Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 37

Tổng truy cập: 1373528

THIÊN CHÚA NHÂN HẬU VỚI MỌI NGƯỜI

Thiên Chúa nhân hậu với mọi người

1. Giá bốn căn hộ bằng nhau

Một dãy phố nọ có bốn căn hộ. Căn một trị giá 40 ngàn đô, căn hai 30 ngàn đô, căn ba 20 ngàn đô và căn tư 10 ngàn. Bạn là chủ căn một. Một hôm có người gọi đến xin mua căn hộ của bạn là 50 ngàn đô. Thế là bạn vui mừng và đồng ý bán ngay, vì thực giá căn hộ của bạn chỉ có 40 ngàn đô thôi. Nhưng hôm sau, bạn nghe tin người mua căn hộ của bạn cũng mua hết ba căn hộ kia, và mỗi căn cũng với giá 50 ngàn đô. Thật là một tin sét đánh! Bạn giận dữ, gọi điện kêu trách người mua. Ông ta trả lời:

- Tôi đâu có đối xử bất công với bạn, bạn đã thỏa thuận với tôi với giá 50 ngàn đô. Hay là bạn ganh tị vì tôi rộng lượng đối với ba người kia.

Câu chuyện trên đây minh họa câu chuyện của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay.

Thời Chúa Giêsu, những người được thuê mướn vào làm vườn nho chỉ những kẻ tội lỗi. Họ nghe lời Chúa kêu gọi mới ăn năn thống hối trở lại với Chúa. Còn đám thợ được thuê từ sáng sớm là những người Biệt Phái. Họ giận dữ ganh tức vì thấy những kẻ tội lỗi mới ăn năn trở lại mà cũng được vào nước Chúa, được thưởng như họ.

Tại sao những người được thuê làm vườn nho từ sáng sớm ganh tức với đám thợ được thuê muộn?

Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?... Hay là vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức". (Mt. 20, 13-15).

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với kẻ khác, mà hãy chấp nhận hiện trạng của chúng ta, theo lời khuyên của Thánh Phaolô: "Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình, và bây giờ sẽ có lý do hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác... Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời" (Gl. 6, 4.7-8)

Điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì người khác nghĩ về chúng ta hoặc chúng ta nghĩ gì về người khác, mà là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta. (Theo "Sunday homilies").

2. Những cử chỉ lạ thường

"Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa".

Đây là một khẩu hiệu đã được rất nhiều người ở khắp nước Mỹ hiện nay.

Một buổi sáng mùa đông nọ, trên chiếc xe chất đầy quà giáng sinh, một người đàn bà đã làm cử chỉ lạ thường. Khi dừng xe lại để đóng thuế cầu bắc qua vịnh San Francisco, bà đưa tiền thuế và nói:

- Tôi đóng thuế cho xe tôi và 6 chiếc xe sau tôi.

Bà hành động cách khác thường như thế vì đã đọc trên tủ lạnh của người bạn.

"Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa".

Tại New Jersey, ngày nọ người ta thấy 12 người dọn dẹp sân cỏ của những người già. Tại Chicago, có cậu thiếu niên cào tuyết cho chỗ đậu xe của người hàng xóm...

Và không biết bao nhiêu những hành động tử tế như thế được thực thi cách gàn dở và những cử chỉ được làm cách vô nghĩa như thế.

Trong Kinh Thánh có rất nhiều hành động hết sức bất thường như thế, như Con Thiên Chúa vô cùng cao cả sinh ra nghèo hèn, chết nhục nhã trên khổ giá. Bất thường quái lạ đến nỗi người Do Thái cho là điên rồ, người Hy Lạp gọi là yếu đuối. Thánh Phaolô cũng gàn dở không kém khi ông tuyên bố: "Vinh dự của tôi là chính thập giá Đức Kitô". Nhưng với Thiên Chúa, đó chính là kẻ khôn ngoan và sức mạnh, là tình yêu và trao ban vô vị lợ, quảng đại, khoan dung như trong Tin Mừng hôm nay, những người làm vườn nho giờ chót cũng được lãnh lương bằng những kẻ vào làm từ sáng sớm "Phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt" (Mt. 20. 12).

Nhưng đó chính là hành động của Thiên Chúa: Trao ban mà không tính toán, cho không cần cho lại, hành động mà không kể gì khen chê, không chỉ yêu thương bạn hữu mà cả kẻ thù. Đó chính là cách hành xử của Chúa khi nhập thể cứu chuộc nhân loại. Và người Kitô hữu cũng được mời gọi hành xử theo cung cách và lối suy nghĩ đó của Chúa, là vượt lên cái bình thường, bước vào cõi sống siêu nhiên, cõi sống của những người con sống nhân từ quảng đại như Cha trên trời. (Theo "Tin vui mùa đông").

3. Thiên Chúa công bình

Một hôm Thiên Chúa đi vào thiên đàng. Ngài ngạc nhiên thấy tất cả những người chết đều được vào đó cả, không ai bị sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải chăng Ngài không phải là Đấng công bình vô cùng. Ngài gọi sứ thần Gáp-rien đến và bảo:

- Con hãy tập trung mọi người đến trước mặt Ta. Đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.

Sứ thần đọc giới răn thứ nhất và Chúa phán bảo:

- Những kẻ nào phạm giới răn thứ nhất đó, hãy xéo khỏi mặt Ta, đi vào hỏa ngục ngay.

Một số người từ từ rời khỏi đám đông và buồn bã khóc lóc đi vào hỏa ngục. Và sứ thần đọc tiếp các giới răn khác, cứ sau mỗi giới răn đều có số người rời khỏi đám đông và than khóc đi xuống hỏa ngục. Sau cùng chỉ còn lại có một người, người đó là một ẩn sĩ già.

Thấy vậy, Thiên Chúa hỏi sứ thần:

- Chỉ có một người này được vào Thiên Đàng hay sao?

Nói xong, Ngài bảo sứ thần gọi đám đông lại và cho họ trở vào thiên đàng. Thấy đám đông tội lỗi xấu xa thế mà Chúa lại tha thứ cho trở lại thiên đàng, vị ẩn sĩ tức giận nói với Chúa:

- Chúa không phải là Đấng công bình!...

Thiên đàng chính là ngôi nhà của tha thứ, của quảng đại khoan dung. Tha thứ khoan dung của Thiên Chúa dành cho con người và tha thứ bao dung của con người dành cho nhau.

Thiên Chúa đã ví thiên đàng như một bữa tiệc, trong đó từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, địa vị, giàu nghèo, nhất là không phân biệt bạn thù đều đồng bàn với nhau. Thiên đàng ấy không chỉ ở đời sau mà bắt đầu ngay tại đời này. Mỗi khi con người biết tha thứ nhân hậu với nhau, mỗi khi họ chấp nhận đồng hành với nhau, sống khoan dung rộng lượng với nhau là lúc thiên đàng được rộng mở...

Chúa Giêsu đã mở cửa thiên đàng đó cho những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay. Những người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà Chúa cũng cho họ vào thiên đàng như những kẻ đã làm việc nặng nhọc cả ngày. Như thế làm sao khỏi bị ganh tức.

Nhưng Chúa Giêsu còn mở cửa thiên đàng khi Người đồng bàn với những người thu thuế, những người tội lỗi, những người bị xã hội loại bỏ, và nhất là khi Người tha thứ cho những kẻ đã giết treo Người trên thập giá. Vì ngôn sứ Isaia đã xác quyết: "Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu" (Is. 55,9) (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày, tập III).

4. Bất hạnh vì ganh tỵ

Traund là một kiến trúc sư nổi tiếng và rất thành công trong sự nghiệp. Anh có vợ là Êlisabét và hai đứa con ngoan. Gia đình sống rất đầm ấm hạnh phúc. Và công việc làm ăn của anh ngày càng phát triển đến nỗi một mình làm không hết , phải hợp tác với Đavít mới đáp ứng hết nhu cầu của khách hàng.

Lúc đầu mọi việc êm xuôi tốt đẹp. Tình bạn đôi bên cùng sâu đậm. Nhưng sau một thời gian, Traund nhận thấy khách hàng quý chuộng Đavít hơn, nhờ anh đứng thầu nhiều dự án xây cất hơn. Thế là Traund nổi ghen lên, kiếm chuyện xích mích với bạn mãi, làm cho mối quan hệ giữa hai người ngày càng căng thẳng, lôi kéo luôn số nhân viên chia rẽ kình địch nhau.

Nhưng tai hại hơn cả là tình cảnh gia đình Traund. Mỗi khi đi làm về, anh cáu gắt với vợ con. Đời sống gia đình trở nên địa ngục sầu thảm. Rồi bàn tay phải của anh bắt đầu bị sưng khớp đau nhức, bắt buộc anh phải bỏ công việc, vào bệnh viện chữa trị. Khi xuất viện về nhà, anh như con sư tử bị giam trong củi.

Buồn khổ quá, vợ anh gọi điện thoại đến Cha Micae Pacli là một linh mục chuyên chữa bệnh tâm linh. Cha tới gặp anh, khuyên anh bỏ lòng ghen tuông, làm hòa với Đavít, để mọi việc được trở lại tốt đẹp an vui. Anh không đồng ý mà còn giận dữ. Nhưng sau một lúc cầu nguyện chung với anh, cha Micae đã khuyên bảo được anh viết thư xin lỗi Đavít.

Và lạ thay, từ đó ghen tuông của anh tan biến, tay anh không còn bị sưng khớp nữa. Gia đình anh trở lại êm ấm hạnh phúc, công việc làm ăn trở nên niềm vui cho anh như trước.

Ganh tỵ là mãnh lực có sức tàn phá lớn lao, nó phá hủy khả năng yêu thương. Chính sự ghen tuông đã thúc đẩy các Biệt Phái sát hại Chúa Giêsu, họ coi Ngài là kẻ thù không đội trời chung với họ.

Trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính vì ganh ghét mà nhóm người làm vườn nho từ sáng sớm phê bình chỉ trích ông chủ bất công, khi ông chủ trả lương họ bằng những người chỉ vào làm lúc năm giờ, vì họ thấy ông chủ "tốt bụng với những người này mà họ đâm ra ganh tức".

Qua câu chuyện của kiến trúc sư Traund và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta là tín hữu của Người sống quảng đại như Người, luôn yêu thương tha thứ cho nhau. Tình thương phá tan ganh tức. Nhất là khi chúng ta quảng đại yêu thương tha thứ thì chúng ta được sống an bình hạnh phúc. (Theo "Thiên đàng là thế đó).

5. Lòng quảng đại chân chính

Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan cùng leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài bảo mỗi ông hãy mang theo một hòn đá. Ông Phêrô nhặt một hòn đá nhỏ bỏ túi, còn ông Gioan vác cả một tảng đá to. Do đường xa vác nặng, ông Gioan thở hổn hển và đến nơi sau hết. Còn ông Phêrô bước đi nhẹ nhàng thảnh thơi nên đến nơi trước. Chúa Giêsu cho hai ông ngồi xuống, rồi đọc lời chúc tụng, biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên chiếc bánh của ông Phê rô nhỏ bé, không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào của ông. Còn ông Gioan thì ăn no nê dư dật.

Lần khác, Chúa gọi hai ông leo lên núi với Ngài nữa. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang theo một tảng đá to, phải cố gắng hết sức mới vác nổi lên núi. Đến nơi, Chúa Giêsu bảo hai ông ngồi xuống. Ông Phêrô trông đợi Chúa làm phép lạ nhưng Chúa bảo các ông ngồi lên tảng đá mà các ông đã vác theo. Phêrô cảm thấy xấu hổ trách Chúa, nhưng Chúa bảo:

- Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán.

Chúng ta thường nói: "Có qua có lại mới toại lòng nhau". Chúng ta cho là để được cho lại, chúng ta làm ơn là để được trả ơn. Chúng ta lập công là để được thưởng công. Chúng ta làm việc là để được lãnh lương như các người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay.

Óc vụ lợi chi phối tất cả mọi quan hệ của chúng ta với tha nhân cũng như đối với Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đảo lộn quan niệm thông thường của chúng ta. Qua toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa quảng đại đến độ trao ban cách nhưng không cho chúng ta Con Một của Ngài. Qua cách cư xử của Ngài, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, Ngài yêu thương mà không mong đền đáp nào của chúng ta.

Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán. Tình yêu đích thực là trao ban cách nhưng không.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời, sống quảng đại, sống san sẻ, sống yêu thương cho đến cùng, như chính Ngài đã chết trao trên khổ giá. Tình yêu ấy mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Người, tình yêu ấy mời gọi chúng ta thanh luyện tình yêu ích kỷ, vụ lợi của chúng ta.

(Theo "Chờ đợi Chúa").

 

63. Thợ làm vườn nho

Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có tần vào nhà thờ dâng lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa nửa đồng, còn lại nửa đồng.

Sáng hôm sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc, anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên cạnh.

Như thế, có thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần, nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả ngày.

Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với Chúa.

Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.

Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.

Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.

Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà chúng ta đã đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”, để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.

Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa: “Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại mà các người lại ganh tị hẹp hòi”.

Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người chúng ta tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”

Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.

Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.

Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

64. Lòng tốt của Thiên Chúa

(Trích trong ‘Hạt Giống Nảy Mầm’ – Những gợi ý suy niệm của Lm Trọng Hương)

1. Tư tưởng Của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người

Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?

Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.

Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán, cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng dứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.

Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làn người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.

2. Công bình và thương xót

Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.

Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xứ theo lòng thương xót.

Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xừ với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.

Vả lại đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bầng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.

Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.

Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó.Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người vô tội thất nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:

“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”

“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu

thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”

Lạy Chúa,

Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi, chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội. Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.

Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác

Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công

Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.

3. Giờ thứ 11

Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết “

Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa hai người con ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Đúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.,

Nói “trước hết” và “sau hết là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.

4. Hãy có một não trạng mới

Điểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:

a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.

Đây là não trạng của đa số tín hữu chung ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần; làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.

Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.

Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa làm ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn: sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình, vô nghĩa.

b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công. Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).

Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.

Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.

5. Chuyện minh họa

Đây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.

Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.

Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.

Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.

Nhưng ông chù tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.

Nhà vô địch bực bội phản đối:

- Như thế là không công bình!

- Tại sao? ông chủ tịch hỏi lại.

- Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng. Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh.

Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?

 

65. Suy Niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích kỷ của con người hay dựa trên lòng yêu thương?

2. Bạn nghĩ sao về chủ trương “Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu”? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia đình bạn không?

3. Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng có tình thương, và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công bằng nào?

Suy tư gợi ý:

Theo cách giải thích truyền thống, bài Tin Mừng này muốn nói tới tính “nhưng không” của Nước Trời: người ta được vào Nước Trời hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công lao của họ, mặc dù người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì thế, sẽ có những người theo Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu rỗi là một điều dễ hiểu. Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc đời tội lỗi hoặc không biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa và theo Chúa. Cuộc đời họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể một vài năm, mà cũng có thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trong Lc 23,39-43). Những người này cũng được ơn cứu rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời. Rất có thể những người sống đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người ấy. Dụ ngôn này trả lời cho những người ganh tỵ ấy.

Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ ngôn này theo một kiểu khác, để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị lợi, ít vị kỷ và bớt tính toán, so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập quan niệm, suy nghĩ theo cách của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không qui về mình.

1. Hai thứ công bằng: của trần gian và của Nước Trời

Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình thương, người ta có thể suy nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.

Thật vậy, nhân loại sau này có một lý tưởng rất cao cả mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của mình nhiều hay ít, chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng này ai cũng cho là hợp lý và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm và hưởng thụ theo khả năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng ấy: Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người, nếu lý tưởng này có được thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng Kitô hữu nguyên thủy, một cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Kitô hữu về sau.

2. Công bằng của Nước Trời: công bằng có tình thương

Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: “Nước Trời giống như…”, chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này. Nước Trời là nước của tình thương, trong đó mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, và có như thế Nước Trời mới là nước của hạnh phúc. Do đó, sự công bằng ở trong Nước Trời là một thứ công bằng có tình thương, chứ không phải là thứ công bằng vô tâm như ở trần gian. Sự công bằng kiểu trần gian này nếu được thực hiện thì cũng là phúc cho trần gian, nhưng ngay cả thứ công bằng này nhiều xã hội cũng chẳng thực hiện được.

Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công bằng trần gian vẫn gây nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng, có sức khỏe thì luôn luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những người yếu đuối, kém tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu cầu lớn hơn hay nhiều hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn người ít tài kém sức thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến đâu, nhưng nếu tôi làm được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như thế thì tôi sẽ rất thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng nếu anh làm được nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như thế anh sẽ dư thừa một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần gian, và ở trần gian này dường như không thể nào làm khác hơn được.

Còn công bằng theo kiểu có tình thương kia, nếu áp dụng ở trần gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều người đâm ra lười biếng: vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người lười. Cứ nghĩ như thế thì sẽ chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình làm gì, vì có tài thì chẳng ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có tính ích kỷ, không ai muốn hy sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn dùng tài năng hay những lợi thế mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho mình trước đã, không mấy ai muốn ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém, yếu thế, dù họ có nhu cầu nhiều hơn mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích lợi cho mình, thì tài năng để làm gì?

Nhưng Nước Trời không phải là nước trần gian, hay ít ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời được định nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc. Để được hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một cách cụ thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của mỗi người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng tài năng chỉ để vun quén cho mình.

Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người trong nhà đều yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống động về Nước Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền nuôi gia đình. Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó phải tiêu một món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật, thì người bệnh này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu một số tiền lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại, người làm ra nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có ít nhu cầu nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như thế là hợp lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu cầu của mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.

Chỉ những gia đình sống theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo nhu cầu mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau khổ ê chề.

3. Bạn thích sống theo thứ công bằng nào?

Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả tiền theo nhu cầu chứ không theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận của tình thương. Những người làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm, người nào cũng đều có vợ con phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người vào làm sau, sở dĩ họ vào làm trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ sáng sớm, cho dù họ rất muốn có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy một đặc tính của Nước Trời, cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình thương. Sự công bằng trong Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người, mà dựa trên tình thương phải có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình thương ấy mới là sự công bằng đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm gương mẫu cho chúng ta trong xã hội.

Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể áp dụng một cách phổ biến trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình thương. Nhưng ít ra nó có thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình Kitô hữu, trong các cộng đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản. Gia đình bạn, cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước trời nho nhỏ chưa? Sự công bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của thế gian hay của Nước Trời?

Cầu nguyện

Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng một cách đại trà thứ công bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng trong những cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé như gia đình Kitô hữu của con, trong cộng đoàn cơ bản của con, trong đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt, con sẽ cố gắng cổ võ việc áp dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần nào hưởng nếm trước hạnh phúc của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng trên tình thương và do tình thương tạo nên. Amen.

 

66. Tình yêu

Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.

Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.

Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: Thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.

Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố:”Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.

Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.

Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!

Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.

Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.

Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.

Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.

Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.

Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.

 

67. Ghen tị – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?

Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thỏa thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.

Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tùy ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn". Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.

Quả thật, Ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.

Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.

Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mọi mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thanh công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá...ghen tị nhau.

Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phải tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?

Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.

Tóm lại, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.

home Mục lục Lưu trữ