Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1367568
TIN VÀ THEO
Tin trước tiên là tin ở một con người. Không chỉ là biết con người đó là ai, biết một cách chung chung, khách quan theo lý lịch hay qua một sự điều tra có tính cách khoa học, mà chính là biết được người đó là gì đối với chính bản thân và cuộc đời của mình. Như thế, tin đích thực không chỉ là thái độ của trí óc mà còn là thái độ của con tim.
Trong lòng tin của người Kitô hữu, con người đó chính là Chúa Giêsu. Vì thế, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không hỏi các tông đồ phải bình luận những điều Ngài giảng dạy đúng hay sai, cũng như nói lại những gì các ông đã thu hoạch được trong giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta thấy Ngài yêu cầu các ông nói lên chính Ngài là ai. Các ông đã lặp lại ý kiến của các người khác về Ngài, nhưng Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ, Ngài còn đòi các ông phải tự mình trả lời câu hỏi Ngài là ai.
Tin đối với người Kitô hữu, chính là tự đặt mình vào trong mối quan hệ với Đức Kitô và hành động theo những đòi hỏi của mối quan hệ này. Lòng tin của người Kitô hữu bao hàm một sự gắn bó với Đức Kitô như con đường của sự thật, của sự sống, bao hàm việc đi theo Ngài, dù phải ngang qua đau khổ và thập giá. Con đường Chúa Giêsu đã đi vốn là con đường thập giá. Như thế, chưa có thể gọi được là tin đích thực nếu như chưa có một sự biến đổi trong cuộc sống, chưa có những hành động kèm theo điều chúng ta tuyên xưng.
Phêrô đã bị quở trách một cách nặng nề, bởi vì, mặc dầu ông đã tuyên xưng đúng Thầy của mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, nhưng chẳng những đã không đi theo Thầy, mà còn muốn ngăn cản Thầy đi con đường của Thầy. Chỉ có thái độ sống hay hành động mới chứng thực cho sự chân thật của lòng tin.
Miệng nói mà chân tay không làm theo thì đúng là kẻ giả hình. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài gọi họ là những mả tô vôi. Nói một đàng, làm một nẻo, thì đúng là kẻ gian dối. Có những người rao giảng sự ưu tiên cho người nghèo, nhưng trong thái độ thì lại trọng người giàu, đi với người giàu, làm theo người giàu, và coi nhẹ người nghèo. Có kẻ lập luận thì xem ra tiến bộ lắm, nhưng hành động thì lại đầy tính cách bảo thủ, cha chú, độc đoán.
Những trường hợp như thế là một kinh nghiệm thường ngày của chúng ta và phải là một lời cảnh cáo đối với mọi người. Một Phêrô cản ngăn Thầy mình đi Giêrusalem ngay sau khi tuyên xưng lòng tin nơi Thầy như đang còn tiềm ẩn trong thẳm sâu cõi lòng của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
2. Nói và làm
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
3. Về phần con, con bảo Thầy là ai?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, “Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8,27-28)
Như thế, người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8,29)
Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về Người: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giêsu là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu sinh!”
Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu: “dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình.”
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.
Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:
“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý”. (Thư gửi bà Von Vizine)
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
4. Người ta bảo Thầy là ai?
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”. Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách “cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu” mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình…
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen.
5. Tình bạn là mãi mãi
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thành ngữ Việt Nam có câu: “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Lời nói của người xưa đã thành một chân lý. Con người ai cũng cần một người bạn tri kỷ để có thể chia sẻ vui buồn có nhau, và nhất là để giúp nhau vượt qua khó khăn. Một người bạn chân thành không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, ai cũng biết câu chuyện cảm động về em Đoàn Trường Sinh 10 năm cõng bạn đến trường. Quãng đường tư nhà Sinh đến trường dài hơn 4 ki-lô-mét, qua đèo, vượt suối, khúc khuỷu, ghập ghềnh. Thế mà Sinh không quản khó khăn ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt cả hai chân đi về. Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành, nhiều năm liền, Hanh là học sinh tiên tiến, có năm còn tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.
Tình bạn chân thật thì luôn có nhau trong lúc khó khăn, gian nguy. Vui sướng, giầu sang ở bên nhau thì dễ. Hoạn nạn ở bên nhau mới là tình bạn đáng quý. Cuộc đời có vay có trả. Bạn đã cho ta niềm vui thì khi bạn gặp khó khăn ta hoàn trả cho bạn là lẽ công bằng. Bởi vì, như ai đó đã nói:
“Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình.”
Các môn đệ năm xưa đi theo Chúa. Chắc chắn các ngài đã được Chúa yêu thương đùm bọc. Chúa Giê-su còn coi các môn đệ là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ. Các môn đệ đã được cùng chia sẻ niềm vui hạnh phúc với Chúa trong những lúc thành công trên đường truyền giáo.
Hôm nay, Chúa đòi các ông thể hiện tình bạn với Chúa không phải lúc Chúa được tung hô khi hóa bánh ra nhiều, hay khi cỡi lừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Chúa đòi các môn đệ thể hiện tình bạn trên chặng đường thập giá để tới Núi Sọ. Chúa bảo rằng: “Ai muốn theo Thầy, thì phải vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy”. Khi dám theo Chúa trên con đường thập giá thì Chúa sẽ ban phần thưởng sự sống đời đời cho họ. “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống”.
