Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 60
Tổng truy cập: 1365542
THƯƠNG XÓT NHƯ CHA LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một tình yêu không loại trừ và vô vi lợi
Thánh sử Luca đã nhập đề bài Chúa giảng "ở chỗ đất bằng" bằng những "mối phúc" "mối họa" Chúa gởi đến cho những người bị cuộc sống bầm dập hoặc phải chịu bách hại vì đức tin. Giờ đây Luca muốn đề cập đến một thái độ hoàn toàn đặc trưng của người môn đệ Đức Giêsu: lòng yêu thương những kẻ thù, những kẻ "ghét " họ, "nguyền rủa" họ, những kẻ muốn chiếm đoạt danh tiếng, của cải và thân xác họ.
Đức Giêsu bắt đầu trình bày đòi hỏi cơ bản này: "Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em".
H. Cousin xác định.' "Đây không phải vì lòng quý nên ta có đối với người trong gia đình, hay là tình bằng hữu đối với người đồng trang lứa, càng không phải là tình yêu say đắm! Đó là vấn đề biết quý trọng và cư xử tốt với kẻ thù và biết biểu lộ tâm tình ấy bằng cử chỉ và lời nói" ( “L'Evangile de Luc ", Centurion, tr. 96)
Tiếp theo là những thí dụ Đức Giêsu đưa ra để mời gọi các môn đệ khi bị người ta đối xử hung bạo, thì đáp lại bằng "thái độ bất hung bạo, hãy nhường nhịn hết mình: "Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong..,"
Sau cùng, Đức Giêsu đưa ra luật vàng cho cung cách cư xử của các môn đệ: không chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, bởi lẽ "ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế", hãy yêu thương nhau cách vô vị lợi, không tính toán, chỉ chờ đợi sự đáp trả ở một mình Chúa mà thôi: "Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao ".
2. Giống lình yêu của Chúa Cha:
Khi cư xử như vậy, khi thực hành yêu thương kẻ thù, khi từ chối cướp quyền thẩm phán của Thiên Chúa, các môn đệ sẽ là "con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác "; khi noi gương lòng nhân hậu của Thiên Chúa, họ sẽ nên giống Người.
- Khi cư xử như vậy, người môn đệ sẽ theo gương Thầy mình là Đấng, suốt cuộc đời và một cách trối vượt trong cuộc Khổ nạn của Người, đã thực thi tình yêu thương và tha thứ, mà Người đã đòi hỏi nơi họ. R. Meynet bình giảng: "Đức Giêsu đã chịu để cho tên đầy tớ Thầy cả Thượng phẩm tát mình, và
đã chịu để cho người ta đánh đòn, Người ta đã lột không chỉ áo ngoài của Người, mà cả áo trong nữa. Người đã giang hai tay và đưa cả hai chân ra cho người ta đóng đinh vào thập giá. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng và phó linh hồn, Người còn cầu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Người. Thế mới biết, khi Chúa Cha yêu thương phường vô ân và quân độc ác, tình yêu ấy đã dẫn Người đi tới tận đâu: Người đã không từ chối ban chính Con Một mình. Tình yêu của Chúa Cha đối với mọi người đã hóa thân trong con người Đức Giêsu" (L'evangile selon saint Luc. Phân tích tu từ", tập 2, trg 80).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Nếu chúng ta muốn bắt chước Chúa Giêsu”
(L. sintas, trong "Parole de Diêu pour la méditation ét l'homélie. Năm C". Médiaspaul, 1994, trg 83).
Nếu ta đọc những lời này vào lúc lòng ta không có điều chi ray rứt và ta đang vui tính, thì có thể thấy những lời ấy thật tuyệt vời. Trái lại trong trường hợp ta bị nhục mạ, phải cay đắng vì là nạn nhân của một bất công, thì những lời của Đức Giêsu xem ra không thể chịu nổi. Thế nhưng chính trong những giờ phút ấy, Lời Chúa mới tỏ cho thấy nó có sức mạnh và sự thật. Thế nghĩa là thế nào?
Chúa nói với ta rằng: "Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ ". Bằng lời vắn gọn đó, Đức Giêsu ban cho ta một cái nhiệt kế để đo lường mức độ lòng tin của ta.
Thực ra, vấn đề đích thực là thế này: Lòng tin làm thay đổi cái gì trong cuộc sống của tôi? Có khi nào tôi đề ra những việc làm mà giả như không phải là Kitô hữu, thì tôi sẽ không
đặt ra chăng? Yêu thương kẻ làm hại tôi, việc làm đó, một người có lương tri bình thường không nghĩ ra đâu. Để gợi ý cho tôi, Thiên Chúa đã không nề hà, vì tự mình chúng ta sẽ không nghĩ ra được điều đó. Thiên Chúa đã xuống. trần, sống kiếp phàm nhân giống hệt chúng ta. Người đã phải sống trong những hoàn cảnh đáng ghét, hoàn cảnh của một người mà chung quanh chỉ gặp toàn là thù địch. Trong hoàn cảnh như thế đó Đức Giêsu đã xin tha thứ cho những kẻ làm khổ Người. Nếu ta muốn bắt chước Đức Giêsu, thì việc chọn sống những tâm tình và thái độ của Người đến độ biết tha thứ cho kẻ thù, thiết tưởng là điều khẩn thiết!
Là Kitô hữu là tin rằng Đức Giêsu đã cuốn hút ta đến độ chính người sống trong ta. Người muốn nhờ chính con người của ta, con tim và trí tuệ, ánh mắt và lời nói của ta để nói với những con người thời nay, điều mà Người đã nói cách đây hai ngàn năm, trước mặt những người đương thời với Người. Người đã nói gì? Chỉ một sự thật này thôi: Thiên Chúa thương xót tất cả những ai thù ghét Người. Làm sao những người đương thời với chúng ta hôm nay sẽ nghe được lời này của Đức Giêsu nếu chính chúng ta không nói cho họ biết ơn tha thứ của Thiên Chúa là như vậy đó?
2. "Chúng ta được mời gọi phải vượt thắng chính mình"
( “Célébrer” Tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ và
Phụng vụ, số 216, trg 26)
Những lời Tin Mừng này có lẽ khiến ta phải hoài nghi, và xem ra càng không mấy thích hợp với những thực tại khắc nghiệt thường ngày bị chi phối bởi luật rừng. Có người sẽ bĩu
môi cười: "giơ má kia à ".
Ta đừng lẫn lộn tử tế với ngu xuẩn...? Há chính Đức Giêsu đã không vặn hỏi kẻ đánh Người rằng: "Tại sao anh đánh tôi? ", mà không giơ má bên kia đó sao? Ta thấy rõ rằng Đức Giêsu muốn kêu gọi ta vượt lên chính mình; Người thúc ép ta phải có lối cư xử ngoại hạng của người Kitô hữu.
sứ điệp của Người được gởi đến "cho anh em là những người đang nghe tôi đây ", những người đang đón nhận mạc khải của phúc âm. Đó là những người đã chịu phép rửa, những người đã trở lại để sống trong Giáo hội và học dưới mái trường của vị Tôn sư dạy làm điều phi thường. Như ánh sáng đức tin, họ am hiểu lời Người. Có khó tính chăng nữa cũng phải nhận rằng cách cư xử theo Kitô giáo, việc noi gương bắt chước Đấng hằng tha thứ, dù là kẻ hành hình mình, bất quá chẳng phải là điều quá phi lý. Chẳng qua là con đường khôn ngoan vượt bực còn bí ẩn đối với "kẻ phàm nhân" thôi. Há chúng ta chẳng có được kinh nghiệm về niềm vui lớn lao khi ta xử sự theo lòng thương xót hoặc khi ta được chứng kiến những việc làm của tinh thần vị tha, tinh thần chia sẻ, tinh thần tha thứ và tinh thần yêu thương "điên rồ " đó sao? Những lời của Đức Giêsu vẫn có thể được những người sống ngoài Giáo hội hữu hình "nghe ra " và thực hành. Không thiếu những lời nói và hành động phi thường nơi những con người "sống ngoài " Giáo hội. Đó phải là động cơ thúc đẩy ta
dâng lên lòng biết ơn là mềm vui, vì chính họ cũng là con Đấng tối Cao.
Chớ gì lòng thương xót luôn luôn là cái đấu để chúng ta đong cho người khác...nhưng phải là cái đấu đã dằn đã lắc và đầy tràn?.
24.Cho đi
Disraeli, một chính khách nổi tiếng của Anh, lần kia đáp tàu trở về nước. Cùng chung chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, nhưng vì bà không ngó ngàng gì đến con khiến nó cứ khóc thét lên. Hành khách ai cũng bực mình, có người còn dọa ném nó xuống biển. Lúc đó Disraeli đã làm một việc mà có lẽ ít ai ngờ tới: ông ẵm lấy đứa bé, nói chuyện và cười đùa với nó. Đứa bé không khóc nữa và còn vui vẻ hơn khiến ai nấy cũng được vui lấy.
Câu chuyện trên cho thấy cách thức Disraeli thu phục nhân tâm: thay vì dùng uy quyền ra lệnh cho người đàn bà, ông đã dùng tình thương để bù vào sự thiếu sót bổn phận của bà. Đó quả là một minh họa cho lời dạy của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay.
“Ân đền, oán trả” là một áp dụng cụ thể cho các công bằng giao hoán. Từ khi có ý niệm về luật pháp, thì việc báo oán cũng được qui định. Luật clủa người Babylon chẳng hạn: “Nếu kẻ nào làm cho một người thuộc giai cấp dưới mất mắt hay gẫy chân tay, thì phải chịu sự mất mắt hay gẫy chân tay để đền bù”. Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng không phân biệt giai cấp: “Mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng”. Thật ra, ý niệm về công bằng này không hoàn toàn chi phối luật lệ Do thái. Sách Lv 19,18 viết: “Ngươi sẽ không báo oán, không căm thù với con cái dân ngươi”. Hoặc Cn 25,21: “Nếu kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó ăn, nếu nó khát, hãy cho nó uống”. Tuy nhiên, họ không buộc phải giữ những điều này, họ vẫn có thể đòi “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Chúa Giêsu đến để kéo con người khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này. Có thể xem cái vả má là đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm đến vật chất. Dù bị xúc phạm đến vật chất hay tinh thần, người môn đệ của Chúa Giêsu không được vị vào đó để đòi báo oán. Hành động như thế không phải là nhu nhược, nhưng là diễn tả thái độ quả cảm sẵn sàng cho đi. Càng cho đi, người môn đệ càng gần với Chúa Giêsu, Đấng đã cho đi ngay cả mạng sống mình. Đồng thời sự cho đi cũng đưa con người lại gần với nhau, bởi vì trao ban là mở lối cho cảm thông. Thực hành lời Chúa dạy: “Ai xin thì hãy cho, ai vay muợn thì đừng từ chối” tức là đã tạo được một nối kết, nhiều nối kết sẽ tạo nên bền chặt. Một sợi tơ nhện thật mong manh, nhưng nhiều sợi vẫn có thể cầm giữ con mồi. Cũng vậy, một sự cho đi xét cho cùng chẳng đáng gì, nhưng nếu cả thế giới biết cho đi thì vẫn đủ sức cầm giữ sự ác.
Xin Chúa cho chúng ta biết sẵn sàng cho đi để trong trao ban, chúng ta sẽ được nhận lãnh, sẽ gặp được bình an và để người anh em chúng ta cùng hưởng nếm được hạnh phúc thật.
25.Nhìn ra nhau là anh chị em
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Có một Rabbi nọ hỏi một tín hữu Do Thái: “Có biết khi nào đêm nhường chỗ cho ngày không?” Sau một hồi nghĩ ngợi, tín hữu nọ mới trả lời: “Thưa thầy, đêm nhường chỗ cho ngày có lẽ khi người ta nhận ra ánh sáng bình minh đang ló ở chân trời”. “Không”. “Hay là khi người ta phân biệt được bụi cây với một người chăng?” Rabbi lắc đầu nói: “Không phải thế, đêm nhường chỗ cho ngày là khi mỗi người nhận ra gương mặt người khác là một người anh chị em của mình. Bởi vì cho tới khi nào con người không nhìn ra nhau là anh chị em, thì khi đó, đêm đen vẫn còn dày đặc trong tâm lòng chúng ta”.
Lời nói thâm trầm trên đây của Rabbi Do Thái nọ, có lẽ giúp chúng ta suy hiểu nghĩa sứ điệp mà Giáo Hội nhắn gởi chúng ta hôm nay.
Ơn gọi của chúng ta để trở nên thánh trọn lành như Thiên Chúa, là Ðấng vô cùng xót thương con người và ban giới răn hướng dẫn toàn cuộc sống của chúng ta, là cái lôgic của Tin Mừng yêu thương ấy mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Sách Samuel có viết về hành xử thánh thiện của vua Ðavít. Mặc dù vua Saolê ghen tương truy nã, nhưng khi có dịp thủ tiêu nhà vua, Ðavít đã không phạm tội giết vua theo ý kiến của hai người anh họ là hai tướng tài của mình. Ðavít minh chứng cho nhà vua thấy ông có thể hạ sát người, nhưng không làm vì ba lý do:
Thứ nhất, nhà vua là người được Thiên Chúa xức dầu tuyển chọn nên là người của Chúa. Do đó cần được tôn trọng, mặc dầu có khuyết điểm và hèn yếu đến đâu đi nữa.
Thứ hai, chính nghĩa là lẽ phải của trung thực đáng tin cậy, thì không dùng bạo lực bất công và các phương thế hèn hạ đen tối của sự dữ.
Và thứ ba, phương thế duy nhất giúp loại bỏ hận thù chống đối một cách vĩnh viễn không phải là giết đi, là triệt hạ, nhưng là cảm hóa để biến thù địch trở thành bạn hữu.
Khi theo ba nguyên tắc hành xử trên đây, Ðavít không chỉ lên tiếng cho nhà vua thấy mình là một tôi trung rất am tường phép Chúa và luật nước, mà còn chứng minh cho nhà vua thấy lòng nhân từ quảng đại của mình nữa. Nghĩa là Ðavít chứng tỏ ông là người vừa có tài, vừa có đức và do đó, là người lãnh đạo lý tưởng và phó thác việc xét xử và thưởng phạt cho Chúa. Ðavít tuyên xưng lòng tin vào sự công thẳng và tình yêu thương quan phòng của Ngài. Ðây là đặc điểm hiếm thấy nơi các nhà lãnh đạo chính trị xã hội trần gian. Trong khi đó, cung cách hành xử của vua Saolê chứng minh cho chúng ta thấy nhà vua đã vừa thiếu tài, thiếu đức, lại không phải là một minh quân. Thấy Ðavít có tài, có được mưu kế hơn người, đánh đâu thắng đó, được quần thần kính nể, được tin tưởng và toàn dân thương mến nên vua ghen tương, mà nhất là sợ Ðavít chiếm ngôi của mình. Thay vì trọng dụng Ðavít, giữ Ðavít ở lại phục vụ và trợ giúp quyền thế của mình, thì vua sanh lòng mấy lần mưu sát Ðavít, khiến cho Ðavít bị bắt buộc phải trở thành người sống ngoài vòng pháp luật. Nghĩa là vua Saolê đã tự chặt lấy cánh tay mặt của mình. Lòng ghen tương đã khiến cho tâm trí nhà vua mờ tối, đem ba ngàn quân truy nã vị tướng tài ba lỗi lạc của đất nước. Chính với thái độ sống hẹp hòi và thiếu sáng suốt, không biết trọng tài trọng hiền trên đây đã dẫn đưa dòng họ đến ngày tận diệt.
Thái độ sống quảng đại liêm chính của Ðavít đã khiến cho chúng ta thấy nơi ông gương mặt của chính Ðức Giêsu Kitô, vẫn luôn luôn tha thứ cho những người lầm lạc và cầu nguyện cho những kẻ giết mình. Các giáo huấn của Chúa Giêsu như ghi trong chương 6,22-38 của thánh Luca, chứng minh cho thấy sự thật này qua hình thái của nền văn chương khôn ngoan. Thánh Luca thu góp các lời rao giảng của Chúa Giêsu liên quan đến luật sống yêu thương đại đồng và kiểu cách hành sự nhân từ, thương xót vô biên theo mẫu gương của chính Thiên Chúa. Khi mời gọi chúng ta yêu thương kể cả kẻ thù địch, là Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu sống tình yêu thương vượt xa mực thước và các nấc thang giá trị theo tâm thức của con người trần gian. Người đời thường chỉ yêu kẻ yêu mình và ghét kẻ ghét mình. Những người sống tinh thần Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu thì yêu cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ rao giảng mà Ngài còn sống làm gương nữa, bằng cách hiến chính mạng sống mình để đền bù tội lỗi cho toàn nhân loại. Ở đây, Chúa Giêsu đề ra ba hình thức cụ thể trong nỗ lực sống yêu thương thù địch:
Thứ nhất, hãy làm điều lành phước đức cho kẻ thù ghét. Chúng ta lo lắng tạo dựng hạnh phúc cho họ sống được như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Chúa, nếu Kitô hữu thù hận thì có khác gì họ.
Thứ hai, hãy chúc lành cho những người chúc dữ và nguyền rủa chúng ta. Ơn gọi của Kitô hữu là trở thành chúc lành cho người khác, đổ phước lành của Chúa xuống cho người khác và biến đổi môi trường họ sống trở thành môi trường đầy ơn phước của trời cao. Ơn phước phần hồn và kể cả ơn phước phần xác nữa.
Thứ ba, là cầu nguyện cho kẻ bắt bớ ngược đãi chúng ta để cho họ được ơn hối cải tâm lòng, thay đổi lối sống, từ bỏ kiểu cách sống gian tham độc ác, từ bỏ kiểu cách nói năng và hành xử của dã thú để sống người hơn và tin nhận Chúa và trở thành con cái Ngài.
Yêu người như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động đối chất với bạo lực, luôn luôn sẵn sáng chia sẻ và quảng đại, không từ chối ai điều gì, là một thứ cụ thể cho mọi kiểu cách hành xử, là luật vàng của lòng yêu thương bác ái. Chúng ta muốn người khác làm những gì cho mình thì cũng phải làm tất cả những điều đó cho người khác. Chúng ta muốn người khác kính trọng yêu thương và trợ giúp chúng ta phải không? Hãy biết kính trọng yêu thương và trợ giúp họ như thế. Chúng ta muốn người khác dịu hiền thân thiện và an ủi đỡ nâng chúng ta phải không? Hãy dịu hiền, thân thiện và an ủi đỡ nâng họ như vậy. Chúng ta muốn người khác khoan hồng nhân thứ và cảm thông mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của chúng ta phải không? Hãy khoan hồng nhân thứ và thông cảm mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của người khác như vậy. Nếu ai cũng đem luật vàng trên đây ra thực hành nơi gia đình, giữa cộng đoàn, ngoài xã hội, thì chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, một cuộc cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử loài người sẽ xảy ra. Hòa bình, hạnh phúc, và thịnh vượng sẽ chan hòa trái đất này, sẽ chan hòa trong tâm lòng mỗi người, trong mọi gia đình, trong mọi quốc gia và trên toàn thế giới mà không cần phung phí biết bao nhiêu tài nguyên và nhân lực cho các dịch vụ chiến tranh; mà không phải mua bán, chế tạo vũ khí; mà không cần phải bắn giết tàn phá lẫn nhau. Cũng không cần phải thương thuyết, vất vả hòa đàm, tranh cãi, tốn tiền, tốn của, tốn giờ hao phí hơi sức, mà thường không đi đến kết quả cụ thể của việc làm. Luật yêu thương dung thứ mà Chúa Giêsu Kitô đề nghị với loài người, không chỉ là giải pháp cho mọi vấn đề xã hội mà loài người chưa sao giải quyết được, nhưng còn là con đường dẫn đưa tín hữu cho đến đỉnh trọn lành và trở nên thánh thiện và dung thứ như Chúa. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô 15,45, thánh Phaolô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Ðấng Cứu Thế và là con đường dẫn chúng ta đến cuộc sống thần thiêng bất diệt. Nếu con đường tội lỗi đã đưa Adong và toàn con cái loài người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, thì giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đến trần gian để dẫn đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa. Ngài là Adong mới trao cho con cái loài người cuộc sống mới qua một tinh thần sống mới. Tinh thần của Tin Mừng yêu thương đại đồng, tinh thần của cuộc sống hướng trọn về Thiên Chúa và lấy Ngài làm mẫu mực duy nhất cho cuộc sống. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta bí quyết làm thế nào để sống hạnh phúc, làm thế nào để tạo dựng hạnh phúc cho nhau và cách mạng thế giới. Chúng ta có can đảm chấp nhận và đem ra thi hành hay không?
26.Yêu thương
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: “Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ”.
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những anh em được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu ước, bất cứ ai không thuộc về dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạ, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mặc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu:
* Thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa.
* Thứ hai: tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Nhưng lại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, đấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
27.Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Theo Tin Mừng Mát-thêu, trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã đề cập tới những đức tính cốt yếu của người môn đệ Chúa. Đã là cốt yếu thì hẳn cũng là khó khăn vất vả mới tập tành và thể hiện trong cuộc sống. Đặc điểm của những đức tính này là đi ngược với cách ứng xử của con người trong xã hội, do đó những đức tính ấy làm cho khuôn mặt Ki-tô hữu không giống ai, nhiều khi họ thấy mình lạc lõng giữa dòng đời. Nhưng tất cả những đức tính ấy được gồm tóm trong câu kết luận của Chúa Giê-su: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca sau khi trình bày bài giảng khai mạc của Chúa Giê-su dưới đất bằng, cũng ghi lại một câu kết luận của Chúa về một vấn đề vô cùng gai góc – yêu thương kẻ thù – khi Người lấy Chúa Cha làm tiêu chuẩn: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Thật là “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”! Thánh Mát-thêu trình bày con đường nên thánh của Ki-tô hữu một cách bao quát, pháp lý và nguyên tắc. Còn thánh Lu-ca thì vẽ con đường nên thánh cho ta một cách đơn sơ hơn, thực tế hơn, tuy không có nghĩa là dễ dàng hơn đâu. Vậy vấn đề thánh Lu-ca nêu lên gợi cho ta mấy thắc mắc: ai là kẻ thù của ta và tại sao lại lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù?
a) Ai là kẻ thù?
Tôi nhớ câu đầu trong bài hát “Kẻ thù ta” của một ông nhạc sĩ Việt Nam (Phạm Duy) là: “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai?” Khi xác định một người là “kẻ thù của ta” thì ta đã ngầm hiểu rằng người ấy có tội đối với ta. Tội lớn thì thù lớn, khó mà tha và quên được; còn tội nhỏ thì cũng có thể tha và quên được vì khi nhìn lại chính mình ta thấy mình cũng có nhiều tội nhỏ đối với người khác.
Trong bài giảng, Chúa Giê-su đã nêu lên một số hành động của kẻ thù ta: nguyền rủa, vu khống, vả má, đoạt áo ngoài của ta. Chắc chắn một điều là thực sự ta không có lỗi gì để đáng chịu những hành vi bất công ấy. Vậy khi làm những hành vi bất công ấy cho ta, họ đã có lỗi với ta và trở thành kẻ thù của ta.
Nói người lại ngẫm đến ta! Khi ta xúc phạm đến một người là ta có tội với người ấy và ở mức độ nào đó ta trở thành kẻ thù của người ấy. Nếu quả như vậy, thì tất cả chúng ta đều là kẻ thù của Thiên Chúa. Đúng thế, kẻ thù đích thực của Thiên Chúa là ma quỷ và sự dữ. Ma quỷ còn muốn kéo theo con người cùng với chúng làm kẻ thù của Chúa khi nó hoạt động trong ta, cám dỗ ta sa ngã phạm giới răn Chúa. Mà ai trong thế gian này chẳng có tội, ngoại trừ Đức Ki-tô? Cho nên tội nguyên tổ đã đưa toàn thể nhân loại vào tư thế kẻ thù của Thiên Chúa. Giả như Thiên Chúa không yêu thương “kẻ thù” của Người là nhân loại tội lỗi, thì Người đã để họ hư mất luôn cho rồi và Người sẽ tạo dựng một nhân loại khác thay thế! Nhưng bản chất của Thiên Chúa là yêu thương và nhân từ, nên Người không hành xử trái với bản tính của Người. Cũng giống như trong Tin Mừng Mát-thêu, bản chất của Thiên Chúa là hoàn thiện, nên ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Người. Do đó, Thiên Chúa mới hoạch định một kế hoạch gọi là nhiệm cục cứu rỗi, để Người lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù của Người.
b) Tại sao phải lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù và biểu lộ lòng nhân từ cách nào?
Một cách cụ thể qua con người Chúa Giê-su, ta có thể nhận ra nhân loại đã xúc phạm Thiên Chúa như thế nào và Thiên Chúa đã đối xử lại với họ ra sao. Ai nói Chúa Giê-su không bị nguyền rủa và chúc dữ? Thân nhân Người cho Người là một tên khùng (Mc 3:21). Các kinh sư bảo Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám (Mc 3:22). Trước giờ chết trên thập giá, Thiên Chúa còn bị nguyền rủa và chúc dữ: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39). Chúa Giê-su đã bao lần bị vu khống lân la với những kẻ xấu nết và tội lỗi. Kẻ thù Chúa muốn kết luận về Người: Gần mực thì đen mà! Bị vả má và đánh đòn thì vô kể, đến nỗi Phi-la-tô muốn dùng hình ảnh đau thương của Thiên Chúa làm người (Ecce homo) để gợi lòng thương hại của con người, vậy mà cũng không xong.
Nhưng Đấng dạy ta phải thương yêu kẻ thù đã sống trọn vẹn bài học ấy trước khi dạy ta. Người chúc lành cho mọi người. Người vẫn một lòng thương cả ông Phê-rô lẫn Giu-đa. Người đã cầu nguyện cho họ, xin Cha tha thứ cho họ. Từ trên thập giá Người đã tha thứ cho kẻ thù của Người. Những tên lính chia nhau áo ngoài, Người cho luôn cả áo trong. Người còn cho nhân loại luôn cả những giọt nước và máu cuối cùng trong trái tim yêu thương của Người. Đó là tất cả những cách cụ thể Chúa Giê-su biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Chúa Giê-su bao giờ cũng thực tế. Dạy nhiều quá, chúng ta đâu có nhớ và làm nổi. Cho nên Người đưa ra một vài điều thực tế nhất, những điều ta hay gặp nhất trong đời sống hằng ngày. Đó là đừng xét đoán, đừng lên án, và hãy tha thứ. Lòng nhân từ sẽ là cặp kính để ta nhìn người khác, cặp kính đó chính Thiên Chúa ban cho ta. Nhìn qua đó, ta sẽ không thấy được ai là kẻ thù ta, mà chỉ thấy người khác là con Chúa, là người anh chị em của ta.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Yêu thương kẻ thù và tha thứ cho kẻ thù là hành vi của duy Thiên Chúa nên loài người không thể làm được. Nhưng Thiên Chúa đã cho con người khả năng có thể yêu thương kẻ thù và tha thứ kẻ thù khi Người cho chúng ta một con người mẫu là Chúa Giê-su. Vậy tôi đã học nơi Chúa Giê-su ở những điểm này chưa? Tôi có kết hiệp với Người để yêu thương và tha thứ kẻ thù của tôi không? Nếu không, thì tôi phải làm gì để kết hiệp với Chúa Giê-su?
Ai là kẻ thù gần nhất của tôi? Hoàn cảnh thù ghét như thế nào? Tôi có cách thức cụ thể nào để yêu thương và tha thứ người ấy?
Tôi tập cách nào để không lên án và xét đoán người khác?
“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận người khác là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” - Trích trong PRIER
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 112)
28.Luật yêu thương
Một phụ nữ nọ ngạc nhiên khi nghe tin Abraham Lincoln nói lên sự tử tế của quân đồng minh. Bà ta nói: “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên tập trung lại để tiêu diệt kẻ thù hơn là đối xử tốt với họ”.
Linclon trả lời: “Thưa bà, chúng ta tiêu diệt kẻ thù khi đối xử tốt với họ”. Đó cũng chính là sự khôn ngoan và lòng nhân ái toát ra từ lời Chúa dạy trong Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một phát lý hoàn toàn mới mẻ so với Cựu ước qui định: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. So với các dân tộc chung quanh, luật Cựu ước cho thấy dân Irael đã đạt được một ý thức khá cao về công bình. Nhưng Chúa Giêsu đến kể kiện toàn lề luật: thay cho thứ công bình “Mắt đền mắt, răng đền răng”, Chúa Giêsu đề ra luật của yêu thương và được qui tóm trong một lề luật duy nhất là mến Chúa, yêu người.
Luật yêu thương ấy không có giới hạn, cũng chẳng có luật trừ. Yêu thương là yêu thương mọi người và yêu thương cho đến cùng. Qua cách cư xử của Ngài đối với các tội nhân và ngay cả kẻ thù của Ngài, Chúa Giêsu đã chứng tỏ một tình yêu không điều kiện, không giới hạn, không luật trừ, và tình yêu ấy được thể hiện trọn vẹn qua cái chết của Ngài trên thập giá.
Khi tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa và khi nối kết hai giới răn mến Chúa yêu người, Chúa Giêsu cũng chỉ cho con người thấy được ơn gọi đích thực của nó. Chỉ có một cách thể hiện hữu đối với con người đó là sống yêu thương. Khước từ yêu thương, con người tự chối bỏ chính mình. Đón nhận mạc khải của Chúa Giêsu, người Kitô hữu hiểu rằng chỉ bằng yêu thương, họ mới sống đúng ơn gọi làm người, và tỏ bày hình ảnh của Thiên Chúa mà họ mang trong mình.
Ước gì chúng ta ý thức được sứ mệnh cao cả của mình, để trong mọi sự và trong mọi quan hệ, chúng ta luôn thúc đẩy và hướng đến bởi một động lực duy nhất là tình yêu.
29.Kẻ nội thù
Không có gì hủy hoại sức con người bằng lòng thù hận: cừu hận là một hành động tự sát, ghét người cũng có nghĩa là ghét chính bản thân. Truyện Liễu thị Xuân Thu có kể lại như sau: Một người nọ nằm mơ thấy có người đeo gươm tự dưng đi vào tận nhà mắng chửi, nhổ vào mặt, rồi bỏ đi. Giật mình tỉnh dậy, anh ta ngồi bực dọc suốt đêm không sao ngủ được. Sáng hôm sau, anh tâm sự với một người bạn: “Từ thủa nhỏ đến giờ tôi vẫn là người hiếu dũng, chưa hề bị ai làm nhục, thế mà đêm hôm qua bị đứa nào làm nhục, tôi định tìm cho kỳ được đứa ấy để trả thù, nếu tìm thấy nó rồi thì tốt, còn không, chắc tôi phải chất mất”. Từ hôm đó, cùng với người bạn, sáng nào anh cũng ra đứng ngoài đường để rình. Rình ba ngày mà vẫn không thấy bóng dáng kẻ thù. Cuối cùng, anh ta về nhà uất cả người lên mà chết.
Câu truyện trên đây có lẽ chỉ là một dụ ngôn để nói lên sức tác hại của sự hận thù mà con người cưu mang trong tâm hồn. Lòng thù hận chính là kẻ nội thù nguy hiểm nhất, chỉ có một kẻ thù như thế mới có sức hủy hoại con người. Ít hay nhiều, xem ra ai trong chúng ta cũng có kẻ thù. Có những người ghen ghét hoặc tìm cách hãm hại chúng ta đã đành, mà chính chúng ta cũng không thiếu những kẻ để ghét bỏ và thù hận. Chúa Giêsu cũng có nhiều kẻ thù, đó là những kẻ rình rập, đeo đuổi để hãm hại Ngài. Đứng trước sự dữ và hành động gian ác, Chúa Giêsu không hề nhân nhượng. Ngài lên án gắt gao tất cả những gì xúc phạm đến Thiên Chúa và con người. Trong trái tim Ngài không có chỗ cho bất cứ tâm tình bất chính nào. Tuy nhiên, đối với các tội nhân là những kẻ làm điều ác, Chúa Giêsu luôn tỏ ra khoan dung. Ngài tha thứ cho chính những kẻ hành hạ và đóng đinh Ngài vào thập giá. Trong tâm hồn Ngài không có bất cứ tâm tình thù hận nào đối với kẻ thù của Ngài. Qua cử chỉ ấy, Chúa Giêsu đã mạc khải cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời thể hiện được khả năng và ơn gọi của con người là sống yêu thương. Qua cử chỉ tha thứ ấy, Chúa Giêsu bày tỏ trọn vẹn chân lý về con người. Con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu, cho nên con người chỉ có thể sống trọn vẹn ơn gọi của mình bằng cách sống yêu thương, và yêu thương như chính Thiên Chúa, nghĩa là yêu thương và tha thứ cho kẻ thù của mình. “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đây không chỉ là một lý tưởng, mà còn là một đòi hỏi tất yếu đối với con người. con người có sống cho ra người và có đạt được nhân cách của mình hay không, là tùy ở nó có biết sống yêu thương và tha thứ như Thiên Chúa hay không. Nguyện xin Chúa loại trừ khỏi tâm hồn chúng ta mọi thứ cừu hận và ban cho chúng ta tình yêu của Ngài, để chúng ta luôn biết nhìn mọi người như hình ảnh Thiên Chúa, và yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam