Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 67

Tổng truy cập: 1364826

THỢ GẶT VÀ MÁY GIẶT

Thợ gặt và máy gặt – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Hình ảnh lúa chín đầy đồng và thợ gặt rất thân thương với hơn 80% người dân Việt Nam từ ngàn xưa. Đức Giêsu đã phác họa một phong cảnh tương phản giữa cánh đồng lúa chín vàng mênh mông bát ngát với mấy người thợ gặt ít ỏi.

Mùa gặt quá thiếu thợ, còn gì xót xa đau khổ bằng ! Đức Giêsu đã đau xót biết chừng nào trước cảnh đồng lúa chín rũ rượi, gục ngã, cũng như trước đoàn chiên bơ vơ không có người chăn chân chính. Người đã thúc giục chúng ta hãy khẩn nài chủ ruộng là Thiên Chúa sai thợ đến gặt lúa.

Lúa chín đầy đồng của Đức Giêsu là gì?

Đó chính là nhân loại đang sống trong bầu khí ô nhiễm tội lỗi, trong tình trạng ngột ngạt của tử thần, dưới ách quỷ dữ như chó sói săn đuổi cấu xé đàn chiên. Thế giới có hàng tỉ người là hàng tỉ cây lúa chín đang bị muôn thú cướp phá, giày xéo.

Riêng tại Á Châu, trong số ba tỉ năm người mới chỉ có một trăm mười triệu tín hữu Công Giáo, tính theo tỷ lệ là 2,6%. Như vậy, cứ một trăm cánh đồng lúa chín, mới có 2,6 cánh đồng có thợ gặt, còn 97,4 cánh đồng bị bỏ hoang. Chưa kể toàn bộ cánh đồng đã bị bỏ hoang mãi cho đến thế kỷ thứ XVI mới có thợ gặt. Đặc biệt, thánh Phanxicô Xaviê không chỉ là thợ gặt mà là máy gặt hiện đại. Nếu Á Châu đã được phúc có nhiều máy gặt hiện đại như thánh Phanxicô, Mẹ Têrêxa Calcutta, chắc chắn, Á Châu bây giờ đã trở thành những đồng lúa thơm lành đầy thợ gặt của Thiên Chúa.

Lạy Chúa xin sai nhiều thợ gặt đến, nhất là những máy gặt hiện đại để Thánh Thần Chúa đến canh tân bộ mặt Á Châu.

Từ ngày 19/04 đến 15/05/1998, Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu lần đầu tiên họp tại Rôma, có hơn 158 vị đại diện hàng Giám Mục Á Châu và một số Giám Mục đại diện các châu lục khác, cùng với một số chuyên viên, tất cả hơn hai trăm ba mươi vị dưới quyền hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tất cả sáu trăm Giám Mục, mười bốn Hồng y và hơn một trăm mười triệu tín hữu Công Giáo đang cầu nguyện hướng lòng mong chờ xin “Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ sai đến Á Châu những thợ gặt và nhất là những máy gặt hiện đại lãnh sứ mạng yêu thương phục vụ của Ngài đến tại Á Châu nghèo đói tinh thần và vật chất, được sống và sống dồi dào” (Ga. 10,10).

Điều cần thiết chúng ta phải sống thế nào trở nên thợ gặt, trở nên máy gặt?

Bài đọc I chỉ cho ta thấy Isaia đã làm gì để trở nên máy gặt cho dân Do Thái. Ông thấy dân được thoát cảnh lưu đầy khỏi Babilon về. Nhưng họ rất buồn nản, tuyệt vọng trước quê hương điêu tàn và đền thánh bị phá hủy. Isaia đã an ủi, khích lệ và loan báo Tin Mừng cho họ biết: “Thiên Chúa không bỏ rơi họ, Ngài sẽ tỏ quyền lực giúp họ”. Đây là lời Chúa phán: “Này Ta đổ hoà bình xuống Thành Đô, khác nào sông cả, khiến của cải của dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các con sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền âu yếm con thơ, Ta sẽ vỗ về các con như vậy”. Thấy thế, lòng họ đầy hoan lạc, thân hình nên tươi tốt như đồng xanh”

Bài đọc II: Thánh Phaolô đã trở nên máy gặt cho chư dân, nhờ sống mầu nhiệm thập giá, Ngài đã làm cho họ trở nên tạo vật mới, sống bình an trong lòng thương xót của Chúa. Ngài nguyện xin Đức Giêsu ban cho lòng trí họ được tràn đầy ân sủng.

Như vậy, muốn trở nên thợ gặt, máy gặt của Chúa, chúng ta phải sống mầu nhiệm thập giá, cầu nguyện và loan báo Tin Mừng của Chúa, an ủi những ai sầu khổ, khích lệ kẻ thất vọng, âu yếm nâng niu những ai yếu đuối, để lòng thương xót, ân sủng và bình an của Chúa làm cho họ nên tạo vật mới, nên công dân trong Thành Đô của Chúa.

Đặc biệt bài Tin Mừng cho thấy một sáng kiến của Đức Giêsu đã dùng nhóm nhỏ đi loan báo Tin Mừng. Chúa chọn bảy mươi hai người, rồi chia ra từng nhóm hai người để sai đi các nơi. Các nhóm này không phải là một tổ chức cho bằng một sự sống… Họ chia sẻ sự sống của Chúa, của những người chung quanh và của nội bộ nhóm.

Trước hết, là cuộc sống của họ là chia sẻ những băn khoăn thao thức của Chúa, Đấng sai họ đi, tâm tư thao thức được diễn tả trong lời sai đi: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt ít”… Chúa cũng cho họ thấy: “Ta sai các con đi như chiên ở giữa sói rừng…”. Sói mạnh hơn chiên… Vì thế các ông sẽ tuyệt đối tựa nương vào sức mạnh siêu nhiên của Đấng sai mình… Thứ đến, họ chia sẻ cuộc sống thực tế của những người trong nhà như chữa bệnh tật cho họ, cùng ăn uống với họ. và nâng tâm hồn họ lên, bằng cách nói cho họ biết Nước Thiên Chúa ở gần bên họ…

Sau cùng, nhìn vào sinh hoạt nội bộ của những người trong nhóm, ta thấy một bầu khí thanh thoát, vui tươi … Kể lại cho nhau nghe những gì xảy ra cho họ. Nội dung họp nhóm của họ không phải là tranh luận về quan điểm này nọ, đúng sai, mà là chia sẻ kinh nghiệm của nhau trong tâm tình khiêm tốn, kính trọng tin tưởng nhau, và sẵn sàng lắng nghe lời Chúa dậy bảo. (Trích bài giảng CN. XIV năm C của Đức Cha Bùi Tuần. 1989)

Lạy Chúa, mọi người Kitô hữu đều được Chúa sai đi gặt lúa. Xin cho chúng con biết đem bình an và lời Chúa đến mọi gia đình để lời Chúa trở nên sự sống đời đời cho họ.

 

2. Truyền giáo

Trong một bài giảng dành cho giới trẻ về bổn phận phải truyền giáo, vị linh mục đã kết luận như sau: Vậy chúng ta sẽ làm gì để góp phần nhỏ bé vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội? Có một bạn trẻ sau đó đã gặp và nói với vị linh mục: Thưa cha, con không có tiền để giúp vào việc truyền giáo, nhưng con xin hiến dâng đời con cho công cuộc trọng đại nói trên. Con muốn trở nên người được sai đi.

Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Đã từ lâu, chúng ta thường cho rằng chỉ các linh mục vài tu sĩ mới có bổn phận phải truyền giáo. Thế nhưng, qua bài Phúc Âm vừa nghe, ngoài 12 tông đồ, Chúa Giêsu còn sai cả 72 môn đệ truyền giáo, có nghĩa là mọi Kitô hữu đều được mời gọi làm thừa sai của Chúa, tham dự vào công cuộc trọng đại này. Vậy chúng ta phải làm gì để việc truyền giáo của chúng ta đem lại những kết quả tốt đẹp?

Việc thứ nhất đó là hãy sống tinh thần cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Chúa, bởi vì chúng ta chỉ có thể cho đi cái chúng ta đã có. Đây là điểm nổi bật trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Thực vậy, dù bận rộn đến đâu chăng nữa, Người vẫn luôn dành thời giớ để cậu nguyện, tâm sự với Chúa Chúa. Người cũng thường tìm đến những nơi và những lúc thanh vắng, chẳng hạn như những lúc đêm khuya hay những lúc sáng sớm, trên núi hay ngoài bãi biển để cầu nguyện.

Chúng ta cũng vậy. Muốn cho sứ mạng truyền giáo đạt được những thành quả tốt đep, người môn để thừa sai cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, dành thời giờ cho việc cầu nguyện. Càng hoạt động nhiều, thì lại càng phải cầu nguyện nhiều. Bởi vì khi cầu nguyện là lúc chúng ta kín múc được mọi ơn thánh và nghị lực thiêng liêng cần thiết. Nếu lơ là việc cầu nguyện, người môn đệ thừa sai giống như một cái máy phải chạy hoài, nhưng không được tiếp săng, nhớt và nước. Đến một lúc nào đó máy sẽ nổ banh và không còn dùng được nữa.

Việc thứ hai đó là hãy sống tinh thần nghèo khó. Người môn đệ thừa sai phải siêu thoát, không quyến luyến và bám víu vào của cải vật chất. Không chạy theo chúng và cũng không để chúng chi phối, khiến chúng ta trở thành nô lệ cho chúng. Người môn đệ thừa sai phải chia sẻ nếp sống nghèo nàn của những người chung quanh, không đòi hỏi yêu sách, không xa hoa lãng phí, không quan liêu hống hách. Có như vậy, Tin Mừng người môn đệ thừa sai rao giảng mới nảy mầm, lớn lên, trong tâm hồn của những người nghe, để rồi sẽ mang lại những hoa trái tốt lành trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội.

Hai ngàn năm trôi qua, biết bao nhiêu người chưa được đón nhận tin Mừng. Lời kêu mời của Chúa vẫn còn mang tính cách khẩn thiết: Lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chũ ruộng sai thợ đi gặt lúa về. Tuy nhiên, chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhở bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo Hội?

 

3. Chúa sai tôi đi loan tin bình an và hanh phúc

(Suy niệm của Lm. Carolô Hồ Bặc Xái)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi như những sứ giả của sự bình an và hạnh phúc. Ngày nay Chúa cũng sai chúng ta như thế. Nhưng muốn là những sứ giả của bình an và hạnh phúc thì trước tiên chúng ta phải có bình an và hạnh phúc trong lòng chúng ta. Đó là hai ơn rất quý mà chúng ta hãy xin Chúa ban trong Thánh lễ này.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng ta chỉ lo đến phần rỗi của riêng mình mà không nghĩ đến việc cứu rỗi người khác.

Trong cuộc sống chung đụng với người khác, chúng ta chưa thực sự là những người mang lại bình an và hạnh phúc cho họ.

Chúng ta chưa được như Thánh Phaolô, biết sung sướng hãnh diện vì Thập Giá Đức Kitô.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Is 66, 10-14c)

Vua Cyrus nước Ba Tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân Do Thái hồi hương. Trong bầu khí phấn khởi vui mừng đó, ngôn sứ Isaia nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ ban phúc lành cho dân. Điều đáng lưu ý là phúc lành quý giá nhất chính là ơn bình an: “Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông”.

  1. Đáp ca (Tv 65)

Tv này reo mừng Thiên Chúa và ca ngợi về những ơn lành của Ngài.

  1. Bài đọc II (Gl 6, 14-18) (Chủ đề phụ)

Trong đoạn thư này gởi tín hữu Galata, Thánh Phaolô chia xẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô:

Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người

Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô

Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài.

  1. Tin Mừng (Lc 10, 1-12. 17-20)

Đoạn Tin Mừng này đã được Phụng vụ cắt bớt khúc giữa (cc 13-16), để chỉ còn lại hai phần chính: Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (cc 1-12), và các môn đệ rao giảng xong trở về kể chuyện cho Ngài nghe (cc 17-20)

a/ Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:

Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.

“Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.”Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.

“Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.”Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45, 23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.

“Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình. “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).”Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5, 18; 1Cr 9, 11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9, 14-18). “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10, 27).

“Hãy chữa lành các bệnh nhân”: đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.

“Phủi bụi chân”: người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.

b/ Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Chúa Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)

  1. Gợi ý giảng

* 1. Những kẻ mang bình an

Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa.

Bắc Ai Len là một đất nước mà hai khối dân Công giáo và Tin lành thù ghét nhau và nhiều lần bắn giết nhau. Vào một dịp lễ Giáng sinh, một Linh mục công giáo đi sang bên kia đường để đến thăm một Mục sư Tin Lành. Vị Mục sư rất cảm động, đón tiếp vị Linh mục rất niềm nỡ. Ít lâu sau Vị Mục Sư cũng sang bên kia đường để thăm vị Linh mục. Tình thân giữa hai người ngày càng thắm thiết hơn. Tuy nhiên một vài tín đồ lớn tuổi thì nổi giận. Họ tìm đủ cách để cấp trên của Giáo Hội thuyên chuyển vị Mục sư ấy đi nơi khác.

Vị Linh mục và Vị Mục sư trên chỉ làm điều mà tất cả các môn đệ Chúa Giêsu phải làm, đó là làm những sứ giả của bình an và hòa giải trong một xã hội có nhiều chia rẻ.

Bình an không phải là một cái gì tiêu cực do không có chiến tranh và thù hận. Nó đòi phải có tinh thần cởi mở, tình huynh đệ, lòng khoan dung, thiện chí và ước muốn hòa giải. Nó buộc chúng ta đi đến với người khác. Nó giúp chúng ta gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc cố chấp.

Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ.

* 2. Mênh mông lúa đồng

Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”. Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy!” Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”. Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng. Ông John Kener kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

Đã qua 2000 năm nhưng lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 2). Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.

Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10, 3)

“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người rin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).

Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”.

Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.

Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.

Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.

Thánh Phao lô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng”.

* 3. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”

Catherine de Hueck Doherty làm việc trong một quán bar ở Mahattan. Đến 4 giờ sáng, cô nói lời tạm biệt với các khách uống rượu. Một người hỏi:

– Cô đi đâu? – Tôi phải đi Nhà thờ dự Thánh lễ, vì hôm nay là Chúa nhật.

– Thế cô là người công giáo hả? – Đúng vậy.

Nhiều người trong đám khách rất ngạc nhiên vì không ngờ Catherine có thể vừa là một người công giáo ngoan đạo vừa làm việc tại một nơi phức tạp như vậy. Vài tuần sau, một người trong đám khách trở lại nói với Catherine: “Cô đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. Cô có thể vừa sống đạo tốt vừa làm việc ơ một nơi như thế này, thì tại sao tôi không thể!” Và người ấy đã trở lại nhà thờ.

Lần khác, Catherine đang trên đường tới trạm xe điện ngầm thì gặp một bà cụ. Bà cụ mở lời “Cô có vui lòng nói chuyện với tôi giây lát không?” Cô vui vẻ nhận lời. Hai người đã nói chuyện với nhau trong suốt chặng đường. Sau đó hai người còn kết thân với nhau và Catherine thường xuyên tới thăm viếng bà cụ cho tới ngày bà cụ qua đời.

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Một kitô hữu có ý muốn làm thợ gặt như cô Catherine thì không bao giờ thiếu dịp để gặt lúa cho Chúa.

* 4. Mảnh suy tư

Tông đồ là kẻ được sai đi.

Vì thế làm tông đồ rất khác với làm chuyên viên. Làm chuyên viên thì cần phải có tài năng. Còn làm tông đồ thì chỉ cần đi theo lệnh Chúa sai, đến với người Chúa sai mình đến, và mọi việc khác hầu như Chúa sẽ làm tất cả.

* 5. Chuyện minh họa

a/ Đi giảng

Ngày kia, thánh Phanxicô Assidi nói với một thày dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo. ” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?”

Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ.

b/ Khuôn vàng thước ngọc

“Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi người Kitô hữu cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Người. Với ước mong trở nên những sứ giả Tin mừng cứu độ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ Chúa sẵn sàng ban cho hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gửi nhiều thợ gặt lành nghề / đem tin mừng đến cho mọi loài thọ tạo.
  2. Khát vọng sâu xa nhất của con người ở mọi thời đại / là được sống bình an và hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh / để hết thảy mọi người đều được sống hạnh phúc và an bình.
  3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng là thái độ người Kitô hữu cần có suốt cuộc đời của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa / mỗi khi gặp thử thách gian truân.
  4. Số linh mục trên thế giới ngày nay thiếu hụt trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết góp phần vào việc đào tạo linh mục tương lai của các giáo phận / bằng lời cầu nguyện / cũng như bằng việc rộng rãi giúp đỡ Chủng viện.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con đem Tin mừng cứu độ, mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao anh chị em chưa nhận biết Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết dùng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ tận tụy, mà làm tròn sứ mạng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

4. Bình an của Chúa.

Ngày kia có một người đậu xe bên lề đường, rồi vào trong một cửa hàng để mua sắm mấy thứ cần thiết, khi quay trở ra thì thấy trên ghế ngồi có một mẩu giấy với hàng chữ: Thưa ông, tôi đã tính ăn cắp chiếc xe hơi này, nhưng tình cờ đọc thấy lời cầu phúc “Bình an cho quý bạn”, được dán trên tấm kính. Lời cầu chúc này khiến tôi dừng lại và suy nghĩ. Tôi tin chắc nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, thì hẳn ông sẽ không còn được bình an và chính tôi cũng vậy. Vì đây là lần đầu tiên tôi ra nghề. Tôi cũng cầu chúc bình an cho ông và cho cả tôi nữa.

Câu chuyện ngộ nghĩnh trên đây khiến chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Khi vào bất cứ nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu ở đó có người yêu chuộng sự bình an, thì sự bình an sẽ ở lại trên người ấy, bằng không sự bình an sẽ trở lại với các con.

Áp dụng lời phán dạy này và câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng: Tấm bảng gắn trên kính xe đã đem lại sự bình an của Đức Kitô cho kẻ đang dự tính ăn cắp xe. Kẻ ăn trộm này là người yêu chuộng sự bình an của Đức Kitô, nên sự bình an đã ở lại trên anh ta. Vậy đâu là sự bình an của Đức Kitô?

Kinh Thánh thường dùng danh từ bình an với bốn ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất, trên bình diện quân sự thì bình an ám chỉ một tình trạng không có chiến tranh giữa các dân tộc. Ý nghĩa thứ hai trên bình diện cá nhân, thì bình an ám chỉ tình trạng yên ổn của từng người. Ý nghĩa thứ ba trên bình diện tôn giáo, thì bình an là mối liên hệ tình nghĩa tốt đẹp giữa Thiên Chúa và chúng ta. Cuối cùng, bình an còn được Kinh Thánh dùng để nói lên tình trạng trong đó mọi người trên mặt đất sống hoà thuận với Chúa, với người khác và với chính bản thân.

Đây là sự bình an mà Chúa nói đến khi Ngài tuyên bố: Ta để lại sự bình an cho các con, Ta ban sự bình an của Ta cho các con. Đây cũng chính là sự bình an mà các thiên thần đã cầu chúc trong đêm Giáng sinh: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Sự bình an này chẳng la gì khác ngoài việc thực thi Nước Chúa trên trần gian. Để thực hiện sự bình an này, Đức Kitô đã xuống thế làm người để hoà giải con người với Thiên Chúa cũng như hoà giải con người với nhau. Bởi vì sự bình an đích thực phải là kết quả của sự hoà giải.

Như thế, để có được sự bình an của Chúa, chúng ta cũng phải sống tinh thần hoà giải. Có được sự bình an trong tâm hồn mà thôi chưa đủ, Đức Kitô còn muốn chúng ta mang sự bình an này đến cho những người chung quanh chúng ta. Chính vì thế mà chúng ta hãy cầu nguyện như lời kinh của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa, xin hãy biến con thành khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Bởi vì như lời Chúa đã phán: Phúc cho ai xây dựng hoà bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

 

5. Vào nhà, vào thành phố

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.

Đức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người.

Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Đức Giêsu cần vào.

Đưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.

Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm. Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.

Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở, vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn, vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty… Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.

Đâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.

Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ.

Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau, phải có khả năng nâng con người lên Đấng Tuyệt Đối.

Đâu là đóng góp của người được sai hôm xưa? Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến. Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm. Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.

Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Đấng Cứu Độ?

Đức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào? Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu. Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.

Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo. Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.

Càng học, ta càng dễ giới thiệu Đức Giêsu, và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những nét đặc biệt của mẹ Têrêxa Calcutta, khiến cả thế giới mộ mến?

Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công cho dân tộc Việt Nam, người tông đồ cần có những đức tính căn bản nào?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.

 

home Mục lục Lưu trữ