của Thiên Chúa nở rộ! Hoán cải, đó đơn giản là đi vào niềm vui của Thiên Chúa. Đấy chính là chuyện mà anh con cả sắp khước từ.
2- Thái độ của người cha đối với đứa con cả.
Đối với đứa con cả, người cha cũng biểu lộ một lòng tốt như thế: "ông ra gặp chàng trước...", "ông năn nỉ chàng...". Kinh Thánh thường trở đi trở lại trên chủ đề này, chủ đề về tính nhưng không tuyệt đối của các hồng ân Thiên Chúa, qua hình ảnh con thứ thay thế con cả (St 27,36; 2Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4), hình ảnh "những người thợ giờ cuối cùng" cũng được trả công bằng "những người thợ giờ thứ nhất" (Mt 20,8), hình ảnh "những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu" (Lc 13,30), hình ảnh "lương dân" sẽ thay thế "tuyển dân" (Rm 9,30). Tất cả đều nói lên tự do cao vời và tính cách nhưng không của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với đứa con thứ, người cha đã không muốn nghe gì hết. Nay đối với anh con cả, ông để cho chàng mặc sức trút lên đầu ông bầu tâm sự đầy cay đắng, phẫn nộ. Có lẽ anh cũng có lý của mình. Anh ta chính là chân dung của người Biệt phái mà Đức Giêsu muốn khắc vẽ. Câu quả quyết của anh: "Ông coi, đã bao năm trời tôi làm tôi ông, cũng chưa hề lướt lịnh ông" quả là đúng với sự thật, làm nổi bật hình ảnh phái Pharisêu tự hào vì đã giữ trọn luật (x. Lc 18,9). Thái độ của anh không kể gì đến tương quan anh em nữa ("thằng con của ông") và nói về em một cách khinh bỉ đúng là thái độ của phái Pharisêu đối với hạng mà họ gọi là tội nhân. Bản dịch Anh ngữ câu nói của người con cả này còn cho ta một chi tiết lý thú: "thì ông lại giết con bê chúng ta đã cùng vỗ béo" (you kill the calf we had been fattening). Đúng là chua chát và ghen tức đến cực điểm! Riêng đối với cha, anh đã biến mình thành tôi tớ, biến tình thương thành nô dịch.
Như thế, người con cả cho ta thấy chính trọng tâm của dụ ngôn: anh ta đã không nhận rõ tất cả tình yêu đang bao phủ anh: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, mọi sự của cha đều là của con hết thảy. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây..." Người cha sửa lại lối nói của người anh một cách tế nhị ("em con đây" đối lại "con ông đó"). Qua dụ ngôn hai màn này, thành thử chúng ta được mời đi vào trong tình yêu của Thiên Chúa, trong niềm vui của Người được gặp lại các tội nhân. Đây là lời loan báo sự hoán cải của lương dân sẽ đi vào trong "dân mới của Thiên Chúa" hàng loạt. Một ngày kia, Luca sẽ đặt trên miệng Phêrô câu nói này khi nhận ra ân sủng ban cho viên bách quản ngoại đạo: "Vậy nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa" (Cv 11,17). Không, không có ưu đãi: hết thảy đều được Cha trên trời mến yêu.
Và dụ ngôn "đứa con thất lạc tìm thấy" (hay đúng hơn "người cha phung phí", phung phí tình yêu) kết thúc với cùng một điệp khúc vui tươi như hai dụ ngôn trước (xin xem Chúa nhật 24 thường niên năm C). Màn hai của dụ ngôn lấy lại câu kết luận của màn đầu, với việc đổi từ "con ông" bằng "em con" như đã ghi nhận. Thiên Chúa là Cha, điều đó chắc chắn: Người yêu hết thảy con cái của mình. Nhưng nhân loại có là anh em với nhau không? Phải chăng anh con cả sẽ để mình bị thuyết phục và "đi vào chung hưởng niềm vui với cha"? Chúng ta không biết. Dụ ngôn vẫn bỏ ngỏ. Vì chính người Biệt phái, chính chúng ta phải cho nó một kết luận: đi vào cuộc liên hoan với Thiên Chúa, cuộc liên hoan mừng kẻ tội lỗi trở về.
(Viết theo Nil Guillemette SJ, Parables for today)
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam