Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1371378

TÌNH CHÚA TÌNH NGƯỜI

Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ những người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo trải xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel! Hoan hô trên các tầng trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với những diễn tiến xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân chúng hùa theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá. Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.

Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc lịch sử của dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân riêng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi. Tình Chúa bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam mê sắc dục, tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa cùng Chúa: “Tôi đã cầu xin Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài” (Dn 9,4-5).

Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con người lạc bước và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’ hay còn được gọi là ‘Người con hoang đàng’ (Lc 15,11-32).

Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong lầm lạc, nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa Giêsu đã phán: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa và là Đấng được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến cố thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.

Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con người chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng biến thành những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con người thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là giá máu cứu chuộc.

Mỗi người nghe bài tường thuật sự Thương Khó của Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài Thương Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người lại có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng liên quan gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính quyền, trưởng tế, quân lính, người phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta nên có một tâm tình tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và chiêm niệm từng lời nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống và từng bước chân ngã quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về tinh thần và cũng như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất trung của loài người.

Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã toa rợp để tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát và bị hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách móc, nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.

Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy là tội lỗi của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội cáo gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người, tội bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi miệng, thái độ và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên những bước chân trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của Chúa. Qua bài Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người nói với tôi: “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22,7-8).

Qua mọi thời, có một số người cứ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự do làm chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn. Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm sâu trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng và thêm hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để tìm thỏa mãn quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết các sứ giả, các tiên tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.

Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay cũng giống như các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi khi phạm tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân mình Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng ta xét mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi con cái mình hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.

Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập giá. Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ, chán nản, bị đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích, nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên vinh thắng cho những ai bền đỗ đến cùng.

 

 

 

 

 

58. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Kính thưa quý OBACE, bầu khí phụng vụ của ngày lễ lá hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau, vừa hân hoan, vừa trầm buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của người Do Thái: Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, thì liền sau đó bước vào thánh lễ, chúng ta lại được nghe thuật lại sự thương khó của Chúa Giêsu. Chính sự tương phản này cũng đã phần nào nói lên sự thay lòng đổi dạ của con người, sự tráo trở của những người Do Thái ngày ấy.

Tiếng reo mừng hoan hô của những người Do Thái ngày Chúa vào thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện một sự mong đợi hoàn toàn có tính cách thế tục, họ chờ đợi không phải là một Đấng Mesia cứu thế, mà là mội vị vua trần thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khởi nghĩa xưng vương quy tụ dân chúng nổi dậy chống lại đế quốc Roma. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không làm vua trần thế, mà Ngài tiến vào Giêrusalem hình ảnh thành đô của Thiên Chúa, không phải để làm chính trị, mà để xây dựng một vương quốc tình yêu và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa, vương quyền của sự sống trên sự chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ trên hận thù gian ác.

Tiên tri Isaia đã báo trước về sứ mạng của đấng Mesia qua bài ca về Người Tôi Trung của Giavê Thiên Chúa trong bài đọc một; Vị Tiên tri mô tả về một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả đau khổ roi đòn, bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế giễu, bị người đời khinh khi hành hạ, nhưng người tôi tớ ấy vẫn một mực tín trung, chấp nhận tất cả sự nhục nhã vì tin vào Đức Chúa là Đấng làm chủ và điểu khiển mọi sự và làm chủ đời mình.

Thánh Phaolô đã nhìn thấy hình ảnh người tôi trung mà Isai tiên báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, Người còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Tuy nhiên, người Do Thái đã không dễ dàng chấp nhận một Đấng Mesia khiêm hạ, một Thiên Chúa hạ mình đến như thế, họ tìm kiếm và chờ đợi một Thiên Chúa khác, do óc tưởng tượng của họ mang lại: một Thiên Chúa phải thẳng tay trừng trị kẻ áp bức, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ có tội chứ không thể cúi xuống trên họ, một Thiên Chúa không thể đến quá gần con người, không thể để cho một người phụ nữ tội lỗi xức dầu vào chân mình, không thể đồng bàn với người thu thuế…, chính vì không được như ý họ mong muốn, nên người Do Thái đã sẵn sàng đổi trắng thay đen, những người gào thét tại sân của quan tổng trấn, đòi giết Giêsu và tha Baraba cũng chính là những người đã hoan hô con vua Đavít, là những người đã được ăn bánh no nê, được chứng kiến phép lạ, được chữa lành bệnh tật.

Nghe bài thương khó hôm nay chúng ta nhận thấy lòng dạ của những người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu khi thấy một người phụ nữ xức dầu thơm quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua chuộc một Giuda ham tiền để lập mưu bắt Chúa Giêsu, những hành động ấy phát xuất từ sự ghen tị thù hằn và họ câu kết với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để đạt được mục tiêu này, họ không loại trừ một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo gian đến gây sức ép, các vị lãnh đạo Do Thái là những người chủ mưu trong vụ án này, họ đã dàn dựng từ một vài những vấn đề tranh luận tôn giáo để đi đến một bản án hoàn toàn chính trị bằng việc vu cáo Chúa Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ chống lại hoàng đế Cesare, để rồi mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.

Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn sống đến cùng tình yêu thương và tha thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các môn đệ sẽ phản bội, nhưng Chúa cũng không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao cho anh những cử chỉ yêu thương để đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ nạn này Chúa Giêsu không chỉ đau đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những tên lính, mà Ngài còn đau khổ hơn bởi sự phản bội của những người thân tín nhất của Ngài. Đó là sự phản bội của Giuda, kẻ đã đi theo Chúa nhiều năm, vậy mà chỉ vì một chút quyền lợi tiền bạc, anh đã bán đi tình nghĩa thầy trò, và đau đớn hơn nữa, anh đã dùng nụ hôn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương để làm dấu chỉ của sự phản bội. Cũng thế, Simon Phêrô, một trong số những môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương tin tưởng nhất, lại là người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước mặt một đứa đầy tớ gái. Sau cùng là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, trong số họ có biết bao người đã từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa lành, vậy mà giờ đây, trước mặt một vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba thay vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại trừ Thiên Chúa là vua của họ: Chúng tôi không có vua nào khác ngòai Cesa, họ đã gào thét lên như thế.

Chúa Giêsu đã đón nhận cây thập giá mà ngươi ta đặt lên vai Ngài như là cách thế mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài chấp nhận để đem ơn cứu độ cho trần gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận cùng của con đường cứu chuộc, và chặng cuối của con đường là cái chết giang tay trên cây thập giá, chết trong đau đớn tất tưởi. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng chính sự độc ác của con người để đem lại ơn cứu độ cho con người, dùng sự phản bội để đem lại sự thứ tha, dùng cái chết của Ngài để đem lại sự sống đời đời.

Thưa quý OBACE, nghe lại bài thương khó Chúa không để chúng ta đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua cuộc thương khó này chúng ta có thể thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành hình Chúa Giêsu năm xưa, có thể chúng ta là người đã gây tổn thương cho Chúa khi chúng là những người mang danh là Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta đã phản bội lại Chúa như Giuda khi chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền bạc mà chà đạp lên danh dự là một Kitô hữu, bán rẻ lương tâm của mình, có thể vì sợ hãi hèn nhát hoặc vì bổng lộc của thế gian mà chúng ta đã từ chối Chúa như Phêrô: Tôi không biết người ấy là ai! Và cũng có thể chúng ta là những người đã từng nhận được biết bao ơn lành của Chúa, song chúng ta cũng giống như những người Do Thái đòi tha Bararaba mà giết Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa Giêsu ảnh hưởng đến cuộc đời của mình, của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc kinh cầu nguyện, khi chúng ta không đến với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh nhận các Bí tích. Hoặc là chúng ta sẽ thấy mình giống như các thầy thượng tế và luật sĩ, mưu mô gian ác trong cuộc sống trong công việc, đối với anh em, cứng lòng trước đau khổ thập giá của Chúa Giêsu khi chúng ta quay lưng lại với Chúa hoặc chúng ta lên án Chúa và Giáo Hội của Ngài, cho mình quyền định đoạt số phận và xét đoán anh em, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau khổ bất hạnh của anh em, và có khi còn nhạo cười trên đau khổ của họ và gào thét giơ tay đòi kết án họ.

Chúa Giêsu vẫn đang bị hành hình trong thời đại của chúng ta hôm nay qua những con người đang phải chịu sự bất công đàn áp, những con người bị đẩy ra bên lề xã hội, bị chính những người anh em ruột thịt của mình khinh bỉ từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị hành hình qua những con người cùng cực bị bóc lột khai thác, lạm dụng, bạo hành, kể cả qua những em bé, những thai nhi bị những Philatô là chính cha mẹ của mình lên án tử, đó là những Giêsu của ngày hôm nay. Thương cảm cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những cảm xúc tự nhiên, mà hãy nhận thật rằng chính vì tội lỗi của tôi, của ông bà, anh chị mà Chúa chịu chết như thế, để từ nay chúng ta cố gắng sống tốt hơn, và sống ngoan thảo với Chúa hơn, đồng thời biết quan tâm đến anh em để chia sẻ với sức nặng của thập giá của anh em đó là cách chúng ta cất đi bớt sự đau khổ cho Chúa ngày hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

59. Nhân tình thế thái

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Trong bài thơ “Thói đời”, Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vần thơ lột tả sự tráo trở trong thái độ sống của con người:

“Được thời thân thích chen chân đến.

Thất thế hương lân ngoảnh mặt đi”.

Suy niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su càng thấy rõ nhân tình thế thái, thấy sự tráo trở, đổi trắng thay đen của lòng dạ con người.

1. Đám đông dân chúng. Dân thành Giê-ru-sa-lem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đa-vít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, Pha-ri-sêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!” Hai thái độ trái ngược nhau của dân chúng: hoan hô và đả đảo, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Đám đông thường nông nổi nhẹ dạ, vô ý thức và do đó vô trách nhiệm. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn: người ta hoan hô, mình hoan hô, người ta đả đảo mình đả đảo, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Một nỗi buồn thấm thía, sao người ta lại bạc bẽo với Chúa như vậy?

2. Giu-đa It-ca-ri-ốt. Trong Ki-tô Giáo, Giu-đa phản bội Thầy là một sự kiện nổi tiếng. Nổi tiếng vì bán Thầy với giá ba mươi đồng bạc (Mt 27,3). Một môn đệ được tuyển chọn, được huấn luyện, Giu-đa vinh dự thuộc về nhóm 12, được giao trọng trách quản lý. Nhưng lòng tham lam của cải vật chất đã đẩy Giu-đa đến chỗ phản bội. Giu-đa đi gặp các thượng tế và nói: “Tôi sẽ được gì nếu tôi nộp Ngài cho các ông?” Họ đã trả cho hắn ba mươi đồng bạc, và từ đó hắn tìm dịp để nộp Chúa Giê-su cho họ” (Mt 26,16). Một cuộc buôn bán lớn nhất trong mọi thời đại nhưng chỉ được ba mươi đồng bạc là giá của một nô lệ vào thời đó! Khi giá cả đã thoả thuận, các thượng tế mang ba mươi đồng bạc và đặt vào tay Giu-đa. Tám trăm năm trước, Gia-ca-ri-a đã nói tiên tri: “Nếu các ông thấy là được thì trả công cho tôi; nếu không thì thôi. Và họ đã trả công cho tôi là ba mươi đồng bạc” (Dcr 11,12). Trong bữa tối vào ngày hôm sau, Chúa Giê-su tỏ ra buồn phiền: “Có người trong các con sắp phản Thầy” (Mt 26,21). Các môn đệ nhìn nhau và hỏi: “Có phải con không, Thưa Thầy?” Giu-đa cũng hỏi: Thưa Thầy, có phải con không? Chúa trả lời: “Con nói đúng đó!” Giu-đa đi ra, “lúc đó là đêm tối”… Bằng nụ hôn giả dối, Giu-đa chỉ điểm để quân lính bắt Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu (Lc 22,50). Giu-đa có quyền dự tiệc bê béo, nhưng lại chọn thờ lạy bò vàng. Chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy, lòng Giu-đa đầy hối hận (Mt 27,3). Tội ác vừa phạm xong, Giu-đa đã thấy chán chường. Hối hận tận đáy thâm sâu của tâm hồn, Giu-đa đem mối sầu ấy đi gởi chỗ không đáng gởi “Giu-đa ném các đồng bạc trả lại vào mặt các thượng tế và nói: Tôi đã phản bội, nộp máu người vô tội”. (Mt 27,4). Trước sự tráo trở của các thượng tế và kỳ lão: “Can chi đến chúng tôi, mặc kệ anh” (Mt 27,4), Giu-đa ném những đồng bạc đó vào Đền Thờ và ra đi xuống thung lũng Hin-nom, thung lũng đầy kỷ kiệm khủng khiếp của âm ty. Giu-đa bước đi trên đất lạnh cát sỏi, giữa những tảng đá nhọn sắc, những cây cối cong queo gầy guộc như tâm hồn trĩu nặng nỗi đớn đau. Giu-đa cởi dây lưng quăng một đầu dây vào vào một cành cây to, đầu dây kia quàng quanh cổ. Tiếng gió rì rào như thầm nhắc lời mà Giu-đa đã từng nghe: “Hỡi những ai khó nhọc gánh nặng, hãy đến cùng Ta, tâm hồn các con sẽ được bình an”. Than ôi! Giu-đa hối hận vì chính mình nên chọn cái chết để kết liễu lầm lạc. Mặt trời nghiêng bóng tối dần. Ở Si-on, từ hai phía đối diện, có hai cây đi vào lịch sử, một cây ở núi sọ: cây hy vọng, một cây ở Hinmon: cây thất vọng. Trên cây hy vọng, Đấng Chịu Đóng Đinh liên kết đất trời; trên cây thất vọng, người bị treo xa đất xa trời. Hối hận của Giu-đa không đúng nghĩa hối hận. Chán chường tội lỗi không đủ mà cần phải ăn năn thống hối nữa. Tỉnh ngộ và chán chường mới chỉ là bước đầu, cần phải sám hối trở về đón nhận ơn tha thứ, tìm lại sự sống.

3. Giới lãnh đạo Do-thái. Vì ghen ghét mà giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã chủ mưu trong vụ án giết Chúa Giê-su (Mt 27,18). Dân chúng mến phục ủng hộ, nhiều người tin vào Chúa Giê-su. Ảnh hưởng của Người ngày càng lớn trên dân chúng. Cuộc xung đột không những về quan niệm tôn giáo mà còn liên quan đến quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo nên họ quyết tâm giết Chúa Giê-su. Đạo Do-thái là đạo của đền thờ, đạo của lễ tế. Dịch vụ lễ tế là một dịch vụ quan trọng về phương diện tôn giáo và cả về kinh tế. Hàng tư tế sống nhờ vào lễ tế. Lễ tế của dân, dịch vụ cung cấp những phương tiện lễ tế như bán chiên bò cừu bồ câu hương hoa và cả dịch vụ đổi tiền. Gia đình các tư tế, con dâu con rễ của họ độc quyền khai thác dịch vụ này. Vậy mà Chúa Giê-su lại dám xua đuổi họ không cho buôn bán trong khuôn viên Đền Thờ. Người còn thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Theo Gio-an, lời thách thức quyền bính của Chúa Giê-su có ý ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người (Ga 2,21–22). Nhưng giới lãnh đạo hiểu là đền thờ Giê-ru-sa-lem nên họ coi là sự xúc phạm Đền Thờ. Thách thức phá huỷ Đền Thờ, dẹp bỏ những phương tiện của lễ tế, quả thật là tội không thể tha thứ. Vì thế mà họ căm thù và tìm cách giết Người cho bằng được. Những người Pha-ri-sêu sống trong thế giới tách biệt, không chấp nhận dân ngoại, loại trừ người tội lỗi, giữ luật cách máy móc nô lệ. Còn Chúa Giê-su thì sống hoà mình giữa những người tội lỗi, đồng hành, đồng bàn ăn uống với họ, đến với dân ngoại. Người phê bình sự giả hình của người Pha-ri-siêu. Người lại còn không giữ luật ngày Sa-bát, vì đối với Người “Ngày Sa-bát đựoc lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát” (Mt 2,27). Người còn xưng mình là Con Thiên Chúa (Mt 26,61; Mc 14,58). Trước bao nhiêu là “tội trạng” của Chúa Giê-su, Thượng Hội Đồng đã tuyên án. Nhưng họ không còn quyền lên án và xử tử bất cứ ai vì quyền đó thuộc quyền của toà án chính quyền bảo hộ. Vì thế họ phải nộp Chúa Giê-su cho Tổng Trấn Phi-la-tô. Theo Mác-cô và Mát-thêu thì Chúa Giê-su bị thẩm vấn về hai tội danh: một là Người đã xúc phạm đến Đền Thờ khi tuyên bố “Tôi sẽ phá huỷ Đền Thờ này, rồi nội trong ba ngày sẽ xây dựng lại” (Mt 26,61; Mc 14,58); hai là tự xưng mình là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa (Mt 26,63; Mc 14,61). Trong Tin Mừng theo Lu-ca chỉ thấy nói nói đến tội danh thứ hai (Lc 22,67). Trong Tin Mừng theo Gio-an nói tới việc thượng tế hỏi Chúa Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người (Ga 18,19). Họ tài tình khéo léo khi biến tội danh tôn giáo thành tội danh chính trị “Chúng tôi phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23,2). Tội xúi giục nổi loạn, tội ngăn cản dân nộp thuế cho nhà vua, tội xưng mình là vua. Cả ba tội đều đáng chết, không một chính quyền nào có thể dung tha. Vụ án Chúa Giê-su rõ ràng là vụ án tôn giáo chứ không phải là một vụ án chính trị, mặc dầu hình thức xử tử và tội danh được ghi trên đầu Chúa Giê-su là như thế. Người bị đóng đinh, theo luật Rô-ma và với tội danh là “Vua dân Do-thái” chứ không bị ném đá theo luật Do-thái và với tội danh Con Thiên Chúa. Chủ mưu trong vụ án là dân Do-thái, nhất là những người lãnh đạo của họ, Thượng Hội Đồng. Họ đã thành công, sung sướng mãn nguyện khi dẹp yên một chướng ngại lớn lao.

4. Tổng Trấn Phi-la-tô. Vì hèn nhát mà Phi-la-tô đã đổ máu người vô tội. Trách nhiệm chính trong cuộc xét xử đứng về mặt pháp lý là Phi-la-tô, ông ta ý thức rõ điều đó (x. Ga 19,10). Biết Chúa Giê-su vô tội mà vẫn kết án (x. Ga 18,38; 19,4.6). Kẻ đại diện cho công lý lại chà đạp công lý. Phi-la-tô hèn nhát không dám tha vì sợ quần chúng đang cuồng nộ. Lo sợ nguy hiểm cho chức quyền của mình nên chủ trương thà bảo vệ chức quyền hơn bảo vệ công lý. Trước áp lực ghê ghớm của đám đông đang bị hàng tư tế xách động, Phi-la-tô đã chiều theo ý họ để giữ lấy cái ghế Tổng Trấn của mình. Ong đã kết án tử hình cho Chúa Giê-su, trao Người cho dân Do thái điệu lên đồi Gôngôtha để đóng đinh. Phi-la-tô rữa tay phân bua mình vô tội trong vụ án này (Mt 27,24).

5. Xin được sống yêu thương. Suy nghĩ về vài nhân vật, ít sự kiện trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, cũng đủ thấy con người hay thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay. Vì tham lam, vì bổng lộc cá nhân, vì lợi lộc đảng phái, vì quyền lợi giai cấp, con người ta không từ một thủ đoạn nào. Có khi còn bán rẻ lương tri để mua một chút vinh hoa trần thế. Giữa Chúa Nhật Lễ Lá và Thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của người tín hữu. Hôm nay hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế. Có thể ngày mai gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh nó vào thập giá. Hôm nay yêu thương, ngày mai oán ghét. Hôm nay hân hoan, ngày mai buồn sầu. Hôm nay hiền hòa, ngày mai hung dữ. Hôm nay tin tưởng, ngày mai hoài nghi. Danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài.

Cuộc sống có nhiều tiêu cực hơn tích cực? Con người làm khổ nhau nhiều hơn là làm đẹp lòng nhau? Người ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương? Tôn vinh Chúa ở trong Nhà Thờ nhưng có sống Tin Mừng trong cuộc đời không? Chúa Giê-su bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án cách bất công để cứu nhân loại khỏi án phạt đời đời. Người đã chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội, để cứu độ con người. Người cho chúng ta được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, cho chúng ta “được sống dồi dào”. Con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và để yêu nhau. Thiên Chúa là tình yêu nên đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giê-su đã chấp nhận đau thương để đem lại yêu thương cho con người. Người đã biến đổi viên mãn của đau thương thành viên mãn của yêu thương qua cuộc khổ nạn (x. 1 Cr 15,26.54; Dt 2,14), để từ trong cái chết vì tình yêu, sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới (Ga 12,24).

Xin Chúa cho chúng con luôn sống yêu thương, biết đem Tin Mừng bình an đi xây dựng cuộc đời, cùng thắp lên ánh sáng công lý và sự thật giữa cuộc đời hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

60. Những ngã rẽ nguy hiểm

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Đức Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.

Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.

Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế?

Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt suy tư về ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông.

1. Ngã rẽ của đám đông.

Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.

Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!

2. Ngã rẽ của Giuđa

Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.

Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.

3. Ngã rẽ của Phêrô.

Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.

Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá… vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: “Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.

Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện những ngã rẽ nguy hiểm của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công… như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.

Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ.

Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.

 

 

 

 

 

61. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

 

Trong đời linh mục, nhiều lần chúng tôi được chứng kiến người ta chết. Hoặc chúng tôi cũng được nghe người trong gia đình nói về người thân của họ chết như thế nào. Thí dụ: Thưa cha, cám ơn Chúa, mẹ con đã ra đi rất êm ả, bà chết thật là thánh thiện. Hoặc: Bố con khi còn sống chỉ ước ao được chết vào ngày Thứ Sáu đầu tháng, vì ông cụ rất có lòng kính mến Trái Tim Chúa Giêsu, và Chúa đã thương nhận lời… Thực tại cái chết là một chuyện, nhưng tư thái của người ta lúc hấp hối và chết là chuyện khác và nhiều khi thật quan trọng và nói lên con người đó là ai, như thế nào.

Với bài Thương khó trích sách Tin Mừng Mác-cô, chúng ta có một nhân chứng hết sức đặc biệt đã chứng kiến giờ hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá và đã phát biểu niềm tin của ông về Chúa Giêsu. Nhân chứng đó chính là viên sĩ quan Rôma, người có trách nhiệm việc thi hành án tử hình, đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Ông ta là người có nhiệm vụ xác nhận Chúa Giêsu đã thực sự chết rồi hay là chưa, cho nên ông càng phải quan sát kỹ lưỡng hơn ai hết. Thánh Mác-cô đã ghi lại một câu nói về ông ta như sau: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).

Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, đó là mục đích của sách Tin Mừng Mác-cô. Khi viết sách Tin Mừng, thánh Mác-cô mở đầu với tựa đề: Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, rồi kết thúc với lời tuyên xưng của viên sỹ quan Rôma đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa. Viết như thế, thánh Mác-cô muốn trình bày và mời gọi chúng ta hãy đi vào một cuộc hành trình đức tin. Vậy hành trình đức tin ấy như thế nào? Hành trình ấy bắt đầu từ một khẳng định thuộc phạm vi hiểu biết, nói với chúng ta rằng: Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Tiếp theo, hành trình đó đưa chúng ta đi theo Chúa Giêsu trên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, nhìn những việc Người làm, nghe những lời Người giảng dạy, theo Người lên Giê-ru-sa-lem để thấy Người luôn tuân phục Chúa Cha và sẵn sàng chấp nhận cuộc Khổ nạn, và cuối cùng đứng dưới chân thập giá để cùng với viên sĩ quan Rôma tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Ở đây, lời tuyên xưng là một niềm tin phát xuất từ trái tim con người. Không còn là một khẳng định thuộc phạm vi lý trí và hiểu biết nữa, nhưng là một sự tiếp nhận, một tâm tình hay một xác tín của con tim chúng ta. Không còn là “tôi biết, tôi hiểu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa” nữa, nhưng là chính tâm tình của chúng ta, phải giống như tâm tình của tông đồ Tô-ma khi ngài tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!”

Vậy viên đại đội trưởng người Rôma đã nhận ra điều gì khác lạ nơi kẻ tử tội Giêsu, không giống như những kẻ tử tội khác? Sách Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thể hình dung ra được. Bình thường những tử tội quen với tính hung dữ hoặc bất mãn của mình, hay chửi rủa oán hận người khác hoặc những kẻ hành quyết mình, bằng lời nói tục tằn cay đắng hoặc cử chỉ bất nhã. Nhưng tất cả những gì viên sĩ quan Rôma quan sát được nơi Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác. Không hề nghe một lời oán trách hay làm mích lòng, mà trái lại chỉ có những lời tha thứ kẻ thù, tha thứ những kẻ chế giễu mình, khích lệ người trộm lành, ân cần lo lắng cho mẹ già, cho người môn đệ dấu yêu, và nhất là những lời kinh tha thiết thưa cùng Thiên Chúa Cha. Nếu có thì giờ, chúng ta hãy lần rở những dòng Kinh Thánh ghi lại các lời vàng ngọc của Chúa Giêsu trong giây phút cuối đời, để tìm thấy qua đó hình ảnh đích thực của Đấng “đã cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình” (15:31). Rồi viên sĩ quan Rôma không thấy nơi Chúa Giêsu một ánh mắt thù hằn, mà chỉ thấy đôi mắt hiền từ sáng ngời bên những giọt máu, trào dâng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chúng ta cũng tin rằng chính ánh mắt tha thứ và mời gọi của Chúa Giêsu đã hoán cải tâm hồn chai đá của một chiến sĩ Rôma và biến ông thành người môn đệ của Chúa trong tương lai.

Bước vào Tuần Thánh, qua bài Tin Mừng, Phụng vụ Lời Chúa muốn cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, để chúng ta sẽ dần dần đi vào từng suy niệm sâu xa hơn mà cảm nghiệm được tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên trong chính cuộc sống hằng ngày, chúng ta là Kitô hữu được mời gọi hãy tháp nhập những đau khổ của chúng ta vào cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, để nhờ đó chúng ta khám phá được ý nghĩa của đau khổ mình đang chịu. Chúa muốn chúng ta đi theo con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi qua. Chúa muốn rằng qua tư thái hoặc cách thức chúng ta chịu đau khổ, người khác có thể nhận ra những khác biệt nơi người Kitô hữu, nghĩa là không phàn nàn oán trách, nhưng tin tưởng phó thác trong tay Chúa, không cay đắng muốn chối bỏ, nhưng coi thánh giá là một vinh dự lớn lao. Chính trên thập giá và trong cái chết của mình, Chúa Giêsu đã được nhận biết là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Cũng thế, nếu Kitô hữu chúng ta thể hiện được những tâm tình tha thứ, cầu nguyện, yêu thương của Chúa Giêsu trên thập giá khi chúng ta chịu đau khổ, thì chắc chắn chúng ta có thể làm cho những người chung quanh chúng ta nhận ra chúng ta là ai. “Quả thực, người này là con Thiên Chúa.” Mong được như vậy.

 

 

 

 

 

62. Vâng lời cách sáng suốt và tự nhiên.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Việc phối trí những đoạn ký sự khác nhau trong bốn bộ Phúc Âm nêu ra những vấn đề không thể đề cập ở đây. Các thánh chép sử trước hết không chú ý viết tiểu sử Đức Giêsu và thuật lại theo lối viết sử biến cố đã xảy ra ở Pa-lét-xti-na. Các ông chỉ muốn là những nhân chứng. Các ông làm chứng cho lòng tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại, Đấng Cứu Tinh. Những sự kiện do các ông thuật lại cho dù có chính xác đến đâu, bố cục hợp lý đến đâu, điều đó đối với các ông không quan trọng lắm. Vì thế, tuy cùng đặt cơ sở trên 1 nền chung không thể chối cãi, mỗi thiên ký sự lại mang những mầu sắc khác nhau cho thấy vẻ độc đáo trong cung điệu mỗi thánh chép sử làm chứng cho niềm tin của mình. Chúng ta cần nhớ thế khi muốn so sánh những ký sự nói về cuộc Thương Khó.

Đoạn văn suy niệm hôm nay cho thấy những nét nổi bật sau:

1) Ngay phần đầu, thánh Maccô thuật lại mấy sự kiện cốt nhấn mạnh vào sự vâng lời cách tự nguyện và sáng suốt của Chúa Giêsu dấn thân vào cuộc Khổ nạn của Người.

Chúa biết Chúa đi về đâu. Chúa nói ra điều đó trong dịp người phụ nữ đập vỡ bình bạch ngọc và đổ dầu thơm trong bình lên đầu Người. Trước khi xảy ra, bà đã lấy thuốc thơm ướp xác Ta, chờ khi liệm táng. Chúa biết rằng ngày hôm sau Chúa sẽ chết.

Sự quyết tâm của Chúa không phải là việc dễ làm. Vâng lời Cha là tự chinh phục bản thân. Chúa trải qua một cơn hấp hối trong vườn Ghetsêmani, cuối cơn khắc khoải Người nói một lời ngắn và dứt khoát: Thế là xong, có nghĩa là Người đã quyết rồi, giao kết xong rồi, ưng thuận rồi.

Chúa lưu ý những kẻ đến bắt Chúa rằng nếu Người muốn, Người có thể vô hiệu hóa bọn chúng những đã từng làm trong bao lần giảng dạy ở Đền thờ và những nơi khác. Chúa nhấn mạnh, Người để chúng bắt giữ chỉ vì Người đã làm theo ý Thiên Chúa như loan báo trong Kinh Thánh. Đoạn Phúc Âm tiếp đó đưa ra những ví dụ khác được thánh Maccô nêu lên và làm chứng, đó là sự vâng lời tự nguyện của Chúa.

2) Thánh chép sử lưu ý chúng ta đến sự cô đơn của Chúa Giêsu. Người bị cô lập, bị tách rời dân chúng. Mấy ngày trước đây, chính dân đó đã hoan hô Người. Những thầy tư tế và ký lục chuẫn bị chọn giờ hành động và sắp đặt thời gian để vận động quần chúng. Quần chúng dễ thay lòng đổi ý (cái gọi là “dư luận” được uốn nắn do những nhà kỹ thuật về khoa điều khiển dân ý, dân tình). Dân chúng đã bỏ Chúa.

Trong cơn hấp hối, Chúa cô đơn. Hơn ai hết, Chúa biết rõ các môn đệ Người là những kẻ bất lực chẳng thể đem đến một sự giúp đỡ nào cho Người, nhưng dù sao nếu có họ lúc đó thì cũng là một niềm an ủi. Thế mà họ ngủ.

Chúa chỉ có một mình trong khi dấn thân. Lúc Chúa dấn thân bằng cách nộp mình cho toán quân dữ đến bắt Người, các môn đệ có 1 dịp hành động theo lời cam kết của Phêrô mà tất cả các ông đã tán đồng: Dù có phải chết vì Thầy, con sẽ chẳng bỏ Thầy. Ấy vậy mà, theo thánh Maccô ghi lại, họ bỏ Chúa, tất cả trốn hết.

Chúa một mình giữa pháp đình. Không một ai dám tới làm chứng gỡ tội cho Người. Chúa Giêsu đã muốn biết thế nào là nỗi chua xót đắng cay của tình bạn khi mà 1 người “bạn” vì sợ hay vì tư lợi không muốn bị liên can, không muốn bị “dính”, để bỏ rơi Người mà lẽ ra y phải cứu giúp.

Chúa một mình trên thập giá. Cả những kẻ trộm cướp cũng thóa mạ Chúa (tuy rằng sau đó một kẻ trong bọn này sẽ ăn năn trở lại). Một nỗi cô đơn tột bực: Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa bỏ con?

Sự vâng lời tự nguyện của Chúa, một sự vâng lời thuần khiết và cô đơn, có lẽ đấy là phương thế Chúa Giêsu dùng để sống cách thấm thía tấn bi kịch của số mệnh chúng ta.

 

 

 

 

 

63. Con đường vinh quang và thập giá – Lm Đan Vinh.

 

Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá: Phụng vụ hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen vào nhau: Trong phần đầu lễ chúng ta cùng nhau rước Chúa Giêsu khải hòan vào thành Giêrusalem (x Mc 11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47). Từ đó chúng ta cùng rút ra bài học sống đức tin thế nào trong những hòan cảnh vui buồn trong cuộc sống.

1. Con đường khải hoàn vào thành Giêrusalem:

Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh tượng Đức Giêsu đang long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Người ta tung hô Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Vua thuộc dòng dõi Đavid, là Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Đức Giêsu im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng nghiệm lời tuyên sấm: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của người đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Dcr 9,9).

2. Con đường thập giá: qua đau khổ vào vinh quang:

Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt này, chúng ta được nghe bài thương khó: Chúa Giêsu hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, hầu mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua Mục Tử: “Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý Chúa Cha là “qua đau khổ vào trong vinh quang”, qua cuộc Tử Nạn để bước vào mầu nhiệm Phục Sinh.

3. Con đường sống đức tin hôm nay:

Từ hai biến cố trên, mỗi chúng ta phải sống đức tin thế nào trong cuộc sống đời thường?:

– Không ai vô tội: Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của hoạ sĩ Rembrandt thế kỷ 17, là bức họa “Ba Cây Thập Tự”. Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu hút nhìn vào trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ bất lương, thập giá của Đức Giêsu vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá của Chúa là cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán hận, trong đó có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả bức tranh … Qua đó ông muốn nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào tội đã đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá.

– Phải luôn tự kiểm: Mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm: Nếu có mặt trong thời điểm xảy ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm đó, tôi có vác đỡ thập giá cho Chúa như ông Simon Kyrênê đã làm không? Có biểu lộ đức tin và lòng sám hối như người trộm lành trên cây thập giá không? Có can đảm đứng dưới chân thập giá để nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa như Mẹ Maria và môn đệ Gioan… hay không? Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng mình sẽ không chối Thầy như Phêrô, hoặc không hèn nhát trốn chạy như các môn đệ, hay không bán Thầy như Giuđa, hoặc không kết án bất công như Philatô, không hùa theo kẻ mạnh để đàn áp bắt nạt người tấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng, không đánh đòn và đóng đinh tay chân Chúa Giêsu vào thập giá như bọn lính hung ác…

– Điều kiện theo Chúa: Đã hơn 2000 năm qua đi, tất cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi người chúng ta cũng được Đức Giêsu mời theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Vác thập giá hôm nay chính là đ1on nhận những sự thử thách như bệnh tật, thất bại gặp phải, những lời nói nhục mạ bất công… Đó là những thập giá do Chúa cho xảy đến để thử thách đức tin của ta và khích lệ ta theo Chúa đến cùng

– Làm gì trong cuộc sống hôm nay?: Trong tuần Thánh, chúng ta hãy năng tham dự các lễ nghi Tuần Thánh tại Nhà thờ để có dịp chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hầu gia tăng lòng tin yêu để luôn chọn đi theo con đường của Chúa: Con đường hẹp và leo dốc, con đường khiêm nhu dấn thân và phục vụ tha nhân. Con đường này sẽ dẫn chúng ta về tới thành thánh Giêrusalem trên trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết luôn tin cậy bước đi theo Chúa, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan và ngàn lần quảng đại hơn con. Xin cho con luôn dấn thân theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, can đảm lướt thắng những yếu đuối, và biết phó thác trọn vẹn vào tình thương của Chúa. Ước gì khi gặp phải những đau khổ thử thách, chúng con sẽ cảm nghiệm được tình Chúa thương con và trung thành bước theo con đường của Chúa đến cùng.- Amen.

 

 

 

 

 

64. Baraba và Đức Giêsu.

(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc.

 – Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Tin Mừng (Mc 14: 1; 15: 1-39): Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm.

Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là “Baraba”. Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.

Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.

Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.

Thưa anh chị em,

Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.

Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.

Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.

Anh chị em thân mến,

Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”

Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.

Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.

Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.

Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.

 

 

 

 

 

65. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền

 

Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.

Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.

Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.

Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.

Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

 

 

 

 

66. Suy niệm của Noel Quesson.

CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU

 

Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của những người cùng thời với họa sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra chính là họa sĩ. Người ta hỏi họa sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.

Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.

Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.

Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng, vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: “Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!”.

Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước tòa đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng. Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà xét xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên thập giá, ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