Nhưng xem ra tình bạn chân thành với Chúa chẳng mấy ai! Khi Chúa đi vào vườn cây Dầu đã chịu cảnh cô đơn một mình. Các bạn bè Chúa vẫn ngủ mê. Khi Chúa bị bắt trói thì các môn đệ mạnh ai nấy chạy. Khi Chúa bị dẫn vào dinh Cai-pha thì Phê-rô trối Chúa 3 lần. Khi Chúa vác thập giá lên Núi Sọ chỉ còn một mình Gioan bước theo xa xa.
Xem ra tình bạn với Chúa chỉ có khi nhận được ân huệ của Ngài. Tình người thật hay thay trắng đổi đen. Thế nên, cuộc đời vẫn còn đó những người tôn thờ Chúa khi giầu sang, khi làm ăn thịnh vượng nhưng rồi họ bỏ Chúa khi làm ăn thất bại nợ nần. Cuộc đời vẫn còn đó những người theo Chúa chỉ để mong được sống sung sướng, và rời xa Chúa khi mộng ước của họ không thành.
Xem ra Chúa Giê-su vẫn cô đơn trong dòng đời hôm nay. Ngài rất cần một người bạn tri kỷ như Gioan để đứng bên Chúa khi khó khăn. Ngài vẫn cần sự đồng cảm như Madalena để đi theo Chúa trên đường thập giá.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách sống, cách nghĩ của mình với Chúa. Hãy đến với Chúa không phải vì bổng lộc mà vì tin tưởng vào quyền năng của Chúa để phó thác cho Chúa. Hãy ở lại bên Chúa dầu cuộc sống còn nhiều những khó khăn. Hãy vác thập giá theo Chúa dầu thiệt thòi đời nay nhưng Chúa sẽ ban thưởng cho ta bằng nhiều cách khác nhau, nhất là hạnh phúc thiên đường. Amen.
6. Đức Kitô.
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.
Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.
Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
7. Tuyên xưng Thiên Chúa tình thương trong đời sống
Môn đệ theo Chúa Giêsu được tuyển chọn đặc biệt, được yêu thương cách riêng. Các ông đã đi theo Chúa Giêsu nên đã từng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến nhiều phép lạ… Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu cho các ông làm bài kiểm tra, để tỏ ra lòng tin, mến mức độ nào đối với Chúa Giêsu.
Thoạt tiên, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò xem người khác nói về Ngài như thế nào? Ngài hỏi họ “người ta bảo Con Người là ai?”. Nhiều ý kiến khác nhau: “Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Như thế, dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi Con Người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng điều quan trọng không chỉ biết đúng mà còn phải biết đủ về Chúa Giêsu nữa: “Ngài chính là Con Thiên Chúa thật làm người thật”.
Dân chúng đã nhận định về Chúa Giêsu như thế. Bây giờ đến lượt các tông đồ, Chúa Giêsu muốn các ông trả lời cách xác tín về Ngài và về sứ vụ của Ngài nên Ngài hỏi: “Các con nói Thầy là ai?”. Đứng trước câu hỏi này, các ông không ngỡ ngàng lắm vì họ đã sống với Ngài lâu rồi, thấy nhiều phép lạ rồi, nghe giảng nhiều rồi. Đây là dịp để các ông bày tỏ niềm tin vào Ngài thôi. Vì thế, Phêrô thay mặt anh em trả lời với Chúa Giêsu: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mc 8,29). Câu trả lời này của Phêrô làm cho Chúa Giêsu rất hài lòng. Phải, Thầy là Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo, mà muôn dân đợi trông. Thật thế, chính những người bệnh tật được Ngài chữa lành, người chết được ngài cho sống lại, kẻ tôi lỗi được ngài tha thứ và ban bình an, niềm hạnh phúc thật sự, hết mọi người được nghe loan báo… Tất cả những dữ kiện đó há chẳng phải của Đấng Thiên Sai, chẳng phải được ban trong thời Thiên Chúa cứu độ mà các tiên tri loan báo (x. Lc 4,18–24). Không những Ngài trao ban cho họ sự sống thể lý, vật chất mà Ngài còn trao ban cho họ chính sự sống của Ngài, sự sống thần linh, sự sống đời đời, sự sống mà chỉ có Thiên chúa là chủ tể sự sống mới có và trao ban được mà thôi. Quả thật người Do Thái thời Chúa Giêsu quá hạnh phúc vì chứng kiến và thừa hưởng tình thương, ân sủng và ơn cứu độ của Thiên Chúa một cách tỏ tường. Chính vì thế mà Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Đến lượt chúng ta, ngày nay Chúa Giêsu đang cần chúng ta trả lời, trả lời Ngài là ai trong đời sống hằng ngày sống giữa anh chị em chúng ta? Hẳn thật đây là câu hỏi giúp chúng ta kiểm điểm niềm tin và thái độ sống của mình. Có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Và chúng ta đáp trả lại như thế nào?. Hơn nữa, cách sống của chúng ta có làm người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không? Chúng ta đã thật sự sống vai trò của người môn đệ, của người thụ ơn Thiên Chúa. Chúng ta có dám rao giảng và can đảm làm chứng có Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này, trong bản thân mỗi người chúng ta chưa? Chúng ta có thật sự sống trao ban tình thương mà chúng ta đã nhận lãnh hết từ ơn này đến ơn khác của Thiên Chúa chưa? Thật thế, sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, chúng ta hãy thể hiện cho người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không, là người được Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hãy can dảm và sẵn sàng yêu thương như Chúa yêu bởi vì chúng ta nhìn nhận rằng: tất cả những gì tôi có đều nhờ bởi ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin mạnh mẽ vào Ngài và can đảm sống chứng nhân về tình yêu thương của Ngài giữa đời trong cuộc sống chúng con đang hiện diện với mọi người. Amen.
8. Đau khổ.
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.
Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.
Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.
Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.
Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.
Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam