Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1375370

THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG TRUNG THÀNH

Thiên Chúa là Đấng trung thành

(Suy niệm của Lm. Trần Thanh Sơn)

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, mùa sự đợi trông Chúa đến. Đức Giêsu Kitô đã đến không chỉ là một lần trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, nhưng Ngài vẫn đang đến, đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và nhất là Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để phán xử toàn thể thế giới.

Chính trong tâm tình đó, trong hai tuần lễ đầu của mùa Vọng, tiếp nối với tư tưởng của những ngày cuối năm Phụng vụ, lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tỉnh thức và sám hối để xứng đáng đón chờ ngày Đức Kitô tái lâm trong vinh quang. Còn trong Chúa nhật vừa qua, lời Chúa cho thấy Đức Giêsu vẫn đang hiện diện đồng hành với chúng ta trong mỗi nẻo đường của cuộc sống. Ngài vẫn đang đến với chúng ta qua mọi biến cố lớn nhỏ, vui buồn trong cuộc sống mỗi ngày. Và hôm nay, lời Chúa trực tiếp hướng tâm hồn chúng ta đến sự kiện có một không hai trong lịch sử: Con Thiên Chúa nhập thể làm người.

  1. Từ một lời hứa: Ngay khởi đầu của lịch sử nhân loại, kể từ sau khi Nguyên tổ sa ngã, quay lưng lại với Thiên Chúa để đi vào cõi diệt vong, Thiên Chúa đã hứa sẽ ban một Đấng Cứu Thế, để nhờ Ngài mà con người chuộc lại được sự sống đã mất (x. St 3, 15). Thế rồi qua dòng lịch sử, mặc cho sự phản bội liên tục của con người, Thiên Chúa vẫn trung thành mãi và tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục đeo đuổi lấy con người (x. 2 Tm 2, 13). Từng bước một, Thiên Chúa đã chọn Abraham làm tổ phụ một dân riêng, để từ dân đó, Con Ngài được sinh ra. Và trong dân đó, Đấng Messia của Thiên Chúa đã được báo trước là sẽ thuộc dòng tộc vua David (x. 2 Sm 7, 12-16).

Thế nhưng, mặc dù đã nhận được lời hứa, con cháu của vua David vẫn không giữ được lòng trung thành như chúng ta vừa nghe thuật lại trong bài đọc một. Khi đó vào khoảng thế kỷ VIII tr. CN, các vua phương Bắc đang đem quân tiến đánh thành Giêrusalem. Vua của Giuđa lúc bấy giờ là Akhaz thay vì hoán cải đời sống và tin tưởng vào Thiên Chúa, ông lại đi cầu viện đế quốc Assyrie. Và để làm đẹp lòng vua của Assyrie, ông đã dẹp bỏ bàn thờ của Giavê Thiên Chúa, và thay vào đó là tế đàn của các thần dân ngoại. Thậm chí, ông còn theo thói tục của dân ngoại, thiêu sinh cả con ông làm của lễ toàn thiêu. Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa đã cho ngôn sứ Isaia đến để kêu gọi nhà vua quay trở lại với Thiên Chúa, và đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Chính Ngài sẽ giải thoát dân Ngài khỏi mọi sự dữ. Và như để bảo đảm cho lời của mình, vị ngôn sứ bảo nhà vua “hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi một dấu ở dưới lòng đất hay ở trời cao”.

Thế nhưng, nhà vua vẫn không chịu xin, vì sợ rằng khi nhận được dấu chỉ, điều đó sẽ chứng tỏ sự sai trái của nhà vua. Ông vẫn cố chấp và tiếp tục sống trong tội lỗi của mình. Nhưng cho dù vua không xin, thì đây, Thiên Chúa vẫn cho ông một dấu chỉ để chứng tỏ lòng trung thành của Ngài: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính Thiên Chúa sẽ đến ở với dân Ngài và giải thoát họ khỏi mọi đe doạ của quân thù.

  1. Đức Giêsu, Đấng kiện toàn lời hứa: Dấu chỉ mà ngôn sứ Isaia loan báo đã được thực hiện. Êdêkiel đã được sinh ra, và các vua phương Bắc đã lui quân. Vị vua mới này mặc dù cũng rất trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là Đấng Messia. Cuối cùng, vào năm – 587, Giuđa cũng đã mất vào tay đế quốc Babilon. Như thế, lời tiên báo của ngôn sứ Isaia không dừng lại ở vua Êdêkien, nhưng còn đi xa hơn, hướng đến Đấng Cứu Thế.

Vâng, với việc nhập thể của Đức Giêsu lời loan báo của các ngôn sứ đã được thực hiện, lòng mong ước của muôn dân từ bao đời nay đã được đáp ứng. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không gò ép con người. Ngài vẫn tôn trọng tự do và mời gọi con người cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Lúc đó, Ngôi Hai đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ bởi quyền năng của Thánh Thần, nhưng Đức Maria vẫn chưa về nhà chồng. Đức Giêsu vẫn chưa chính thức được nhận vào dòng dõi vua David như lời Thiên Chúa đã hứa. Thế là Thiên Chúa đã lên tiếng mời gọi sự cộng tác của một người thuộc dòng dõi vua David, đã đính hôn với Đức Maria, có tên gọi là Giuse. Trong một giấc mơ, thiên thần Chúa đã cho Giuse biết ý định của Thiên Chúa và muốn ông đón Đức Maria về nhà, và ông sẽ trở thành dưỡng phụ của Con Thiên Chúa. Một vinh dự thật lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm thật nặng nề. Thế nhưng, vì là “người công chính”, nên trong niềm tin tưởng và phó thác, Giuse đã sẵn sàng đáp lời. Tin mừng ghi lại: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”.

Từ đây, với người cha là thánh Giuse, Đức Giêsu thật sự thuộc về hoàng tộc David, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ muôn thuở. Đây đúng là một tin vui, một tin mừng vĩ đại không chỉ cho dân Chúa mà là cho toàn thể nhân loại. Cảm nghiệm điều đó, ngay trong những lời mở đầu thư gởi cho các tín hữu thành Roma, thủ đô của cả đế quốc thời bấy giờ, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Tôi đã được kêu gọi làm tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi David, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần… Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

  1. Chúng ta hôm nay: Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa. Ngài đã đến và ở giữa chúng ta, thế nhưng chúng ta phải làm gì để xứng đáng với vinh dự ấy? Đó cũng chính là suy nghĩ của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ai sẽ được trèo lên núi Chúa. Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện Người”. Và cùng với câu hỏi, vịnh gia cũng đã đưa ra cho chúng ta câu trả lời: “Đó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá”. Hay nói cách khác, đó là người sống công chính, có lòng yêu thương anh em, luôn nghĩ đến ích lợi cho người khác. Tắt một lời, đó là người có tâm hồn bác ái, yêu mến. Mà theo thánh Phaolô: “lòng mến thì khoan dung, nhân hậu; lòng mến không ghen tuông; lòng mến không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không vui mừng trước sự bất công, nhưng luôn biết chia vui cùng lòng chân thật” (1 Cr 13, 4-6).

Tóm lại, khi hướng chúng ta nhớ lại mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, Giáo Hội không chỉ là tưởng niệm lại một sự kiện đã qua, nhưng Mẹ Giáo Hội muốn mỗi người chúng ta xác tín rằng: Con Thiên Chúa một khi đã đến thì chắc chắn Ngài sẽ lại đến, để rồi khi vui sống mầu nhiệm Giáng Sinh, mỗi người chúng ta càng thêm tin tưởng và hy vọng, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, gian truân trong đời sống với một lòng yêu mến, cậy trông và phó thác. Nhờ đó, ngay từ bây giờ, chúng ta xứng đáng đón Con Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta trong bí tích Thánh Thể và vào ngày Ngài trở lại, chúng ta cũng được hân hoan ra đón Ngài. Amen.

 

  1. Thánh Giuse- Người cha công chính

(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn)

Trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mầu nhiệm cứu độ. Có thể nói, Chúa Giêsu có được “nhập khẩu” vào dòng dõi vua David hay không đều phụ thuộc vào lời đáp trả của Thánh nhân. Chính vì thế, Chúa nhật 4 mùa Vọng, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Đấng Emmanuel đã đến và ở giữa dân Người như thế nào thông qua vai trò của Thánh Giuse- người Cha Công chính.

Tin mừng hôm nay khiến cho không ít người thắc mắc xung quanh một nhân vật có tên là Giuse. Thắc mắc ở đây là, ông Giuse lúc đó có biết mình bị “cắm sừng” trước khi được sứ thần truyền tin? Đây quả là một vấn nạn không dễ trả lời.

Ngày xưa, câu trả lời cho vấn nạn đó rất ư dễ thương và giản dị, vốn chỉ vỏn vẹn có mỗi hai từ: không biết! Họ lý luận rằng, vì Tin mừng không cho biết Thánh Giuse có biết Đức Maria có thai là do đâu, nên chúng ta cũng… không biết!

Thế nhưng, Chúa ban cho con người có trí hiểu nên đâu chịu câu trả lời dễ thương và giản dị như vậy. Chính vì thế mới có lời giải đáp mang tính logic và hiện đại hơn. Dựa vào câu: “Ông Giuse, là người công chính, không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”, họ lý luận rằng, chắc chắn Thánh Giuse thấy có gì “khang khác” nơi người bạn đời của mình, ông tự điều tra và phát hiện người bạn đời của mình “hổng biết sao” lại đang mang thai. Và vì thế, ông hoang mang, đau khổ, dự tính bỏ bà cách kín đáo để khỏi làm nhục cho bà. Chính vì thế, sứ thần đến truyền tin cho ông là vì vậy. Đây là lối giải thích khá phổ thông, nhưng vẫn chưa sáng tỏ gì cho lắm.Các nhà chú giải Kinh thánh thì đưa ra một lối giải thích khác xem ra dễ hiểu và sáng sủa hơn. Họ cho rằng, Đức Maria đã chia sẻ với Thánh Giuse về sứ mạng cao trọng này. Và do đó, thánh Giuse đã biết trước khi hai người về chung sống rằng Đức Maria mang thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chúng ta thấy lối lý giải này thích hợp với bản văn Tin mừng. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy nơi Tin mừng Luca, Đức Maria sau khi nhận lời sứ thần truyền tin, Mẹ đã không giữ niềm vui trọng đại này cho riêng mình, Mẹ đã đem tin vui đó loan báo cho người chị họ là bà Êlisabét (x. Lc 1, 39-45). Người chị họ ở xa mà còn được Mẹ loan báo, thì chẳng lẽ Mẹ lại giấu vị lang quân của mình?

Mặt khác, chúng ta thấy, sứ thần hiện ra với Giuse và nói với ngài rằng “đừng ngại” khi đón Đức Maria về nhà mình. Thánh Giuse tại sao lại ngại nếu người đã không biết trước việc Đức Mẹ mang thai. Mà nếu biết bào thai là kết quả do Đức Mẹ muốn người “bị cắm sừng” thì đó không phải là lý do để người phải ngại. Bởi luật Dothái cho đi tố cáo mà. Thế thì điều gì khiến Thánh Giuse ngại? Thánh Giuse ngại là bởi vì người được biết trong việc này có sự can thiệp của Thiên Chúa, mà người lại quá ư hèn mọn không xứng đáng để lãnh nhận niềm vinh dự cũng như trách nhiệm trong kế hoạch trọng đại ấy.

Lý giải như thế, hiệu quả tiếp theo là chúng ta sẽ dễ dàng hiểu vì sao Kinh thánh lại gọi Thánh Giuse là “người công chính”. Công chính của Thánh Giuse ở đây chắc chắn không phải ở chuyện giữ luật Môsê đến từng chi tiết, bởi nếu như thế, hẳn người đã làm thủ tục để đưa Đức Mẹ ra toà. Công chính ở đây cũng không phải là việc Thánh Giuse không muốn làm cha “bất đắc dĩ”. Thánh Giuse Công chính là bởi vì người thấy mình không xứng đáng làm cha một đứa trẻ mà ông biết nguồn gốc xuất phát không do con người mà do thần linh. Làm chồng của một người mà ông biết là bà đã được hiến thánh cho Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ.

Lời Ngôn sứ Isaia nói về Đấng Emmanuel hoàn toàn được ứng nghiệm khi Thánh Giuse đón Đức Maria về nhà mình. Cũng chính từ đây, Chúa Giêsu đàng hoàng bước vào dòng họ vua David, tiếp tục làm nên những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Được như thế, nhờ có công rất lớn của Cha Thánh Giuse.

Lễ Giáng Sinh gần kề, là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại vai trò cao trọng của Thánh Cả Giuse trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Đồng thời cũng là lúc để mỗi người trong chúng ta vất bỏ những vướng bận, những hận thù chia rẽ để đồng thanh cất tiếng tung hô: “Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến!”

 

  1. Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta

(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)

John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn.”

Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.

Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào: “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội.”

– “Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.

Nhưng anh ta trả lời: “Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.”

Vị linh mục ngạc nhiên: “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?”

– “Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con.”

Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa: “Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?”

Anh thanh niên chậm rãi giải thích: “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.”

Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn?

Nếu thấu hiểu được thế nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.

Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12).

Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: “Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con.” Nhưng Chúa nói: “Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.

Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.

Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa “ở cùng người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống chung với người yêu.” Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: “Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này…,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em” thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời.”

Một linh mục đã nhận xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng.”

Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.

Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.

Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người.

Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên–giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình–chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

 

  1. Đừng sợ – Lm. Nguyễn Minh Hùng

Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn và tôi sẽ bắt gặp ở đó đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin được ghi trong Tin mừng theo thánh Luca và một trong Tin mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin đều do thiên thần mang sứ điệp của Thiên Chúa đến cho con người. Quan trọng hơn, cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”

Đối với ông Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).

Đối với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).

Đối với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15).

Đối với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).

Hôm nay Chúa nhật áp lễ Giáng sinh, Giáo Hội muốn ta suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra cho mình bài học Thánh Kinh từ câu chuyện truyền tin này, tôi lại rút ra bài học từ lời của thiên thần: “Đừng sợ”.

Lần giở tiếp những trang Tin Mừng, ta sẽ phát hiện rất nhiều lần Chúa bảo các môn đệ “đừng sợ”. Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, ban bình an hoặc trấn an môn đệ “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” (Mt 28, 10).

“Đừng sợ”! Lời Chúa ngày xưa nói với Giacaria, Đức maria, các mục đồng, thánh Giuse, và các môn đệ. Ngày nay lời này của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi. Bạn có sợ không? Riêng tôi, tôi thấy bạn và tôi sống trong cuộc đời này mà như chìm trong nỗi sợ. Tôi không bi quan đâu, sự thật đấy. Ngày nhỏ chúng ta sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn một chút: sợ học tập thua sút bạn bè. Lớn hơn một chút nữa: sợ người yêu bội phản. Ngày ta lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của một người sống đời gia đình. Và cả cuộc đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.

“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mìn bằng một sứ điệp với những lời lẽ như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức thánh cha không ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “đừng sợ”, Đức thánh cha mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6). Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức thánh cha: “Các con đừng sợ nen thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức thánh cha chắc phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.

Nhưng chắc chắn, khi nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều. Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế giới màvật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa. Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, lại không có được một thánh lễ trong đêm sinh nhật Chúa, vì người ta đang gieo rắc bạo lực và chiến tranh…

Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng. Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương trong những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực… Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi thôi. Bởi đó ai mà không sợ. Tôi cũng sợ lắm bạn ạ! Nhưng chính trong lúc này đây, chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, bạn và tôi được mời gọi “đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của ngày Giáng sinh. Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện, chắc chắn ta sẽ có bình an. Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: “Bạn và tôi, đừng sợ!”.

 

home Mục lục Lưu trữ