Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 38
Tổng truy cập: 1376316
TIN SỰ SỐNG ĐỜI SAU
Tin sự sống đời sau – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Có ngày sinh ắt có ngày chết. Đó là chân lý. Nếu ngày sinh, chúng ta cất tiếng khóc trong niềm vui mừng của mọi người, thì ngày chết, mọi người sẽ khóc cho kiếp người của ta đến đây kết thúc. Vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?
Những câu hỏi như thế, nhóm Sa đốc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đã đặt ra cho Đức Giêsu. Nhân cơ hội, Đức Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về thắc mắc trên.
1. Tại sao nhóm Sa đốc không tin sự sống lại
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào trong bối cảnh sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, và cũng là một trong những bài giáo huấn quan trọng của Ngài tại Giêrusalem. Đức Giêsu lên Giêrusalem lần này là để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Ngài sẽ chịu: "Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất" (Lc18,31). Vì thế, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài ở đây, nhóm Pharisêu và Biệt Phái luôn tìm cách gài bẫy để bắt Đức Giêsu nhằm loại trừ Ngài và xóa bỏ giáo lý mà Ngài đang loan báo. Hôm nay, thêm một nhóm nữa cũng với ý đồ như hai nhóm trên, họ chính là nhóm Sa đốc.
Nhóm này là một trong ba nhóm quyền lực nhất trong dân thời bấy giờ, đó là: Pharisêu, Biệt Phái và Sa đốc. Hai nhóm đầu họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Còn nhóm Sa đốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc. Thái độ và cách thức khác nhau, nhưng họ đều là những người chống đối Đức Giêsu. Chủ trương của nhóm Sa đốc này là không tin có sự sống lại. Họ hoàn toàn phủ nhận tất cả những gì không nằm trong bộ Ngũ Thư, bởi vì họ chỉ tin năm cuốn sách đầu của Cựu Ước, và họ bác bỏ hết tất cả các sách còn lại. Trong bộ Ngũ Thư của Mô sê không có nói trực tiếp đến vấn đề sống lại. Có chăng chỉ là những hình ảnh. Vì thế, họ không tin. Mặt khác, giả thiết của nhóm này là: nếu có tin thì sự sống đời sau chẳng khác gì cuộc sống hiện tại trên trần gian và, quyền năng của Thiên Chúa không xa hơn khả năng của con người là bao.
Khởi đi từ quan điểm, lựa chọn trên của nhóm này, nên họ đã đặt ra cho Đức Giêsu một tình huống hết sức ly kỳ. Họ trưng ra một câu chuyện theo kiểu trào phúng: khi có hai người lấy nhau, người chồng chết mà không con, theo luật, người vợ đó sẽ được lấy tiếp người anh em còn sống để có con nối dõi, và lần lượt như thế tới 7 đời chồng mà vẫn không có con, vấn nạn đặt ra là sau khi sống lại, người đàn bà này sẽ là vợ của ai? (x. Lc 20, 27-38)
Khi đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi như vậy, họ đã dùng biện pháp "nhất tiễn diệt song điêu" một mũi tên bắn hai đích. Một phần họ muốn gài bẫy Đức Giêsu để kiếm cớ tố cáo Ngài; mặt khác, họ muốn so tài với nhóm Biệt Phái và Pharisêu, vì hai nhóm này đã bị thất bại nhiều lần và chịu sự khiển trách nặng nề của Đức Giêsu công khai trước mặt toàn dân.
Khi nhóm Sa đốc đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi về sự sống lại như thế, nhân cơ hội này, Ngài đã mạc khải cho họ về sự sống lại và cuộc sống của con người sau cái chết.
2. Mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại
Ngay sau khi nghe họ đặt câu hỏi, Đức Giêsu đã đi thẳng vào vấn đề: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần" (Lc 20, 35).
Thật vậy, ở đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, bởi vì: Thiên Chúa vẫn là Đấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là một vị Thiên Chúa của kẻ chết.
Tuy nhiên, không phải ai cũng được vào dự phần vinh phúc đó, chỉ những người được chọn và gọi mà thôi: "những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết" (Lc 20, 35) thì sẽ được dự phần phúc ấy. Họ là những con chiên được tuyển chọn và được tách ra khỏi dê, là lúa tốt được phân rẽ ra khỏi cỏ lồng vực, là cá tốt được lọc ra khỏi cá xấu... Họ là con cái Thiên Chúa, khi chết, họ trở về ngôi nhà vĩnh cửu của Cha mình để hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối: "Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được" (1Cr 2,9).
Nhưng được hạnh phúc, được dự phần hay không, còn do thái độ của chính đương sự, chứ Chúa không ép buộc: "Đây Ta đưa ra cho các ngươi chọn: hoặc con đường đưa tới sự sống, hoặc con đường đưa tới sự chết" (Gr 21,8) hay: "Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án" (Ga 5,29). Quả thật, ân sủng của Chúa vẫn có đó, con người được ơn cứu độ hay không là tùy vào thái độ đón nhận hay không đón nhận.
3. Niềm tin vào sự sống lại của chúng ta
Như vậy, qua mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại, nên chúng ta tin: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25-26); "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51); "Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời" (Ga 6,59). Niềm tin ấy đạt đến đỉnh cao khi chính Đức Giêsu, Đấng đã chết, được mai táng trong mồ ba ngày, và ngày thứ ba đã trỗi dậy từ cõi chết. Niềm tin này đã được các tông đồ loan báo và làm chứng: "Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng" (Cv 3, 15; x. Cv 2,32; 10,41). Thật vậy: "Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại" (1 Cr 6,14). Niềm tin này đã được Giáo Hội tuyên tín trong kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại".
Khi tin như thế, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa, là cánh cửa ta cần bước qua để tiến vào sự sống viên mãn, vĩnh cửu hơn mà thôi. Quả thật, nếu không có sự sống lại sau cõi chết, thì niềm tin của chúng ta trở nên mù quáng, điều này cũng đã được chính thánh Phaolô diễn tả khi nói: "Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ" (x. Cr 15,19).
Tuy nhiên, sống hay chết là một sự chọn lựa. Cuộc sống đời sau là có thật, nhưng để đạt được hạnh phúc hay không lại tùy vào thái độ và sự lựa chọn của mỗi chúng ta. Chọn lựa tốt thì sẽ được hạnh phúc, chọn lựa sai thì sẽ bị đau khổ.
Như vậy, muốn cho cuộc sống của mình được hạnh phúc trường sinh với Chúa thì: hãy sống như những người tỉnh thức để đợi chủ về. Hãy sống như các cô trinh nữ khôn ngoan. Và, hãy sống như đây là giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, chính mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa là bảo chứng tuyệt đối của chúng con vào cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con ý thức rằng một ngày nào đó chúng con sẽ phải từ giã cuộc sống tạm bợ này để về với Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc thực sự. Vì thế, xin cho chúng con ngay từ giây phút này, biết chuẩn bị cho xứng đáng ngày trở về với Chúa. Amen.
57. Thực tại mới, tương giao mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Câu trả lời của Vị Ngôn Sứ
Đứng trước cái chết, con người cảm thấy cuộc đời cá nhân của mình bị cắt ngang, họ tìm cách kéo dài sự hiện diện, sự tổn tại của mình qua các tác phẩm nghệ thuât, qua các công trình, qua con cái. Với những dấu vết đó, họ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng họ không hoàn toàn biến mất, không hoàn toàn tiêu tan vì vẫn có những người nhắc nhớ đến họ, vẫn lưu giữ những kỷ niệm, những dấu vết của họ. Theo chiều hướng này, luật Mô-sê đã đưa ra điều khoản về "thế huynh" (xem Đnl 27,5-6): một người đàn bà goá mà không có con, phải kết hôn với em chổng để duy trì dòng dõi cho người anh quá cố.
Luật Mô-sê dành ưu tiên cho người đàn ông, nên phụ nữ, trẻ con chỉ là phương tiện, và từ đó tạo nên cả một hệ thống về quyền lợi, dựa trên những mối liên hệ khác nhau của ý định muốn tổn tại lâu dài. Những người thuộc phái Xa-đốc đã bắt đầu từ những mối liên hệ, những quyền lợi của cuộc sống này để đặt câu hỏi với Đức Giêsu: "Người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?"
Theo một khía cạnh, câu hỏi đó có lý, vì nó khởi đi từ quan niệm về sự tổn tại, về quyền lợi, như đã được ghi lại trong luật Mô-sê, với mục đích duy trì dòng dõi của con người.
Thế nhưng, câu hỏi tự nó có tính cách phi lý và quá chi li: đây là một câu hỏi lắt léo nhằm để bắt bẻ hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Đức Giêsu biết điều đó và Người không quan tâm. Người làm bùng nỗ hệ thống tư tưởng của con người về cuộc sống mai sau. Với tư cách là Vị Ngôn Sứ, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời không theo lối suy nghĩ và những hoàn cảnh của cuộc sống trần gian. Người đến để loan báo, để thông ban sự sống mới, nhưng sự sống đó không phải là một sự tổn tại, không phải là trường thọ; trái lại, đó là một cuộc tái sinh, là sự đạt tới một thực tại khác, một mức độ mới.
Câu trả lời của Đức Giêsu không hề có ý nói rằng thực tại mới sẽ làm cho mọi người, mọi mối tương giao trở nên bằng nhau, như là một kiểu san bằng tất cả, nhưng chỉ có ý gạt bỏ khía cạnh xác thịt hay tình cảm của những mối tương giao: đó chỉ là những điểm khởi đầu có tính cách tự nhiên.
Khi người ta khen ngợi thân mẫu của Người, Đức Giêsu đã nói: "Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?", và Người đã khẳng định về một tương giao mới, về ý nghĩa của gia đình dựa trên mối tương giao với Lời Chúa. Những tương giao nhân bản vẫn có giá trị, nhưng sẽ phải nhường chôỵ cho một tương giao đích thực, trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.
Thực tại mới
Như thế, đời sau là một thực tại, một thực tại mới, khắc hẳn với trần thế này. Trong thực tại mới đó, tất cả đều biến đỗi: không thể lấy những tiêu chuẩn của trần gian để xét đoán, để mô tả đời sau. Thật là lầm lẫn khi đặt vấn đề: trong cuộc sống mai sau không có hôn nhân sao? hay tương tự như thế: ở đời sau có đá banh không? có ti-vi không? có... không? Những câu hỏi này vẫn chỉ dựa trên cái nhìn của trần thế để hiểu về đời sau.
Tuy vậy, vẫn có thể dựa trên mặc khải để hiểu về thực tại mới này như sau:
- Con người được nhìn thấy Thiên Chúa "nhãn tiền". Thiên Chúa như thế nào, con người được thấy như vậy: đó là hưởng kiến, đó là hạnh phúc, vì được nhìn thấy Thiên Chúa với tất cả vinh quang của Người. Trong Thiên Chúa, con người hiểu rõ những gì liên quan đến mình, kể cả mối tương giao với bạn bè, với người thân trên mặt đất.
- Trong thực tại mới này, con người chìm ngập trong vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa, không có gì cao đẹp hơn vinh quang đó, và con người chỉ có việc hưởng vinh quang, ca tụng vinh quang.
- Trong cuộc sống trần thế, con người vui hưởng tình yêu, cái đẹp, sự hiểu biết, quyền lực... những điều này chỉ có tính cách tương đối. Còn trong thực tại mới, Thiên Chúa là chính tình yêu, tình yêu trọn vẹn, là toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện.
Đàng khác, theo thánh Phao-lô: thân xác của con người trong thực tại mới này sẽ hoàn toàn khác hẳn với thân xác trên mặt đất, như một cây to lớn khác với hạt giống khởi đầu. Cái gieo xuống là thân xác tự nhiên, cái mọc lên là thân xác thiêng liêng.
Thân xác vinh hiển không cần phải ăn uống hay những liên hệ của trần thế này. Khi ấy, con người được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa: họ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.
Tin vào Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu được giải thích như sau: Với cái chết, nhân loại được biến đỗi từ tình trạng thể lý, và được giải thoát khỏi những ràng buộc của trần thế. Chính Đức Kitô, Đấng sẽ chịu chết và phục sinh, loan báo sự thay đỗi này. Không chỉ có số phận của thân xác được thay đỗi, nhưng cả các tương giao xã hội: cơ chế và luật pháp sẽ chẳng còn giá trị, bởi vì chúng chỉ là thực tại tạm thời và vô ích, được sử dụng cho cuộc sống trần gian. Còn trong thực tại mới, tất cả phải biến mất, vì đó là cuộc sống vinh quang, là thời gian viên mãn, là "thời của Đức Kitô".
Trong trình thuật này, Đức Giêsu nối kết hai ý niệm "con Thiên Chúa" và "được sống lại". Điều này có nghĩa là con Thiên Chúa là những người được sinh ra trong đời sống vĩnh cửu, đời sống của chính Thiên Chúa.
Những người được hưởng ơn phục sinh có hai nét đặc trưng:
- Một là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Theo thánh Phao-lô: những người con của Thiên Chúa không còn phải chịu nô lệ dưới ách lề luật, nhưng là những người hưởng tự do trong ân sủng.
- Hai là họ được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Nhờ sự vâng phục Thánh Thần - không hề đi ngược với tự do - họ trở nên những người sống giữa trần gian với nét độc đáo riêng của mình.
Nói thế, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống: Người đã tạo tác sự sống và không để sự sống phải tiêu vong; trái lại, Người duy trì sự sống qua việc làm cho kẻ chết sống lại và ban phát sự sống trường cửu. Đức Giêsu sẽ chịu chết và Người sẽ sống lại để tất cả mọi người đều được phục sinh, được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa của tỗ phụ Áp-ra-ham, của tỗ phụ I-xa-ác, của tỗ phụ Gia-cóp", Người không chỉ gợi lại các biến cố của thời quá khứ và các nhân vật đã qua, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng Bất Tử, là Đấng Bảo Tổn. Tất cả những ai đã chân thành, đã tin Thiên Chúa đều được sống với Người, sống vĩnh cửu. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa cũng gắn liền với niềm tin vào sự sống vĩnh cửu.
Qua cuộc đối thoại giữa Vị Ngôn Sứ của sự sống vĩnh cửu và những người không tin vào sự sống này, chúng ta được nhìn thấy những viễn tượng mới, rất rộng lớn.
Con người được mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương và hằng mong ước cho họ được sống với Người mãi mãi. Sự sống, tình thương nơi Thiên Chúa không phải là điều bất toàn, có tính cách tạm thời; trái lại đó là sự sống, là tình thương trọn vẹn, vĩnh cửu. Bởi vì Người là Đấng Hằng Sống và là Tình Yêu. Không nhận điều đó tức là không tin Người là Đấng Toàn Năng, và coi Thiên Chúa như bất cứ ngẫu tượng nào khác.
Ngoài ra, con người được kêu gọi vượt qua những giới hạn của tình trạng gia đình, nghề nghiệp, xã hội; đổng thời họ được kêu gọi vượt qua những biên giới của tình yêu trần thế, để ngay từ cuộc sống nơi trần thế, họ đã khởi đầu cho những tương giao mới, đạt tới tầm mức của con cái Thiên Chúa sẽ được hoàn tất trong cuộc sống mai sau.
Như vậy, với Đức Giêsu, cái chết không còn là một kết thúc, nhưng là khởi đầu cho cuộc sống mới, cuộc sống đích thực, cuộc sống vĩnh cửu.
Hạnh phúc cho những ai, trong những mối tương giao nhân loại, đã bắt đầu kiến tạo thực tại vĩnh cửu này. Bởi vì ngay từ bây giờ, họ đã khám phá ra sự thật của mối tương giao mới, mối tương giao do chính Thiên Chúa làm nảy sinh.
* * *
Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo tâm hổn,
Chúa là Đấng cho mọi loài được sống,
xin ban hạnh phúc cho chúng con.
Chúng con sống
không nhờ sức lực của chúng con
nhưng nhờ sự sống của Chúa
đang thấm nhuần cả vũ trụ.
Không phải tự sức chúng con
hoàn thành các công việc,
nhưng chính quyền năng cao cả của Chúa,
đang sống trong chúng con.
Một bạn trẻ Nhật Bản
58. Vấn đề sống lại
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào. Chúa đã trả lời làm hai bước: Trước hết, Chúa nói về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại, sau đó, Chúa đưa ra một lập luận dựa trên một kiểu nói cơ bản nhất trong bộ Ngũ Kinh là những sách mà những người Xa-đốc công nhận là Sách Thánh.
Trước hết, về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại. Chúa cho biết nó không phải là một sự lặp lại cuộc sống trần gian, hai yếu tố của cuộc sống trần gian mà những người Xa-đốc nêu lên là chuyện cưới vợ lấy chồng và cái chết thì sẽ không còn nữa, những người đã sống lại thì được ngang hàng với các thiên thần nên không thể chết được nữa. Sự sống sau khi sống lại là sự tham dự trọn vẹn vào cuộc sống của Thiên Chúa, lúc đó người ta mới thể hiện đầy đủ bản chất là con Thiên Chúa, vì người ta được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Con của loài vật thì có sự sống của loài vật, con của loài người thì có sự sống của loài người, con của Thiên Chúa thì có sự sống của Thiên Chúa. Người ta được ngang hàng với các thiên thần, giống như các thiên thần, không còn bận tâm nào khác ngoài việc chiêm ngắm và ngợi khen Thiên Chúa. Vậy thì lập luận của những người Xa-đốc không đứng vững, bởi vì chính quan niệm của họ về cuộc sống sau khi sống lại không đúng.
Tiếp theo, Chúa Giêsu dựa vào một kiểu nói cơ bản rút ra từ một đoạn văn then chốt trong Cựu Ước và đối với lịch sử Do Thái, đó là đoạn văn kể việc Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê dưới hình ngọn lửa cháy trong bụi gai (Xuất Ai Cập 3,6). Chúa nhấn mạnh vào ông Mô-sê, vì phái Xa-đốc nhìn nhận uy quyền của ông. Trong sách thì đây là lời Thiên Chúa tự xưng với ông Mô-sê, nhưng vì truyền thống Do Thái coi đây là sách do ông Mô-sê viết, nên Chúa Giêsu dựa vào đó mà lập luận. Ông Mô-sê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Phái Xa-đốc không tin có đời sau, chết là hết, bởi vậy Chúa Giêsu lập luận: nếu chết là hết, thì các vị tổ phụ kia đã chết rồi, mắc mớ chi mà gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ đâu phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Bởi vì đã gọi Ngài là Thiên Chúa của ai tức là người đó đang sống, tuy đối chúng ta thì người đó chết rồi. Ông Mô-sê không khẳng định có sự sống lại, nhưng trong kiểu nói này ông Mô-sê cho thấy rằng có cuộc sống đời sau, con người không chỉ có cuộc sống trên trần gian này thôi, chết không phải là hết, nhưng là đi vào một cuộc sống mới, sống trước mặt Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa.
Chúng ta thấy lối lập luận của Chúa Giêsu thật độc đáo, nên những người tranh luận với Chúa đã chịu lý và không thể cãi lại. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Thực vậy, chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng là bắt đầu sống thực sự, như chúng ta vẫn hát trong thánh lễ an táng: “Lạy Chúa, đối với tín hữu Chúa, đời sống thay đổi chứ không bị tiêu diệt”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trên giường hấp hối, cũng đã nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Quả thực, sự chết vẫn hiện hữu, nhưng chết chỉ là chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi: từ tạm thời sang vĩnh cửu, từ hữu hạn sang vô hạn, chết là bắt đầu một đời sống mới, một cuộc đời vĩnh cửu.
Tóm lại, chết là một sự kiện hiển nhiên không cần phải chứng minh, đã là con người thì sẽ phải chết. Và đối với đức tin của chúng ta, thì thân xác chúng ta chắc chắn sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỷ dữ lại là chuyện khác. Chắc chắn thân xác chúng ta sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu là vấn đề chúng ta phải hết sức quan tâm, bởi vì kẻ lành, kẻ sống tốt lành thánh thiện cũng sống lại, và kẻ dữ, kẻ sống xấu xa tội lỗi cũng sống lại, nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, đó là điều khác biệt. Căn cứ vào đâu để Thiên Chúa thưởng hay phạt chúng ta? Căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta, đời này quyết định số phận đời sau, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”, “gieo thứ gì gặt thứ ấy”.
Lạy Chúa, cuộc sống này có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Xin cho chúng con luôn nhớ mình sẽ phải chết để sống tốt, sống lành hầu xứng đáng đón nhận phần thưởng vĩnh phúc.
Các tin khác
.: THIÊN CHÚA ĐƯỢC TÔN VINH (17/05/2025) .: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam