Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 37

Tổng truy cập: 1376307

TIN MỪNG THÚC BÁCH TÔI

TIN MỪNG THÚC BÁCH TÔI – Lm G. Nguyễn Cao Luật

Hơn một năm trước đây, nhân loại trong bầu khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba, kỷ niệm 2000 năm Mầu Niệm Nhập Thể. Trong dịp trọng đại đó, Giáo hội nhìn lại việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, đồng thời đề ra những đường huớng mới cho một cuộc loan báo Tin Mừng cách cụ thể cho từng châu lục. Đặc biệt với giáo hội tại Á Châu đã vui mừng đón nhận được Văn kiện "Eccelesia in Asia - Giáo Hội Tại Á Châu" được công bố tại New Delhi (Ấn độ), tháng 11 năm 1999, như một "kim chỉ nam" cho giáo hội nơi đây chuẩn bị mừng Năm Đại Toàn xá 2000; đồng thời có dịp nhìn lại vấn đề truyền giáo của mình và tìm ra một hướng đi mới cho thiên niên kỷ này.

Và mới đây trong phiên họp chung ngày 10-10-2001, ĐHY Jan Schotte, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục, đã loan báo các nghị phụ về việc công bố Văn kiện Hậu- Thượng Hội Đồng Giám Mục riêng của Châu Đại dương (Ecclesia in Ocaenia). Ngài nói: "Tôi vui mừng loan báo trong phiên họp chung này là Đức Thánh Cha, sau khi suy tư lâu dài và bàn hỏi, đã quyết định công bố Tông huấn Hậu- Thượng Hội Đồng "Ecclesia in Oceania" tại Vatican (thay vì đi đến một địa điểm trong miền này), trong một buổi tiếp kiến riêng, được ấn định vào ngày 22 tháng 11 năm 2001, lúc 11g30, tại Phòng Khánh Tiết Clementina của Phủ Giáo Hoàng, nhân dịp kỷ niệm năm thứ bốn của lễ nghi khai mạc khóa họp riêng cho Châu Đại dương".

ĐHY Jan Schotte nhấn mạnh: "Trong lúc này, tôi xin các Nghị phụ cầu nguyện cho Giáo hội tại Châu Đại Dương, đã từ lâu chờ đợi với nhiều lo âu về văn kiện này. Giáo hội trong miền này được mời gọi đón nhận giáo huấn Hậu Thượng Hội Đồng trong tinh thần yêu mến, được mời gọi phổ biến văn kiện này và thực hiện nội dung của nó trên cấp bậc giáo phận và giáo xứ với lòng nhiệt thành truyền giáo, đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tiến đến việc tái rao giảng Tin Mừng, cách riêng trong lúc bước vào Ngàn Năm thứ ba".

Với những ý nghĩa đó, Chúa Nhật Truyền Giáo có chiều kích của một cuộc khởi khởi đầu mới trong nỗ lực loan báo Đức Giêsu cho thế giới.

Anh em sẽ làm chứng cho Thầy

Các tông đồ là những người được Đức Giêsu kêu gọi để chia sẻ cuộc sống của Người; các ông đã được tham dự và chứng kiến những biến cố khác nhau trong cuộc đời của Đức Giêsu. Những điều đó không phải chỉ là những sự kiện lịch sử,?không phải chỉ làô1 xảy ra trong quá khứ. Các tông đồ không phải chỉ là những chứng nhân về những sự kiện tầm thường. Trái lại đây là những biến cố làm đảo lộn lịch sử, những biến cố đem lại ơn giải thoát cho con người, và các tông đồ là những người loan báo, những người tiếp tục thực hiện công trình ấy.

Những biến cố tập trung vào sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Các tông đồ không làm chứng về điều gì khác ngoài sự kiện đó. Đó không phải là hoạt động của con người, nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, để thể hiện tình thương và ơn cứu độ cho thế giới. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là làm chứng về biến cố quan trọng này. Vì đó là biến cố quan trọng nên phải dồn hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để loan báo, để làm chứng. Phải làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi bằng máu nữa.

Do đó, ý thức được tầm quan trọng của sứ điệp, các tông đồ, những người đã được chứng kiến tận mắt, đã đem hết cuộc đời của mình để làm chứng: các ông đã giảng dạy, đã viết thơ, viết sách, đã chịu nhiều gian nan vất vả với một ước mong duy nhất là sứ điệp phục sinh được công bố cho tất cả mọi người. Các ông đã không ngần ngại chịu đổ máu, chịu hy sinh cuộc đời, bởi vì các ông được sai đi làm nhân chứng, theo gương Vị Thầy, Đấng đã gọi và sai các ông đi.

Và, như lịch sử cho thấy, việc loan báo sứ điệp Ki-tô giáo trong những thế kỷ đầu tiên dựa trên biến cố nền tảng này. Các ki-tô hữu thời sơ khai không chú trọng về các quy luật luân lý, cũng không trình bày nhiều về các chi tiết trong cuộc đời Đức Giêsu, nhưng tất cả cuộc sống, mọi sinh hoạt của họ đều xoay quanh biến cố phục sinh, vì họ hiểu rằng, đó là biến cố trọng tâm của lịch sử ơn cứu độ.

Như vậy, sứ điệp Ki-tô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới; cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Ki-tô giáo trước hết là một biến cố, và người loan báo phải làm chứng về biến cố ấy.

Tin Mừng thúc bách tôi

Ơn cứu độ phải được loan đi cho đến tận cùng vũ trụ. Đó là sự nôn nóng của một tâm hồn đã được đổ tràn tình thương của Thiên Chúa. Đó cũng là thao thức của một tâm hồn đã được cảm hóa nhờ sự chết và sống lại của Đức Ki-tô, và đó cũng là niềm phấn khởi của tâm hồn tràn đầy sức sống và gắn bó sâu xa với Đức Ki-tô.

Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm về điều mình làm chứng. Tin Mừng không phải chỉ là những điều được rao giảng, được công bố, nhưng chính là cuộc sống, là những tiếp xúc thâm sâu với Đức Giêsu, để rồi từ đó mới chuyển qua những hoạt động cụ thể, những công việc bên ngoài.

Đã có một thời người ta quan niệm việc truyền giáo như là những hoạt động rầm rộ nhằm áp đặt, lôi kéo người khác theo đạo. Dĩ nhiên, những công việc này rất ích lợi nếu phát xuất từ tấm lòng nhiệt tình với Tin Mừng, với ơn cứu độ. Khốn thay, không phải lúc nào cũng được như thế. Không những người ta đã bó buộc, đã áp đặt, nhưng còn lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để mưu tìm những ích lợi cho riêng mình…

Tuy thế, chúng ta không hề có ý phủ nhận công lao vất vả của các vị truyền giáo đã đem Tin Mừng đi khắp thế giới. Chỉ có điều là, vẫn có những bóng đen trong lịch sử truyền giáo, và điều ấy phải là một kinh nghiệm sâu sắc cho cuộc loan báo Tin Mừng mới.

Như vậy, truyền giáo không phải là lôi bè, kết đảng làm sao lôi kéo nhiều người về với phe mình. Nhưng truyền giáo phải là tiếng gọi, là nhu cầu bên trong của cõi lòng tha thiết yêu thương, của tâm hồn có được kinh nghiệm về Đức Giêsu. Ngoài ra, truyền giáo cũng chính là để mọi người được sống trong tình thương, được tôn trọng để từ đó Nước Chúa được hiển trị và muôn người hợp nhất nên một trong ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô chịu chết và sống lại.

Từ đó, con đường hành động của người Ki-tô hữu không thể nào khác hơn con đường của Thầy mình: là hạt lúa mì gieo vào lòng đất, chịu thối rữa đi; là phải cúi xuống rửa chân cho anh em mình, là phải sẵn sàng phục vụ giúp đỡ những người khó khăn bên cạnh mình … nghĩa là phải đối xử với mọi người cách chân tình, đầy tâm tình yêu mến và kính trọng, bởi vì tâm hồn mình đang thấm đầy tình yêu và sức sống của Đức Ki-tô, Đấng đã chịu chết và sống lại cho tất cả mọi người.

Tin Mừng là tin mừng tình thương, chỉ khi nào con người sống trong tình thương, và loan báo, thể hiện tình thương đó, khi ấy mới thực sự là truyền giáo.

Lạy Chúa, con là sứ giả của Chúa

"Lạy Chúa, Chúa đã muốn chọn con để cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng của Chúa. Chúa muốn đến với nhân loại qua cuộc đời của con. Chúa muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người qua trung gian của con.

Con là người được tham dự vào công trình của Chúa, con là sứ giả của Chúa. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn.

Vâng, lạy Chúa, Con biết rõ điều đó.

Chính Chúa đã kêu gọi con, đã đổ xuống trên con tình thương của Chúa. Chính Chúa đã đóng dấu ấn của Chúa trên con, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Chúa đã muốn dùng con để công bố những điều kỳ diệu mà không sợ rằng chân lý bị suy suyển vì tội lỗi của con.

Riêng con, con rất vui mừng và sung sướng được góp phần nhỏ nhoi của mình vào công việc lớn lao của Chúa. Con cảm thấy hạnh phúc vì được trở nên khí cđể Chúa bày tỏ quyền năng.

Xin cho con luôn cảm thấy ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được Chúa đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả của Chúa.

Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật đó mỗi khi con được đón nhận, dù con thật bất xứng.

Nhưng lạy Chúa,

Con cũng nhận ra đây là một gánh nặng.

Con phải hoàn thành sứ mạng đã được trao phó “khi thuận tiện cũng như lúc khó khăn".

Con phải loan báo về Chúa, phải làm chứng - vì khốn cho con, nếu con không rao giảng. Con không thể tháo lui, bỏ mặc sứ mạng của mình.

Con phải ra đi, ra khỏi mình để loan báo, để thể hiện ơn cứu độ của Chúa cho mọi người, dù người đó là ai chăng nữa.

Đôi lúc con cảm thấy mình không đủ sức để chu toàn sứ vụ, đôi lúc con cảm thấy sứ vụ quá khó khăn mà dường như con không thể vượt qua.

Xin con luôn nhớ rằng Chúa vẫn ở bên con, vẫn là người hướng dẫn, vẫn là người chịu trách nhiệm về sứ vđã trao cho con.

Xin cho con đủ tin tưởng và can đảm để trở thành một khí cụ tốt …

Và lạy Chúa,

Làm sao con có thể thông truyền chân lý của Chúa mà chính con lại đã không đích thân chiếm lấy chân lý ấy, và Chúa cũng đã chẳng chiếm lấy con rồi?

Làm sao con có thể loan báo Tin Mừng mà đã không được Tin Mừng ấy ghi dấu sâu xa nơi tâm hồn mình.

Làm sao con có thể làm chứng về Chúa nếu con đã không có kinh nghiệm về Chúa?

Con hiểu rằng Chúa là Ánh Sáng, và ánh sáng đó bừng lên là nhờ chất dầu của cuộc đời con.

Con phải để cho ánh sáng đó bừng lên trong cuộc đời mình trước khi bừng lên trong thế giới.

Cuối cùng, lạy Chúa,

Chúa đã muốn sử dụng con, xin đừng để con thành một ngăn trở. Xin đừng để những vụng về, những yếu đưối của con làm hỏng đi công trình của Chúa, trái lại, xin cho mọi người đón nhận được Chúa qua cuộc đời của con."

Theo Karl Rahner

 

52. Cầu nguyện như một thách đố - Như Hạ

Theo Viện Thống kê Gallup, "cuộc thăm dò dư luận từ ngày 21-23 tháng 9 cho biết 64% dân chúng Hoa Kỳ đã cho rằng tôn giáo “rất quan trọng” trong đời sống của họ, 47% nói họ đã dự lễ ở nhà thờ hay hội đường trong tuần lễ trước đó." (CWNews 5/10/2001) Sau đó cả nước Mỹ đã tổ chức ngày cầu nguyện cho các nạn nhân. Nhưng một số người vô thần phản đối, vì theo họ không cần phải cầu xin ai cả. Chỉ cần dựa vào sức con người cũng có thể giải quyết vấn đề! Nếu không có liên hệ chặt chẽ giữa niềm tin và lời cầu nguyện, liệu có sự phản đối đó không? Chúng ta chờ đợi câu trả lời của Chúa trong dụ ngôn hôm nay.

HAI KHUÔN MẶT.

Đức Giêsu là một họa sĩ đại tài. Để thu hút giới hâm mộ, Người đã tô đậm một nền đen nghịt, tức là ông quan tòa "chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì." (Lc 18:2) Con người ông là một khối băng giá ngất ngưởng giữa trời. Bằng chứng ông ngâm tôm vụ bà góa kiện đối phương "trong một thời gian khá lâu." (Lc 18:4) Chỗ dựa duy nhất của bà là người chồng không còn nữa. Bà mất tất cả. Bởi vậy, bà mới dễ dàng bị đối phương ăn hiếp. Ai muốn hại bà cũng được. Cuối cùng vì không thể chịu không nổi, bà mới lôi đối phương ra tòa. Hẳn vụ kiện không phải nhỏ. Sau bao ngày tháng kêu réo, bà đã thắng lòng lì lợm của quan tòa. Bà chỉ còn một phương tiện tranh đấu duy nhất là kiên nhẫn kêu than suốt đêm ngày tại cửa quyền. Quan tòa bực bội hết sức. Cuối cùng, "ông ta nghĩ bụng:?Mụ góa này quấy rầy mài, thì ta sẽ xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.?" (Lc 18:5) Dầu sao, công lý đã trở lại pháp đình, không phải vì quan tòa công minh hay có lòng thương cảm đối với những người thấp cổ bé họng, nhưng chỉ vì một lý do hoàn toàn cá nhân. Con người có thể ích kỷ cả khi làm một việc tốt cho người khác! Dầu sao, việc bà bị đối phương hãm hại đã được đưa ra ánh sáng.

Sau khi đã tạo được một nền mờ tối như thế, Đức Giêsu đặt vấn đề: "Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thày nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ." (Lc 18:7) Mặc dù cao vượt hơn con người, nhưng "Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn," (Lc 2:78) chứ không vô tâm như "quan tòa bất chính ấy." (Lc 18:6) Thực tế, Thiên Chúa luôn dấn thân vào lịch sử nhân loại và can thiệp để kịp thời giải cứu những người cô thế cô thân.

Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những khát vọng chính đáng của con người. Nhưng không thể hiểu Thiên Chúa như một cái máy rút tiền lúc nào cũng sẵn sàng nhả tiền cho khách hàng. Thiên Chúa thấu hiểu tất cả hiện tại và tương lai. Con người giống như người đứng dưới chân núi, không thể bao quát toàn cảnh như Thiên Chúa ở trên cao. Bởi đấy những nhận định của họ nhiều khi có tính cách chủ quan và hạn hẹp. Đó là nguyên nhân khiến lời cầu nguyện trở thành một thách đố. Những lúc lâm vào hoàn cảnh như thế, con người thường đồng hóa Thiên Chúa với bộ máy lạnh lùng, lạnh lùng hơn cả quan tòa trong dụ ngôn hôm nay. Bởi thế, có nhiều người không tin vào lời cầu nguyện, nghĩa là không tin có Thiên Chúa lắng nghe khát vọng con người và giải quyết những khó khăn cuộc sống nhân sinh. Họ mất kiên nhẫn. Từ đó, họ có ác cảm với Thiên Chúa và mọi hình thức cầu nguyện.

Nhưng đối với tín hữu, cầu nguyện là lẽ sống. Con người có thể gặp thử thách, nhưng không tuyệt vọng khi chưa đạt được điều mong ước khi cầu nguyện. Thiên Chúa chưa đáp ứng không có nghĩa là Người từ chối lời cầu nguyện. Trái lại, cần phải biết chuẩn bị và biết lắng nghe Thiên Chúa. Nếu bà góa cũng chóng nản lòng thối chí, chắc chắn chẳng bao giờ vụ kiện được minh xét. Lòng kiên nhẫn đã trở thành một sức mạnh khiến cho lời bà thấu đến tai quan tòa. Đó là một bài học đắt giá cho những ai muốn lời cầu nguyện thấu đến Thánh Nhan. Chính Đức Giêsu đã quả quyết: "Ai kiên nhẫn tới cùng sẽ được cứu thoát."

Không những cần kiên nhẫn, người tín hữu còn phải cầu nguyện không ngừng. Chính Đức Giêsu đã làm gương rất lớn và còn dạy chúng ta cầu nguyện cùng với Chúa Cha. Lời cầu nguyện của Người vào giờ phút bi thương nhất tưởng như rơi vào hư vô. Thế nhưng, Chúa Cha đã sai Thánh Linh phục sinh thân xác Đức Giêsu. Đó là lời đáp trả kỳ diệu của Thiên Chúa cho người công chính như Đức Giêsu. Lời cầu nguyện tuyệt vời của Đức Giêsu đã cuốn hút tất cả con người của Người vào trong tình yêu Thiên Chúa.

Vì thế, khi lắng nghe và nhìn thấy Đức Giêsu cầu nguyện, chúng ta mới biết mình phải làm gì để Thiên Chúa nhận lời. Dĩ nhiên cần phải "mặc lấy Chúa Kitô" nghĩa là phải sống công chính như Chúa, để lời cầu nguyện có một sức mạnh. Hơn nữa, "chính việc trung thành với Thiên Chúa của Đức Giêsu là động lực cầu nguyện." (The New Jerome Biblical Commentary 1990:710) Nhưng nếu cho rằng lời cầu nguyện chỉ là một hành động chủ quan, một cách biến đổi chúng ta hay là cách diễn tả một sự bất lực hoặc một thứ hứng khởi tâm lý, đức tin chúng ta sẽ khác lạ với đức tin trong Thánh kinh. Tự căn bản Thiên Chúa chẳng màng gì tới những nhu cầu nhân loại và không đáp ứng nhu cầu đó. Thực tế, Thiên Chúa lắng nghe và đáp ứng lời cầu nguyện của "những kẻ Người tuyển chọn, hằng đêm ngày kêu cứu với Người." (Lc 18:7) "Lời cầu nguyện thực sự có ảnh hưởng nào đó trên cách Thiên Chúa hành động trong thế giới." (The New Dictionary of Catholic Spirituality 1993:766) Bằng chứng, khi giao chiến với quân Amalếch, chính nhờ lời ông Môsê cầu nguyện, dân Do thái đã chiến thắng (x. Xh 17:8-13)

KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN.

Chính nhờ niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa, ông Môsê đã đem lại sức mạnh cho dân Do thái. Con người hoàn toàn bất lực trước những nhu cầu giải thoát vô cùng lớn lao. Nhưng những ai hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, sẽ thấy Người hành động để "hạ bệ những ai quyền thế" và "nâng cao mọi kẻ khiêm nhường." (Lc 1:52) Niềm tin đó phải được thể hiện qua việc cầu nguyện. Nói khác, cầu nguyện chính là một cách diễn tả niềm tin cách sống động và sâu xa nhất. "Vì khi cầu nguyện, chúng ta diễn những gì chúng ta tin về Thiên Chúa và về mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa." (The New Dictionary of Catholic Spirituality 1993:766) Lời cầu nguyện quả thật có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống. Nhưng lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất tự một "đức tin có chất lượng và sống động." (NIB 1995:339) Nếu tin, chúng ta sẽ thấy "chính Thiên Chúa quan tâm tới tạo vật và đáp ứng tiếng chúng kêu xin." (The New Dictionary of Catholic Spirituality 1993:766)

Nhưng niềm tin đó đang gặp khủng hoảng lớn lao trên thế giới. Nhân loại đang đánh mất chiều kích lớn lao nhất, chiều kích Thiên Chúa. Vì thế, con người không thể giải quyết những vấn đề phức tạp. Tương quan nhân loại trở thành nhạt nhẽo và trống rỗng. Bởi không tin Thiên Chúa và khinh thường anh em, nên họ cũng chẳng cần phải gắn bó với ai. Nhân loại phân rẽ thành các khối thù nghịch. Vết nứt càng ngày càng lớn thành một hố sâu sẽ nuốt sống toàn thể nhân loại. Để lấp đầy hố sâu đó, con người cần phải chạy đến với Thiên Chúa. Vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng "xẻ núi lấp sông" mà thôi. Bởi đấy, các tín hữu hoàn toàn tin tưởng sẽ tìm được sức mạnh đích thực trong lời cầu nguyện. Nhờ sức mạnh đó, con người có thể lớn lên theo một tầm vóc Đức Kitô. Càng dựa vào Thiên Chúa, con người càng trưởng thành. Niềm tin vô cùng quan trọng cho thăng tiến nhân loại theo chiều hướng cánh chung. cần kiên trì mới thấy được tất cả sức mạnh của niềm tin. "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc 18:8)

 

53. Tín thác vào Chúa - Lm. Jude Siciliano, OP

(Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)

TÍN THÁC VÀO CHÚA THÁNH THẦN, CHÚNG TA LUÔN TRỞ NEN NGƯỜI RAO GIÃNG LỜI CHÚA

Hôm nay, bài trích thỏ thánh Phaolô gỏ̉i ông Timôthê là một bài đáng quý cho các vị giảng thuyết. Đó là điều rất hệ trọng cho nhủ̃ng ai liên quan đến việc rao giảng. Chúng ta không xem điều thánh Phaolô giao cho ông Timôthê là chuyện vặt. Chắc thánh Phaolô không nghĩ nhủ vậy khi thánh Phaolô bảo ông Timôthê: "Trủỏ́c mặt Thiên Chúa và Đù́c Giêsu Kitô, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết... Hãy rao giảng Lỏ̀i Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng nhủ lúc không thuận tiện....".

Rao giảng chắc là việc không phải luôn luôn "thuận tiện". Đôi khi chúng ta phài nói nhủ̃ng điều mà chúng ta biết thính giả không muốn nghe, nhủng chúng ta có "bổn phận" phải nói lên. Lại còn có điều "không thuận tiện" khác về việc rao giảng liên quan đến thế gian. Người giảng thuyết thủỏ̀ng lệ cần phải làm nhiều việc vào nhủ̃ng lúc không thuận tiện và bận rộn. Có bao nhiêu điều khác nhau khiến người thuyết giảng phải lo lắng, và có thể lơ đểnh trong sự cố gắng của bản thân, không có chủ đề, và không chú trọng trong việc soạn bài giảng. Đối vỏ́i nhủ̃ng người thuyết giảng thông thủỏ̀ng, thì rao giảng chỉ là một việc làm thêm buộc phải làm trong nhủ̃ng ngày bận rộn vỏ́i công việc, nên họ có thể tự cho phép kinh qua việc cầu nguyện và soạn bài giảng đôi chút, vì phải tính toán nhủ̃ng việc mục vụ phải làm hằng ngày, rồi mỏ́i đến bài giảng.

Vậy thì phần đông chúng ta, nhủ̃ng kẻ không là người thuyết giảng, nghĩ gì về bài đọc 2 hôm nay? Chúng ta có tránh khỏi đủọ̉c không? Không đâu. Thánh Phaolô mời gọi tất cả tín hủ̃u. Thánh Phaolô khuyến khích tất cả các Kitô hủ̃u phải hành động. Sau khi nghe thỏ thánh Phaolô hôm nay, chắc có ngủỏ̀i vội chạy ra khỏi nhà thỏ̀ để rao giảng tủ̀ đầu đủỏ̀ng đến xó chợ. Và họ cũng vội vả đổ xô ghi tên học các khoá học về rao giảng. Chắc họ sẽ yêu cầu cho họ một cách học riêng; Và nói là họ vì còn phải bận rộn vỏ́i công chuyện gia đình trủỏ́c đã.

Dù vậy, mỗi ngủỏ̀i trong chúng ta đều đã chịu phép rủ̉a để nên ngôn sủ́, tiên tri và là vương đế trong Chúa Kitô. Mỗi ngủỏ̀i trong chúng ta đều có kinh nghiệm riêng về Chúa Kitô trong đỏ̀i sống của mình. Và trong nhủ̃ng trủỏ̀ng họ̉p riêng của mỗi ngủỏ̀i, chúng ta đủọ̉c thánh Phaolô "giao cho" trách nhiệm và lẽ cố nhiên là bỏ̉i Chúa Thánh Thần để "rao giảng Lỏ̀i Chúa".

Đó là điều các tín hủ̃u tiên khỏ̉i đã làm. Họ đã gặp và đồng hành vỏ́i Thiên Chúa trong đỏ̀i sống họ qua Chúa Giêsu Kitô. Qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã gặp họ và thay đổi đỏ̀i sống họ. Làm sao mà họ lại không bắt đầu nói về kinh nghiệm đó, nhủ thánh Phaolô đã nói đến, và làm sao mà họ lại không "rao giảng Lỏ̀i Chúa?". Chúng ta không cần phải đủ́ng sau bục giảng để rao giảng. Đối vỏ́i phần đông chúng ta, chúng ta không có ỏn gọi làm nhủ thế. Nhủng, điều đó không có nghĩa là chúng ta ngồi lại và để nhủ̃ng vị giảng thuyết đã chịu chủ́c làm tất cả mọi việc. Chúng ta có thể học được rất nhiều về lỏ̀i thánh Phaolô nói vỏ́i ông Timôthê hôm nay.

Thánh Phaolô là thầy dạy của ông Timôthê làm việc mục vụ. Thánh Phaolô nhắc ông Timôthê nhỏ́ là tủ̀ thỏ̀i thỏ ấu ông ta đã đủọ̉c biết "Sách Thánh". Phaolô tin chắc là Sách Thánh là một ỏn huệ, đã dạy cho Timôthê sụ̉ khôn ngoan để trở nên ngôn sủ́, để đủọ̉c ỏn củ́u độ và lòng tin vào Đủ́c Giêsu Kitô. Chúng ta không tin đủọ̉c sụ̉ khôn ngoan đó ỏ̉ nỏi nào khác phải không? Chắc chắn là không bỏ̉i thế gian, hay đáng tiếc hỏn là không bỏ̉i nỏi nào mà dân chúng tìm đến. Trong khi thánh Phaolô ca ngọ̉i cội rễ của khôn ngoan trong Sách Thánh có nhiều ngủỏ̀i không hiểu biết gì về Sách Thánh. Dù vậy, Phaolô nhấn mạnh và nhắc nhỏ̉ chúng ta nhỏ́ là "tất cả các sách trong Kinh Thánh là bỏ̉i từThiên Chúa linh ủ́ng ".

Phaolô không kêu gọi chúng ta hãy nên như nhủ̃ng ngủỏ̀i thông hiểu Sách Thánh theo văn chủỏng. Sách Thánh là Lỏ̀i của Thiên Chúa nói vỏ́i chúng ta là nhủ̃ng phàm nhân; qua lỏ̀i của phàm nhân. Công Đồng Vatican II nói: "Thiên Chúa nói vỏ́i chúng ta theo lỏ̀i của ngủỏ̀i phàm" Nói cách khác, Thiên Chúa không đọc để thủ ký viết tủ̀ng chủ̉ trong Sách Thánh. Nhủng, theo chúng ta đọc qua Sách Thánh, Thiên Chúa mặc khải chính Ngài qua sụ̉ tủỏng quan vỏ́i ông Môsê. ông Abraham và các ngôn sủ́ v.v..., và qua các hoàn cảnh lịch sủ̉ nhủ Xuắt Hành, Giáng Sinh và các lỏ̀i giảng dạy của giáo triều. Thiên Chúa mặc khải hoàn toàn chính Ngài qua chính Chúa Giêsu Kitô, sụ̉ sống, sụ̉ chết và sụ̉ sống lại của Ngài là lỏ̀i muôn thuỏ̉.

Nhủ̃ng ngủỏ̀i đầu tiên có kinh nghiệm việc củ́u chuộc của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng về nhủ̃ng hành động đó của Thiên Chúa. Nhủ̃ng ̣điều họ viết ra gom góp lại thành sách và rồi cộng đoàn tín hủ̃u quyết định nhủ̃ng điều họ viết ra đủọ̉c gìn giủ̃ thành Kinh Thánh là nhủ̃ng sách chính của cộng đoàn.

Giáo Hội tin tủỏ̉ng là Chúa Thánh Thần hiện diện trong tất cả các việc đó tủ̀ lúc bắt đầu gặp Chúa Kitô cho đến sách cuối cùng. Phaolô tin tủỏ̉ng là Chúa Thánh Thần hiện diện trong các việc rao giảng, viết sách, và chọn sách làm cho Phaolô nói "Tất cả nhủ̃ng gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hủ́ng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sủ̉a dạy, giáo dục để trỏ̉ nên công chính".

Phaolô viết cho ông Timôthê là ngủỏ̀i có trách nhiệm lãnh đạo trong giáo hội. Đối vỏ́i nhiều ngủỏ̀i trong chúng ta, việc lãnh đạo đó gồm có việc giảng dạy và tổ chủ́c, lo các hình thủ́c phụng vụ, mục vụ cho ngủỏ̀i đau ốm, ngủỏ̀i hấp hối, nghủỏ̀i nghèo, và ngủỏ̀i trong lao tù v.v... Phaolô tha thiết khuyên ông Timôhtê hãy lỏ́n lên trong đủ́c tin, và hãy trung kiên vỏ́i nhủ̃ng điều ông ta đã học và đã tin. Phaolô khuyên bảo rằng cội rễ của sụ̉ lỏ́n lên trong đủ́c tin là Sách Thánh. Nhủ̃ng điều gì ủ́ng dụng cho đủ́c tin của Timôthê đều ủ́ng dụng cho đủ́c tin của chúng ta.

Lỏ̀i Phaolô khuyên nhủ gởi cho Timôthê cũng là cho mỗi ngủỏ̀i trong chúng ta. Qua cách này hay cách khác, mỗi ngủỏ̀i trong chúng ta đều đủọ̉c mỏ̀i gọi nên người rao giảng. Mỗi ngủỏ̀i đều đủọ̉c ỏn gọi loan báo Tin Mủ̀ng. Hôm nay Phaolô nói vỏ́i chúng ta là Sách Thánh là nguồn gốc sụ̉ khôn ngoan cho chúng ta, và qua chúng ta, nhủ̃ng ngủỏ̀i khác đủọ̉c thu hút bởi sụ̉ khôn ngoan đó.

Đối vỏ́i nhủ̃ng ngươi rao giảng hằng ngày trong thế giỏ́i, Sách Thánh phải là căn bản đầu tiên của lỏ̀i kinh nguyện của chúng ta. Một cách nguyện ngắm Sách Thánh đã đủọ̉c áp dụng vào truyền thống các dòng tu gọi là "Lectio Divina" hay là "nguyện gẫm Sách Thánh". Đó là việc đọc và suy ngẫm chậm rải và cầu nguyện theo Sách Thánh. Nếu chúng ta áp dụng phủỏng pháp này vào việc nghe Lỏ̀i Chúa trong đỏ̀i sống hằng ngày của chúng ta, thì chúng ta sẽ đủọ̉c Lỏ̀i Chúa thúc đẩy chúng ta đi ra ngoài để loan báo Lỏ̀i đó qua lỏ̀i nói và việc làm của chúng ta. Nhủ Phaolô nói, chúng ta sẽ lỏ́n lên trong kinh nghiệm đủ́c tin và việc đó sẽ giúp chúng ta giảng dạy, biện bác, và sủ̉a dạy.

Đôi khi, trong lỏ̀i văn chính, nhủ̃ng tủ̀ ngủ̃ của Sách Thánh có ý nghĩa sâu xa và thi thỏ. Nên khi Phaolô nói "Tất cả nhủ̃ng gỉ viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa Linh hủ́ng". Cụm tủ̀ "linh hủ́ng" có nghĩa chính là "Thiên Chúa thổi hỏi vào". "Thổi hỏi" là việc Thiên Chúa tạo dụ̉ng, khi Ngài tạo dụ̀ng con ngủỏ̀i đầu tiên. Phaolô nói việc đó là việc Thiên Chúa làm nên Lỏ̀i, và bỏ̉i đó Lỏ̀i có thể cho chúng ta hỏi thỏ̉ của sự sống mỏ́i. Sự sống mỏ́i thúc đẩy đỏ̀i sống tầm thủỏ̀ng, thói quen kinh nguyện hằng ngày, và làm cho chúng ta thêm ham muốn chia sẻ điều chúng ta đã nghe vỏ́i nhủ̃ng ngủỏ̀i khác. Và đó chính là điều thánh Phaolô bảo chúng ta làm hôm nay:

"Trủỏ́c mặt Thiên Chúa và Đủ́c Kitô Giêsu, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vủỏng quyền, tôi tha thiết khuyên anh hãy rao giảng Lỏ̀i Chúa".

 

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

1. Sứ Điệp cho ngày Thế Giới Truyền Giáo 2019

(Bản dịch Tiếng Việt Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên)

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2019

Được Rửa Tội và Được Sai Đi:

Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới

Anh chị em thân mến,

Hướng đến Tháng Mười 2019, tôi đã xin toàn thể Hội Thánh làm sống lại sự ý thức và dấn thân truyền giáo của Hội Thánh khi chúng ta kỷ niệm một trăm năm Tông Thư Maximum Illud của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XV (30 tháng 11, 1919). Tầm nhìn xa mang tính tiên tri của Tông Thư về hoạt động tông đồ này đã giúp tôi một lần nữa hiểu ra tầm quan trọng của việc đổi mới sự dấn thân truyền giáo của Hội Thánh và tạo sức đẩy Tin Mừng mới cho công cuộc rao giảng và đem cho thế giới ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và phục sinh.

Tựa đề của Sứ Điệp này cũng y hệt tựa đề của Tháng Mười Đ ặc Biệt Truyền Giáo: Được Rửa Tội và Được Sai Đi: Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới. Cử hành tháng này sẽ giúp chúng ta trước hết tái khám phá chiều kích truyền giáo của lòng tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô, một lòng tin đã được Thiên Chúa thương ban cho chúng ta trong phép rửa. Mối quan hệ con thảo của chúng ta với Thiên Chúa không phải chỉ đơn thuần là một cái gì riêng tư, nhưng luôn luôn liên quan đến Hội Thánh. Nhờ mối quan hệ con thảo của chúng ta với Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta cùng với rất nhiều anh chị em chúng ta được sinh ra cho đời sống mới. Sự sống thần linh này không phải là sản phẩm để bán-chúng ta không làm chuyện chiêu dụ người ta vào đạo-nhưng là một kho báu để cho tặng, truyền thông và công bố: đó là ý nghĩa của truyền giáo. Chúng ta được cho không mòn quà này và chúng ta cũng đem nó cho không người khác (x. Mt 10:8), không loại trừ một ai. Thiên Chúa muốn mọi n gười được cứu rỗi bằng cách nhận biết chân lý và trải nghiệm lòng thương xót của Người nhờ sứ vụ của Hội Thánh, mầu nhiệm phổ quát của ơn cứu độ (x. 1 Tm 2:4; Lumen Gentium, 48).

Hội Thánh đang thi hành sứ mạng trên thế giới. Lòng tin vào Đức Giêsu Kitô giúp chúng ta nhìn mọi sự trong viễn cảnh đúng của chúng, khi chúng ta nhìn thế giới bằng con mắt và trái tim của Thiên Chúa. Đức cậy mở lòng chúng ta ra những chân trời vĩnh cửu của sự sống thần linh mà chúng ta được thông phần vào. Đức ái mà chúng ta được nếm cảm trước trong các bí tích và tình yêu thương huynh đệ, thúc đẩy chúng ta đi đến mọi chân trời góc biển (x. Mk 5:4; Mt 28:19; Cv 1:8; Rm 10:18). Một Hội Thánh quyết tiến tới những vùng biên cương xa xôi nhất thì cần có một sự hoán cải truyền giáo kiên trì và liên tục. Biết bao vị thánh, biết bao người nam người nữ giàu đức tin, làm chứng cho sự thật rằng sự mở rộng vô hạn này, sự đi ra trong tình thương xót này quả thật là khả thi và thực tế, vì nó được thúc đẩy bởi tình yêu và ý nghĩa sâu xa nhất của nó như là một quà tặng, một hi sinh và một sự cho không (x. 2 Cr 5:14-21)! Người rao giảng về Thiên Chúa phải là một người của Thiên Chúa (x. Maximum Illud).

Sứ mạng truyền giáo này chạm tới bản thân chúng ta: Tôi là một sứ mạng, luôn luôn; bạn là một sứ mạng, luôn luôn; mỗi người nam người nữ đã chịu phép rửa là một sứ mạng. Những người đang yêu thì không bao giờ ở yên; họ được kéo ra khỏi con người họ; họ được thu hút bởi người khác và họ thu hút người khác; họ hiến mình cho người khác và xây dựng những mối quan hệ trao ban sự sống. Liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa, không ai là vô ích hay vô nghĩa. Mỗi người chúng ta là một sứ mạng cho thế giới, vì mỗi chúng ta là kết quả tình yêu của Thiên Chúa. Cho dù những người cha người mẹ có thể phản bội tình yêu của họ bằng sự dối trá, thù hằn và bất trung đi chăng nữa, Thiên Chúa không bao giờ lấy lại món quà sự sống của Người. Từ thuở đời đời Người đã tiền định ch o mỗi con cái của Người được dự phần vào sự sống thần linh vĩnh cửu của Người (x. Ep 1:3-6).

Sự sống này được ban cho chúng ta trong Phép Rửa, ban cho chúng ta ơn đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Phép Rửa tái sinh chúng ta theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa, và làm chúng ta thành những chi thể của Thân Thể Chúa Kitô, tức là Hội Thánh. Theo nghĩa này, Phép Rửa thực sự cần thiết để được cứu rỗi vì nó bảo đảm rằng , luôn luôn và mọi nơi, chúng ta là những người con trai con gái trong nhà Cha, chứ không bao giờ là những trẻ cô nhi, những người xa lạ hay nô lệ. Thực tại bí tích nơi người Kitô hữu -được hoàn thành trong Thánh Thể-vẫn là ơn gọi và số phận của mọi người nam người nữ đang tìm kiế m ơn hoán cải và ơn cứu độ. Bởi vì Phép Rửa hoàn thành lời hứa về món quà của Thiên Chúa làm cho mọi người trở thành con cái [của Thiên Chúa] trong Chúa Con. Chúng ta là con cái của cha mẹ ruột chúng ta, nhưng trong Phép Rửa chúng ta nhận được nguồn mạch của mọi tình phụ tử và tình mẫu tử đích thực: Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha nếu không có Hội Thánh là mẹ (x. Thánh Cyprianô, De Cath. Eccl., 6).

Do đó, sứ mạng của chúng ta bắt nguồn từ tình cha của Thiên Chúa và tình mẹ của Hội Thánh. Sứ vụ Chúa Giêsu Phục Sinh truyền cho các môn đệ vào ngày Phục Sinh là yếu tố nội tại trong Phép Rửa: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em, đầy tràn Thánh Thần, để thế gian được giao hoà (x. Ga 20:19-23; Mt 28:16-20). Sứ mạng này là phần thiết yếu của căn tính Kitô hữu chúng ta; nó làm chúng ta có trách nhiệm giúp mọi người thể hiện ơn gọi của họ là làm nghĩa tử của Chúa Cha, nhận ra nhân phẩm của mỗi người và quí trọng giá trị nội tại của sự sống con người, từ lúc thụ thai tới lúc chết. Chủ nghĩa thế tục lan rộng ngày nay, khi nó nhất quyết từ chối tình phụ tử chủ động của Thiên Chúa trong lịch sử của chúng ta, nó là một cản trở cho tình huynh đệ đích thực của loài người, được biểu hiện trong sự kính trọng sự sống của người khác. Không có Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, mọi sự khác biệt đều bị coi là một mối đe doạ nguy hại, khiến người ta không thể nào có sự chấp nhận lẫn nhau trong tình huynh đệ chân thành và sự hiệp nhất hiệu quả giữa loài người.

Tính phổ quát của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô đã khiến Đức Thánh Cha Bênêđíctô XV kêu gọi chấm dứt mọi hình thức chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa chủng tộc, hay sự xuất hiện của việc rao giảng Tin Mừng nhằm đạt được các lợi kích kinh tế và quân sự của các cường quốc thực dân. Trong Tông Thư Maximum Illud, Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng sứ mạng phổ quát của Hội Thánh đòi hỏi phải gạt bỏ các ý tưởng độc quyền về tư cách thành viên của đất nước hay nhóm sắc tộc của mình. Sự cởi mở của nền văn hoá và cộng đồng trước tính mới mẻ cứu độ của Đức Giêsu Kitô đòi hỏi phải bỏ lại đàng sau mọi hình thức tự kỷ về sắc tộc và giáo hội. Hôm nay cũng vậy, Hội Thánh cần những người nam người nữ, mà vì đã lãnh nhận phép rửa, họ quảng đại đáp lại tiếng gọi bỏ lại nhà cửa, gia đình, xứ sở, ngôn ngữ và giáo hội địa phương của họ, để được sai đến với các dân tộc khác, đến với một thế giới chưa được biến đổi nhờ các bí tích của Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh Người. Bằng việc rao giảng Lời Chúa, làm ch ứng cho Tin Mừng và cử hành sự sống của Thần Khí, họ kêu gọi người ta hoán cải, họ làm phép rửa và cống hiến ơn cứu độ của Đức Kitô, với sự tôn trọng tự do của mỗi người và đối thoại với các nền văn hoá và tôn giáo của các dân tộc mà họ được gửi đến. Nhờ đ ó, ‘sứ mạng đến với muôn dân’, missio ad gentes, vốn luôn luôn cần thiết cho Hội Thánh, góp phần một cách thiết yếu cho tiến trình hoán cải thường xuyên nơi mọi Kitô hữu. Đức tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu; sứ mạng Hội Thánh được lãnh nhận trong phép rửa; sự thoát dính bén địa lý và văn hoá với bản thân mình và gia đình mình; nhu cầu cứu thoát khỏi tội lỗi và giải phóng khỏi sự dữ cá nhân và xã hội: tất cả những điều này đòi hỏi sứ mạng phải đạt đến tận cùng cõi đất.

Sự trùng hợp quan phòng của dịp kỷ niệm một trăm năm này với việc cử hành Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về các Giáo Hội Vùng Amazôn cho phép tôi nhấn mạnh rằng sứ mạng mà Đức Giêsu uỷ thác cho chúng ta với ơn Thần Khí của Người cũng đến đúng lúc và cần thiết cho các vùng đất ấy và các dân tộc ấy. Một lễ Hiện Xuống mới đang mở rộng cửa cho Hội Thánh, để không một dân tộc nào bị đóng kín trong chính mình và không dân tộc nào bị cắt đứt khỏi sự hiệp thông phổ quát của đức tin. Không một ai phải bị đóng kín trong tình trạng tự kỷ của mình, trong sự q ui chiếu về tư cách thành viên của sắc tộc và tôn giáo của mình. Biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô phá vỡ những giới hạn chật hẹp của các thế giới, các tôn giáo và các nền văn hoá, bằng cách kêu gọi họ lớn lên trong sự tôn trọng nhân phẩm của mọi người nam nữ, và hướng tới một sự hoán cải sâu xa để trở về với sự thật của Chúa Phục Sinh, Đấng ban sự sống đích thực cho mọi người.

Ở đây tôi nhớ đến những lời của Đức Bênêđíctô XVI khi ngài khai mạc Hội Nghị các Giám Mục Châu Mỹ Latinh tại Aparecida, Brazil, năm 2007. Tôi muốn lặp lại những lời này và lấy chúng làm những lời của chính tôi: “Nhưng các quốc gia Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê đã hiểu việc chấp nhận đức tin Kitô giáo có nghĩa là gì đối với họ? Đối với họ, nó có nghĩa là biết và đón tiếp Đức Kitô, v ị Thiên Chúa vô danh mà các tổ tiên của họ từng tìm kiếm mà không biết, trong các truyền thống tôn giáo phong phú của họ. Đức Kitô là Đấng Cứu Độ mà họ âm thầm khao khát. Nó cũng có nghĩa là họ đã lãnh nhận, trong nước rửa tội, sự sống thần linh làm cho họ trở thành những nghĩa tử của Thiên Chúa; hơn nữa, họ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đã đến để làm cho các nền văn hoá của họ sinh hoa kết quả, bằng cách thanh luyện các nền văn hoá ấy và phát triển nhiều hạt giống mà Lời Nhập Thể đã gieo nơi họ, nhờ đó dẫn họ đi trên những con đường của Tin Mừng. Lời Thiên Chúa, khi trở thành xác thể nơi Đức Giêsu Kitô, cũng trở thành lịch sử và văn hoá. Cái ảo tưởng quay trở lại để thổi hơi thở sự sống vào các nền tôn giáo thời kỳ tiền -Côlombô, ngăn cách họ với Đức Kitô và với Hội Thánh hoàn vũ, sẽ không thể là một bước tiến tới phía trước: thực ra, nó sẽ là một bước giật lùi. Trên thực tế, sẽ là một bước thụt lùi về một giai đoạn lịch sử bám chặt vào quá khứ” ( Bài Diễn từ khai mạc Hội Nghị, 13 tháng 5, 2007: Insegnamenti III, 1 [2007], 855-856).

Chúng ta phó thác sứ mạng của Hội Thánh cho Đức Maria Mẹ chúng ta. Kết hợp với Con của mình từ lúc Nhập Thể, Đức Trinh Nữ Maria đã khởi sự con đường lữ hành của mình. Mẹ hoàn toàn gắn bó với sứ mạng của Đức Giêsu, một sứ mạng đã trở thành sứ mạng của chính Mẹ khi đứng dưới chân Thánh Giá: sứ mạng cộng tác, với tư cách là Mẹ Hội Thánh, trong việc sinh ra những người con trai con gái của Thiên Chúa trong Thần Khí và đức tin.

Tôi muốn kết thúc sứ điệp này với vài lời về các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, đã từng được đề nghị trong Maximum Illud như là một nguồn tài nguyên truyền giáo. Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo phục vụ tính phổ quát của Hội Thánh như là một mạng lưới toàn cầu để hỗ trợ Đức Giáo Hoàng trong cam kết truyền giáo của ngài bằng cầu nguyện, linh hồn của việc truyền giáo, và bằng các việc quyên góp bác ái từ các Kitô hữu trên khắp thế giới. Các khoản quyên góp của họ giúp Đức Giáo Hoàng trong các cố gắng loan báo Tin Mừng của các Giáo Hội địa phương (Hội Giáo Hoàng Truyền Bá Đức Tin), trong việc đào tạo hàng giáo sĩ địa phương (Hội Giáo Hoàng Thánh Phêrô Tông Đồ), trong việc gây ý thức truyền giáo giữa các nhi đồng (Hội Giáo Hoàng Thiếu Nhi Truyền Giáo), và trong việc khích lệ chiều kích truyền giáo của đức tin Kitô giáo (Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo). Trong khi nhắc lại sự ủng hộ của tôi đối với các Hội này, tôi tin tưởng rằng Tháng Mười Đặc Biệt Truyền Giáo 2019 này sẽ góp phần canh tân việc phục vụ truyền giáo của các hội này cho sứ vụ của tôi.

Tôi thân ái gửi phép lành của tôi đến mọi người nam người nữ truyền giáo, và đến tất cả những ai, nhờ Phép Rửa, đang bằ ng cách này hay cách khác tham gia vào việc truyền giáo của Hội Thánh.

Từ Điện Vaticanô, 9 tháng 6, 2019, Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

PHANXICÔ

 

home Mục lục Lưu trữ