Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 77

Tổng truy cập: 1364596

TINH THẦN NGHÈO KHÓ

Tinh thần nghèo khó

Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta? Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp: Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này? Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói: Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.

Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.

Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.

Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.

Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.

 

42. Sứ mệnh hòa bình – An Hạ

Điều quan trọng nhất trên đời này là cái gì? Chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời vừa lòng mọi người. Tùy cái nhìn, mỗi người sẽ có câu trả lời khác nhau. Câu trả lời sẽ xác định tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời.

ĐIỀU QUAN TRỌNG

Thánh Phaolô đã đưa ra câu trả lời chính xác nhất: “Điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6:15) trong Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là, nhờ cái chết và phục sinh, Đức Kitô đã trở thành Ađam mới để biến cải toàn thể tạo vật tự bên trong. Vạn vật sẽ sống trong trời mới đất mới, tràn ngập “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17)

Đó là lý tưởng phải đạt tới ngay trên mặt đất này. Quả thực, chính để xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian, Đức Giêsu mới sai các môn đệ “như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10:3) với một sứ mệnh duy nhất là loan báo cho muôn dân biết “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” (Lc 10:9.11) Dù phải thực hiện sứ mệnh cao cả và vô cùng khẩn thiết đó giữa bầy sói, người môn đệ không bao giờ được phép chối bỏ bản chất “chiên con” của mình. Đánh mất bản chất hiền lành, họ không thể thực hiện sứ mệnh hòa bình giữa muôn dân. Làm sao có thể sống và thể hiện sứ mệnh đó giữa một thế hệ sa đọa gian tà này? Đức Giêsu đã hứa: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.” (Lc 10:19) Nếu tin, người môn đệ sẽ thấy tất cả sức mạnh Tin mừng.

Để thi hành sứ mệnh hòa bình, trước tiên người môn đệ phải sống và thể hiện sứ mệnh đó ngay trong cuộc sống. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu “sai các ông cứ từng hai người một.” (Lc 10:1) Theo đường hướng đó, các môn đệ dễ hỗ trợ nhau và làm cho chứng từ của họ có tính cách xác thực (Đnl 19:15) Ngay từ đầu Giáo hội đã có một cặp truyền giáo nổi tiếng là thánh Phaolô và Banaba (x. Cv 13). Các ngài đã thành công vì suốt đời không ngừng đeo đuổi sứ mệnh hòa giải và hòa bình giữa muôn dân.

Còn biểu tượng nào diễn tả cảnh hòa bình cho bằng cảnh chiên con nằm chung với chó sói (x. Is 11:6; 65:25). Đó là hình ảnh tuyệt vời đến siêu thực. Đó cũng là sứ mệnh hòa giải khó khăn nhất người môn đệ phải thực hiện trên bước đường truyền giáo. Dĩ nhiên đứng trước sói dữ, chiên con hoàn toàn bất lực. Cũng thế, vì thiếu phương tiện tự vệ, các nhà truyền giáo cũng không thể đối đầu với kẻ thù. Đức Giêsu đã biết trước tất cả những nguy hiểm đó. Chính Người cũng đã phải đối mặt với khổ đau và cái chết. Người môn đệ cũng phải chia sẻ cùng một thân phận. Nhưng khổ đau và cái chết không phải là dấu chỉ của sự bất lực hay thất bại. Trái lại, đó là một niềm vinh dự lớn lao như thánh Phaolô nói: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.” (Gl 6:14)

Người mạnh mẽ bảo đảm với các môn đệ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên mọi thế lực Kẻ Thù.” (Lc 10:19) Các môn đệ chia sẻ cùng một quyền bính với Thầy. Quyền năng ấy phát sinh từ ánh sáng Phục sinh. Thực thế, “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18) Các quyền lực ác thần đã bị tấn công và thảm bại nơi sứ vụ của Đức Giêsu và Giáo hội. Trong Công vụ Tông đồ, thánh Luca thường kể lại cách thức Chúa Giêsu đã cứu các nhà truyền giáo thoát khỏi những lực lượng tiêu hủy (ví dụ 28:1-6) Những lực lượng đó là tất cả các loại ác thần, biểu tượng qua các hình ảnh rắn rết và bọ cạp (x. The New Jerome Biblical Commentary 1990:701).

Chiến thắng các lực lượng đó không phải là nguyên nhân làm cho các môn đệ hăm hở trên bước đường chinh phục thế giới cho Đức Kitô. Nguyên nhân chính là ân huệ lớn lao Chúa dành cho trên trời. Nơi đó họ hoàn toàn trở thành thụ tạo mới với tất cả niềm vui lớn lao phát sinh từ lòng Chúa xót thương. Từ đó họ mới thấy tất cả ý nghĩa và giá trị của một cuộc sống bình an và ân sủng trên quê trời. Họ trở thành công dân Nước Trời.

PHÚC ÂM HÓA

Nhưng để đạt mục tiêu đó, ngay từ bay giờ người môn đệ Đức Kitô phải nhận định rõ thực tại cuộc sống và nỗ lực phúc âm hóa môi trường theo đúng sứ mệnh Chúa đã trao. Xã hội Hoa kỳ đang đối mặt với thách đố phải phúc âm hóa “một xã hội ngày càng lâm nguy vì quên mất nguồn gốc linh thiêng của mình.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Trong mọi cơ cấu và sinh hoạt đều đang bị trần tục hóa.

Trước tình trạng đó, người môn đệ Đức Kitô phải làm gì? Trước hết, họ phải biết đây là “giờ hành động của giáo dân.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Giáo dân không còn phải là thành phần thụ động, nhưng phải tích cực hoạt động cho việc phúc âm hóa môi trường. Họ hiện diện khắp nơi. Sự hiện diện đó phải có một ý nghĩa và chiều kích mới. Chiều kích đó bắt đầu từ việc “chấp nhận thách đố. Điều đó đòi phải có một sự hiểu biết sâu rộng và thực tiễn về những dấu chỉ thời đại để triển khai việc trình bày đức tin Công giáo sao cho thuyết phục được người nghe.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Dĩ nhiên không tùy thuộc vào khoa hùng biện cho bằng một đời sống gắn liền với đức tin. Trái lại Giáo Hội Hoa Kỳ “được kêu gọi đáp ứng những nhu cầu và khát vọng tôn giáo của một xã hội ngày càng có nguy cơ lãng quên những nguồn gốc linh thiêng của mình và khuất phục trước một thế giới quan hoàn toàn duy vật và vô hồn.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)

Muốn hoàn thành sứ mệnh cao cả giữa một xã hội như thế, người Kitô hữu phải bắt đầu từ đâu? Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến nhu cầu “chuẩn bị cho giới trẻ đặc biệt biết đối thoại với những người đồng thời về sứ điệp Kitô và sự thích hợp của sứ điệp ấy trong việc xây dựng một thế giới công bình, nhân bản và hòabình hơn. Trên hết, bây giờ là thời điểm giáo dân được kêu gọi thi hành sứ mệnh ngôn sứ của Giáo hội mà phúc âm hóa các lãnh vực khác nhau trong đời sống gia đình, xã hội, nghề nghiệp và văn hóa, vì họ được kêu gọi uốn nắn thế gian theo Tin mừng.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)

Công cuộc lớn lao đó không thể thực hiện nếu chỉ nhắm vào cá nhân. Trái lại, “với hệ thống các cơ quan giáo dục và bác ái vĩ đại, Giáo hội Hoa Kỳ đứng trước thách đố phải phúc âm hóa văn hóa để có thể lấy ra?những thứ mới cũ? từ kho tàng khôn ngoan của Tin mừng.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)

Sống trong xã hội Hoa kỳ, người Công giáo Việt Nam không thể không quan tâm đến những vấn đề lớn lao đó. Từ niềm tin đặc thù của mình, liệu chúng ta có thể góp phần cho Giáo hội tại đây vượt qua những thách đố của thời đại hôm nay hay không? Chắc chắn tự bản chất linh thiêng của nền văn hóa Việt Nam, nếp sống đạo của chúng ta sẽ làm sống lại những gì đã mất trong xã hội Hoa kỳ hôm nay.

 

43. Những người được sai đi

(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)

Một cộng đoàn có nhiều thành phần

Đoạn Tin Mừng của thánh Luca cho độc giả cái nhìn tổng quát về cách thức Đức Giêsu quan niệm và tổ chức hoạt động của Người.

Đức Giêsu đã chọn mười hai Tông Đồ: đó là một kế hoạch. Đối với người Do-thái, việc quy tụ mười hai chi tộc Ít-ra-en là sự kiện đánh dấu triều đại Thiên Chúa đã khởi đầu. Nhóm Mười Hai chính là hình ảnh tượng trưng cho việc quy tụ này.

Ngoài Nhóm Mười Hai, còn có những người thường xuyên đi theo Đức Giêsu trong các cuộc hành trình. Họ đã từ bỏ gia đình và mọi sự để đi theo Người. Họ là những người phục vụ dân Ít-ra-en mới đang được sinh ra.

Lại có những người ở một chỗ. Họ cũng là những người gắn bó với Đức Giêsu, nhưng Người không đòi hỏi họ phải giữ những điều kiện như những người thuộc các nhóm trên. Những người này tạo nên một nền tảng bền vững, những người đón tiếp và trợ giúp các Tông Đồ về phương diện vật chất. Họ là những nhóm nhỏ cư ngụ tại các làng mạc hay tại các thành phố. Họ là những người nhiệt thành và sẵn sàng đáp ứng khi cần.

Vậy, trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu biết rằng giờ quyết định đã điểm, nên Người đẩy tiến độ công việc đi nhanh hơn: mùa gặt đã đến! Ông chủ đưa ra hiệu lệnh thu gom. Công việc lúc này của Đức Giêsu không phải là nhằm thuyết phục những người từ chối lời mời gọi của Tin Mừng. Trong nhãn quan của Đức Giêsu, Ít-ra-en mới sẽ nên hấp dẫn trước hết nhờ chứng tá. Đàng khác, Ít-ra-en mới không chỉ thu họp những con chiên lạc mà sau này sẽ nhận ra vị chủ chăn đích thực, nhưng Ít-ra-en mới này còn xuất hiện như một ngọn đuốc giữa thế giới, làm cho dân ngoại phải ngỡ ngàng thán phục.

Như thế, các môn đệ của Đức Giêsu có nhiệm vụ đi loan báo và bày tỏ sự sinh ra của thế giới mới. Vương quốc của Xa-tan bị sụp đổ và vương quốc của Thiên Chúa được sinh ra. Vương quốc này đem lại bình an, như lời Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ trước khi sai các ông đi.

Cộng đoàn được sai đi

Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai là những người gắn bó chặt chẽ với Người. Các ông là những người được Đức Giêsu huấn luyện cách đặc biệt, và cũng là những người thường xuyên trao đổi với Đức Giêsu. Theo Tin Mừng Mát-thêu, các ông là những người được Đức Giêsu kêu gọi, được Người ban cho quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 10,1).

Mười hai Tông Đồ vì có mười hai chi tộc Ít-ra-en. Con số này là biểu tượng thích hợp cho thấy rằng cách hành động của Đức Giêsu vẫn nằm trong đường hướng vốn có của Thánh Kinh: một nhóm nhỏ những người tin, được Thần Khí tuyển chọn và soi sáng. Cộng đoàn ấy là những người đem Tin Mừng cho toàn thế giới. Cộng đoàn ấy sẽ bất trung nếu chỉ dành riêng cho mình, nếu chỉ nghĩ đến mình. Ngược lại, cộng đoàn ấy sẽ trung tín một khi phát triển thêm mãi, đến vô tận. “Cho đến tận cùng cõi đất.”

Vậy, nhiều lần trong Tin Mừng, người ta thấy cộng đoàn Tông Đồ đã phát triển vượt trên số mười hai. Ở đây là “bảy mươi hai người khác.” Những con người này phải có những phẩm chất nào? Chắc chắn các ông là những người “đã thấy và đã nghe”, đã cảm thấy bị thôi thúc từ bên trong do sứ điệp của Đức Giêsu gợi lên. Chính sự thúc đẩy này là một lệnh truyền sai đi, một thư ủy nhiệm “Hãy đi nói…”

Như vậy, sự hiểu biết về Đức Giêsu càng tăng thêm thì cộng đoàn các môn đệ càng mở rộng thêm, thì mười hai trở thành bảy mươi hai… và mười hai lần bảy mươi hai. Trong cộng đoàn này, mọi thành viên đều có trách nhiệm làm cho cộng đoàn thêm mở rộng nhờ sự hiểu biết sâu xa hơn về Đức Giêsu. Như mười hai chi tộc của Ít-ra-en, cộng đoàn ấy trở thành như một hạt giống được gieo vào lòng đất. Hạt giống ấy tiềm ẩn một sức mạnh và sẽ mọc lên, vươn thành một cây rất lớn.

Từ cộng đoàn này, các ông được sai đi, hai người một. Điều này cho thấy Tin Mừng chỉ xuất hiện thực sự nhờ lời chứng của nhiều người. Đó là lời loan báo của một Hội Thánh thu nhỏ. Và nhóm hai người đó không giữ nguyên tình trạng này. Sẽ có thêm người thứ ba, tức là những người sẽ nghe và sẽ tin. Sau đó, đến lượt họ lại trở thành bạn hữu, trở thành môn đệ.

Các môn đệ được sai đi để làm gì? Không phải để thâu nạp thêm hội viên nhằm củng cố sức mạnh của cộng đoàn nhờ số đông. Các ông được sai đi để loan báo: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần.” Các môn đệ do Đức Giêsu sai đi có sứ mạng rõ rệt là loan báo rằng con người hoàn toàn không thể hiểu được nếu không có Thiên Chúa, con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, và điều tốt đẹp nhất họ vẫn khao khát nay đã có trong Tin Mừng Đức Giêsu. Họ không còn phải chờ đợi một người nào nữa.

Trong Đức Giêsu, nhân loại đã có những lời đem lại sự sống vượt trên sự chết.

Cùng với lời cầu nguyện

Yếu tố vững bền nhất của Kitô giáo là lệnh truyền không bao giờ được ngừng lại, phải luôn tiến về phía trước. Hội Thánh vẫn còn là một phần nhân loại trong đó Đức Kitô bắt đầu tìm kiếm khuôn mặt đích thực của Người: vẫn còn những người khác đang ở bên ngoài, Hội Thánh có sứ mạng đưa họ về gia nhập.

Mục đích của sứ vụ tông đồ không chỉ là tìm kiếm thành công, nhưng là chuẩn bị giúp con người gặp gỡ với Đức Kitô. Chúng ta là những người truyền giáo, chúng ta có nhiệm vụ dọn đường. Nếu chúng ta có chịu vất vả, đó chính là vì Đức Kitô, chính Người thôi thúc chúng ta tiếp đón người khác, và cũng chính Người là Đấng mà chúng ta phải bày tỏ. Thiên Chúa cần đến chúng ta, nhưng chính Người điều hành.

Như thế, chúng ta hiểu được mối liên hệ thâm sâu giữa lời cầu nguyện và hoạt động tông đồ. Cầu nguyện, đó là xin Thiên Chúa thi thố quyền lực vô cùng lớn lao cho chúng ta là những tín hữu (x. Ep 1,19), đó là đưa mũi khoan vào tầng sâu của nhân loại để làm vọt lên nguồn nước là chính Đức Kitô.

* * *

Thật là điên rồ

khi hy vọng con người lắng nghe nhau;

thật là uổng công vô ích

khi phàn nàn than van;

thật là đáng xấu hổ

khi kêu la gào thét.

Lạy Thiên Chúa,

xin cho con

khám phá thấy sự êm dịu của việc cầu nguyện.

(theo Pierre-Henri Simon)

 

44. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

HÃNH DIỆN VÌ THẬP GIÁ ĐỨC GIÊSU KITÔ

Sứ mạng của Kitô hữu hôm nay là rao giảng Đức Yêsu bị đóng đinh thập giá đã phục sinh, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, người ta sẽ biết được Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Thập giá trở thành biểu tượng của Đấng chịu đóng đinh, và rao giảng về thập giá là rao giảng về tình yêu nhập thể.

Khám phá kho tàng qua thập giá Đức Yêsu

Một đời vất vả lam lũ rao giảng Tin Mừng, công trạng của Phaolô rất to lớn, nhưng Phaolô nói: “ước gì tôi không hãnh diện về điều gì khác ngoài thập giá Đức Yêsu, Chúa tôi”. Với người đánh giá mọi sự theo giá trị phàm trần, thập giá chỉ là một cây gỗ, có gì mà hãnh diện? Cái chết ô nhục trần trụi trên thập giá, có gì đáng tự hào? Phaolô hãnh diện vì thập giá, không phải vì đó là một cây gỗ, nhưng Ngài hãnh diện vì Con Người đã chết trên thập giá, Đức Yêsu- Đấng yêu thương con người đến chấp nhận cái “chết treo thập giá trần trụi ô nhục”.

“Đức Yêsu chết treo thập giá”, dạy Phaolô và con người của mọi thời đại rất nhiều bài học. Ai sống trên đời mà không ham sống lâu, không ham giầu sang, không ham được trọng vọng? Có nhiều người khi bị nghèo, không được trọng vọng, không quyền cao chức trọng, thì than thân trách phận, làm như thể cuộc đời họ không còn ý nghĩa gì nữa. Cái hiểu biết sai lầm này, làm chính đương sự không hạnh phúc, và cũng làm những người thân cũng như những người sống với họ, bị ảnh hưởng. Có biết bao gia đình tan hoang vì một trong hai vợ chồng đã có quan niệm sai lạc như vậy.

Hãnh diện vì thập giá Đức Yêsu, là hãnh diện vì mình chỉ là người trần nhưng được Thiên Chúa yêu thương vô cùng, vì Thiên Chúa nhập thể đã yêu con người đến chết trên thập giá. Con người đối với Thiên Chúa thật đáng quý biết bao. Nếu chính Thiên Chúa còn quý trọng con người đến độ chết cho con người, nghĩa là con người có giá trị thực sự trước Thiên Chúa, thì con người cũng phải biết yêu thương kính trọng nhau. Thập giá Đức Yêsu, là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Hãnh diện vì thập giá, là hãnh diện vì mình được yêu, là hãnh diện vì mình nhận thức được chân lý, biết được giá trị đích thực của cuộc đời.

Rao giảng Nước Thiên Chúa trong mọi tình huống

Đức Yêsu đã sai gởi không chỉ nhóm 12, nhưng Ngài còn sai 72 môn đệ đi rao giảng về Nước Thiên Chúa nữa. Sứ điệp rao giảng là “Nước Thiên Chúa đến gần”. Qua cái chết và sống lại của Đức Yêsu, “nước Thiên Chúa” đã đến và đang đến.

Đâu là cách hành xử của người ra đi rao giảng Tin Mừng? Không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép; không chào hỏi ai dọc đường! Người rao giảng Tin Mừng, chẳng có gì đáng giá ngoại trừ chính sứ điệp rao giảng. Người rao giảng Tin Mừng, chỉ lo lắng sao cho Tin Mừng được loan báo, và không bận tâm về những điều không cần thiết như lương thực, quần áo, giầy dép. Những việc chào hỏi dọc đường có thể làm người có sứ mạng quên mất công việc chính yếu của họ. Việc rao giảng Tin Mừng, quan trọng và khẩn thiết hơn tất cả những việc xã giao, chào hỏi. Những gì ngăn trở cho việc rao giảng, phải được bỏ đi.

Với những người được rao giảng, phải như thế nào? Với những người tiếp đón các ngài, các ngài chúc bình an và loan báo cho họ biết “Nước Thiên Chúa đến gần”; với những người không tiếp đón các ngài, các ngài giũ cả bụi chân lại nhưng vẫn loan báo “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Môn đệ của Đức Yêsu rao giảng tin mừng Nước Trời trong mọi trường hợp, lúc thuận lợi cũng như những lúc bất thuận lợi, lúc được đón nhận cũng như lúc bị từ chối.

“Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình an…”. Bình an hệ tại thái độ nội tâm của con người, tuỳ thuộc thái độ của người đó có sẵn sàng đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa hay không. Phaolô và các tông đồ, khi đi rao giảng các Ngài bị bắt bớ tra tấn, nhưng các Ngài vẫn có sự bình an đích thực. Sự bình an mà Đức Yêsu hứa ban cho các môn đệ của Ngài, và thế gian không thể cướp đi được. Những yếu tố bên ngoài, ảnh hưởng đến con người, nhưng không thể làm một người “theo Chúa” mất bình an.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Khi nói về thập giá, điều gì gợi lên trong đầu bạn? Nói thật với lòng mình, bạn thấy “thập giá” có ích lợi gì không?
  2. Bình an là gì? Theo bạn, đâu là điều kiện để có bình an thực sự?
  3. Một Kitô hữu có được trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng không? Cung cách hành xử cho những người được sai đi loan báo tin mừng “Nước Thiên Chúa”, có áp dụng đối với các Kitô hữu không? Tại sao?

 

45. Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn

“Các ngươi hãy đi! Này Ta sai phái các ngươi như chiên vào giữa sói. Đừng mang ví tiền, bao bị, giày dép; cũng đừng chào hỏi dọc đường. Hễ vào nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này”. (Lc 10,3)

Đọc qua đoạn Kinh thánh trên đây không ít người cảm thấy dường như Lời Chúa chẳng dính dấp gì đến cuộc sống của mình. Những lời nhắn nhủ “đừng mang gì đi đường, không mang bánh mang bị, không mang tiền mang dép” có lẽ chỉ dành riêng cho các môn đệ Đức Kitô trước khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thế nên có thích hợp hay chăng chỉ là thích hợp cho các nhà thừa sai truyền giáo, chứ như dân thường thì e lệnh truyền trên đây không có một chút ý nghĩa nào!

Cũng có người thắc mắc: “Tại sao khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không nghĩ rằng nếu không được đón tiếp thì họ sẽ lấy của gì để ăn, lấy nhà đâu để ở? Thế nên cần phải có chút ít tiền để phòng thân chứ. Rồi nếu như phải ngủ bờ ngủ bụi, mà có chiếc áo che thân thì tốt biết mấy. Tại sao Đức Giêsu lại bảo đừng mang tiền, mang bị, hay mang bánh, mang áo? Tại sao Chúa không phòng xa để giải quyết những trường hợp bất ngờ?”

Nhưng đâu phải Chúa Giêsu không biết nghĩ xa. Ngài dư biết sẽ có thành đón tiếp và cũng có thành chối từ. Chính Ngài đã từng căn dặn thành nào không đón tiếp thì hãy rũ bụi chân lại để tố các chúng đã hẹp lòng và bất cập với Tin Mừng đấy chứ.

Chúa Giêsu biết sẽ có những người đóng cửa lòng, không đón nhận các môn đệ của Ngài. Nhưng ý tưởng chính toát lên từ lời căn dặn của Chúa Giêsu chính là sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời – sứ mạng đưa bình an đến cho các xóm làng – là một điều cấp bách. Đây là việc chung mà cộng đoàn các tông đồ phải khẩn trương thi hành chứ không được chậm trễ vì lỉnh kỉnh các vật dụng cá nhân.

Nói cách khác, ý của Chúa Giêsu là các môn đệ phải biết đặt sự nghiệp chung, lợi ích của Nước Trời trên bao bị, giầy dép, tiền bạc, áo xống. Việc rao giảng Tin mừng phải là công tác quan trọng, cần thiết và cấp bách hơn tất cả mọi lợi ích riêng tư.

Sống trong một tập thể hay cộng đoàn, nếu người ta chỉ biết đòi hỏi được đáp ứng các nhu cầu hay lợi ích cá nhân, tập thể hay cộng đoàn đó sẽ bị tổn thương nếu không muốn nói là có nguy cơ sụp đổ. Người hay đòi hỏi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tìm được niềm vui và hạnh phúc chân thật.

Kẻ gặp được niềm vui và hạnh phúc trong một cộng đoàn không phải là người được cộng đoàn dành cho nhiều ưu đãi, lợi lộc, hay địa vị, song là người biết sống dấn thân với cộng đoàn và cho cộng đoàn.

Người biết nghĩ đến ích chung, tha thiết với việc công sẽ là người đáng được tôn trọng và dễ dàng hoà hợp với tha nhân. Trái lại kẻ chỉ tìm ích riêng sẽ gây nên tình cảnh “khó sống” cho mọi người chung quanh. Họ không thể là môn đệ đích thật của Đức Kitô. Bởi vì người môn đệ đích thật sẽ không cứ lo tìm kiếm, bao bọc, chở che cho sự sống riêng mình, nhưng là dám đánh mất sự sống mình vì Nước Trời và vì tha nhân.

Người ta kể trong thời Chiến Quốc, khi quân nước Tề sang đánh nước Lỗ, lúc đến chỗ biên giới, bỗng thấy một người đàn bà, tay bồng một đứa bé, tay kia đang dắt đứa khác lớn hơn. Thấy quân giặc kéo tới, bà ta vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống và bồng đứa bé kia lên, rồi chạy trốn vào núi.

Viên tướng nước Tề thấy lạ bèn cho lính đuổi theo bắt lại và hỏi: “Tại sao bà lại ẳm thằng lớn mà bỏ thằng nhỏ?” Người đàn bà thưa: “Đức nhỏ là con tôi, còn đứa lớn là con anh tôi. Vì quân lính kéo tới nhanh quá, lượng sức không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại.”

Tướng nước Tề ngạc nhiên: “Con với mẹ là tình máu mủ ruột thịt rất gần. Nay bỏ con mình thì như cắt ruột mà cứu lấy con anh thì nghĩa là sao?” Người đàn bà trả lời: “Con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì biết tính làm sao. Tôi không thể nào sống mà chịu mang tiếng vô nghĩa giữa làng giữa xóm được.

Viên tướng nước Tề vội cho dừng quân lại và sai người về tâu với vua: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Vì quân ta vừa mới đến chỗ biên cương đã thấy con mụ đàn bà nơi xó rừng còn biết đặt tình riêng trên nghĩa công, thì huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Nên xin vua cho rút quân về.” Vua Tề cho là đúng và đồng ý lui quân.

Thế đó, một quốc gia, một cộng đoàn hay một gia đình sẽ rất vững chắc khi có những con người biết nghĩa đến kẻ khác, dám hy sinh quyền lợi riêng tư cho sứ mạnh và sự nghiệp chung. Không một sức mạnh nào của kẻ thù mà lại không chùn bước trước sức mạnh của đoàn kết yêu thương.

Hình ảnh của người mẹ bỏ rơi đứa con mang nặng đẻ đau của mình để cứu đứa con của người anh nhắc tôi về hình ảnh của một người Cha “bỏ rơi” người Con yêu dấu của mình để cứu vớt kẻ khác: Hình ảnh của một Thiên Cbúa đã dứt lòng hy sinh mạng Con, đến nỗi người Con đó phải thốt lên trong đau đớn tột cùng: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con,” một tiếng kêu xé lòng Cha. Nhưng chính nhờ sự hy sinh đó mà nhân loại đã được ơn giải thoát.

Thiên Chúa đã dâng hiến chính tình yêu giữa Cha và Con vì sự sống và hạnh phúc chung của toàn nhân loại. Thiết tưởng không có một tình yêu hay sự hy sinh nào lớn hơn tình yêu và hy sinh của Thiên Chúa.

Và tình yêu mời gọi đáp trả tình yêu. Thiên Chúa gọi mời bạn và tôi đáp trả tình yêu bằng cách sống như Ngài trong sự hiến dâng chính mình cho lợi ích của tha nhân và cộng đoàn.

Cách cụ thể, ta hãy cùng tự vấn: “Tôi có vì nghĩa công mà hy sinh ích riêng chưa? Tôi đã làm được gì cho giáo xứ? Tôi sẽ làm những gì cho cộng đoàn? Tôi đã dấn thân cho ích lợi của đất nước và dân tộc chưa?

Trả lời bằng những quyết tâm chân thành là ta đang trở nên những người môn đệ chân chính của Đức Kitô rồi đó.

 

46. Chiên con giữa bầy sói – Đỗ Lực

Từ thế kỷ VII, Tin Mừng đã được loan báo tại Trung Hoa. Trải qua hơn chục thế kỷ, các thừa sai không ngớt tìm cách rao giảng Tin Mừng cho nước đông dân nhất thế giới này. Trong nhiều thế kỷ, cuộc truyền giáo bị khựng lại vì những thử thách và bách hại. Có thể nói lịch sử Giáo Hội Trung Hoa trải qua năm giai đoạn. Từ thập niên 1980, cuộc loan báo Tin Mừng lần thứ năm khởi sự. Tới nay Giáo Hội Trung Hoa vẫn bị bách hại.

Giữa lúc Giáo Hội Trung Hoa đang gặp thử thách lớn lao vì những bách hại của nhà cầm quyền, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI viết một lá thư cho dân tộc Trung Hoa. Theo linh mục Federico Lombardi, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh, lá thư đó cho thấy tình yêu Đức Kitô “làm cho con người đi vào một chiều kích mới, nơi lòng khoan dung và tình yêu mến đối với cả kẻ thù địch có thể làm chứng tá cho sự thắng thế của Thập giá trên mọi yếu đuối và bất hạnh của con người. Càng trở thành thuần Trung Hoa, Giáo Hội càng thực sự là chính mình. Đó chính là cốt lõi thông điệp tuyệt diệu, trung thực và cao cả của Đức Giáo Hoàng.” (1)

Lá thư của Đức Giáo Hoàng quả thực là một Tin Mừng cho người Trung Hoa. Dù bị cấm đoán và bưng bít, giáo dân Trung Hoa cũng vẫn bắt kịp nhịp sống Tin Mừng. Từ xưa tới nay, đã gặp bao nhiêu trở ngại, Giáo Hội Trung Hoa vẫn kiên cường. Tin Mừng vẫn tìm mọi cách lọt đến lòng người.

Cuộc truyền giáo ở Trung Hoa đã có một lịch sử lâu dài hơn Việt nam rất nhiều. Tin Mừng đến với họ sớm hơn chúng ta gần 10 thế kỷ. Vậy mà tới nay, giáo dân Trung Hoa cũng chỉ mới khoảng 15 triệu trong số gần 1.5 tỉ dân số. Phải chăng Tin Mừng bất lực? Bao giờ Nước Thiên Chúa mới đến với dân tộc Trung Hoa?

CÔNG TRÌNH THIÊN CHÚA

Đứng trước cánh đồng truyền giáo bao la là Á châu, nhất là Trung Hoa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hướng tầm nhìn Giáo Hội Hoàn vũ về miền đất linh thiêng trù phú đó. Nhưng suốt hơn 13 thế kỷ qua, vẫn chưa thấy mùa lúa chín trên cánh đồng truyền giáo Trung Hoa. Phải chăng thực tế không xảy ra như Đức Giêsu tiên báo?

Thực ra, “lúa chín đầy đồng” là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của con người. Thiên Chúa mới là chủ sai thợ đến gặt lúa (x. Lc 10:3). Ngay từ thời Chúa Giêsu, Giáo Hội đã sinh ra trong tình trạng thiếu thốn. Chính Chúa đã phải cảnh giác các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.” (Lc 10:2) Đó là thân phận Giáo Hội. Lúc nào Giáo Hội cũng nghèo túng và thiếu phương tiện thi hành bổn phận. Nhưng càng thiếu thốn và nghèo túng, Giáo Hội càng được mời gọi đặt tất cả niềm tin nơi Chúa. Cánh đồng không thiếu lúa chín, nhưng chỉ thiếu những người thợ tin Thiên Chúa làm chủ cánh đồng. Chỉ tin như thế, họ mới không phản bội sứ mệnh khi xử dụng quyền lực và phương tiện trần gian. Nhờ niềm tin đó, họ dễ dàng sống khiêm tốn và vâng nghe Chúa Thánh Linh. Khiêm tốn chắc chắn là bí quyết làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng sinh hoa kết quả dồi dào. Chỉ nơi những người có lòng tin, Thiên Chúa mới thi thố tất cả quyền năng tuyệt đối. Người khiêm tốn biết nhường bước và đón chào ông chủ là Thiên Chúa vào vườn nho hay cánh đồng đầy lúa chín.

Cả về phương diện tập thể lẫn cá nhân, vật chất cũng như tinh thần, họ hoàn toàn bị tước đoạt vì Nước Thiên Chúa. Chúa nói: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” (Lc 10:3) Còn gì nữa đâu mà kiêu ngạo? Tất cả mọi phương tiện và tương quan xã hội đều phải trở thành xa lạ đối với họ. Chỉ còn một mình họ với Chúa trong công cuộc xây dựng và chiến đấu cho Nước Thiên Chúa. Như vậy chưa đủ sao? Khi nghe lời Chúa căn dặn: “Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói,” (Lc 10:3) người môn đệ nào chẳng run sợ? Run sợ vì lực lượng không cân xứng. Cuộc đối đầu vượt quá tầm sức chiên con. Sao Chúa không sai họ vào giữa đoàn chiên có phải tốt hơn không? Làm sao chiến thắng lực lượng sự ác lớn như thế? Nhưng kết quả lại về phần chiên con. Thật bất ngờ! Rõ ràng sức mạnh không từ môn đệ, nhưng từ Thày. Nếu Thày không là Thiên Chúa, làm sao chiến thắng lớn lao như thế?!

Chiến thắng lớn lao đó phát xuất từ thánh giá. Trước đây các môn đệ đã từng coi thập giá là biểu tượng cho sự thất bại và là gương mù cho dân ngoại. Nhưng “Thiên Chúa đã tôn vinh Người trên mọi sự …” vì Đức Giêsu đã “vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.”(Pl 2:8-9) Khi tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha, Người đã khám phá tất cả sức mạnh tình yêu và sự thật cần thiết cho công cuộc giải thoát nhân loại. Bởi đấy, Người đã tìm được niềm vui và cũng trở thành nguồn vui cho mọi người. Khi gặp khổ đau, thập giá và cái chết, Đức Giêsu đã kiên nhẫn biết chừng nào. Người kiên nhẫn vì tin rằng đó là thánh ý Chúa Cha. Tình yêu Chúa Cha đã khiến Người có sức mạnh phi thường. Không đối lực nào có thể thắng nổi.

Tin tưởng nơi Chúa, người môn đệ sẽ nhận ra tất cả những giới hạn của mình, nhưng đồng thời nhìn thấy những hoa trái lạ lùng do bàn tay Thiên Chúa hành động qua những phương tiện nghèo nàn. Sau một ngày mệt nhọc trong cánh đồng của Chúa, “nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.’” (Lc 10:17) Tất cả đều nhờ sức mạnh Chúa.

SỨ ĐIỆP DUY NHẤT

Dù chỉ là chiên con bị tước lột trần trụi giữa bầy lang sói, người môn đệ vẫn hiên ngang bước theo Đức Kitô. Không phải lúc nào cuộc hành trình cũng trải đầy hoa hồng. Có nhiều lúc không êm ả chút nào. Những biến cố lớn nhỏ như sóng gió ập đến. Khi gặp thử thách như thế, có những người môn đệ quên cả việc rao giảng Tin Mừng và bẻ cong Tin Mừng theo thời đại và hoàn cảnh, mong thỏa mãn những nhu cầu trần tục. Họ tin vào sức mạnh phương tiện như các tổ chức trần thế. Cố gây sức mạnh bằng cách tăng cường nhân sự, phương tiện, của cải, quyền lực, danh vọng v.v.

Nhưng sức mạnh Nước Thiên Chúa không đến từ những phương tiện trần thế. Nước Thiên Chúa không thể biến đổi đến nỗi đánh mất bản chất. Người môn đệ phải có lập trường dứt khoát và rõ rệt. Chính Đức Giêsu đã minh xác với các môn đệ như thế. Dù được đón tiếp hay không, họ phải nhất quyết rao giảng cho mọi người: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” (Lc 10:9.11) Không phải vì bầy sói đông quá mà khiếp đảm đến nỗi không dám mở miệng rao giảng Nước Thiên Chúa nữa. Không thể vì những lực lượng bất hảo hay bất chính đang siết gọng kìm mà không dám tranh đấu để xây dựng Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không thể dựa trên bất công, vì bản chất và nền tảng của Nước Thiên Chúa là công lý. Chính lập trường này làm cho người môn đệ đứng vững và ngẩng đầu hãnh diện trước những thách thức của kẻ thù. Lập trường đó chính Chúa đề ra và củng cố bằng sức mạnh Thánh Linh. Không có Thánh Linh không thể giữ nổi lập trường và sứ điệp duy nhất đó trong mọi hoàn cảnh. Hoàn cảnh rất phức tạp và khắc nghiệt. Hỏa mù vô cùng dầy đặc. Nếu Chúa không đưa ra nguyên tắc và sứ mệnh đó, chắc chắn không ai có thể phá vỡ cơn hỏa mù.

Khi hoạt động trong Giáo Hội, người môn đệ nhắm biến đổi toàn thể thế giới. Là phần tử Giáo Hội, họ có sứ mệnh phục vụ Nước Thiên Chúa, tức là tranh đấu cho công lý, hòa bình, tự do và mọi người biết tôn trọng nhân quyền. Tất cả đều nằm trong kế hoạch Thiên Chúa tối cao nhằm cứu độ muôn dân. Nhiều người muốn đánh lạc hướng khi chủ trương Nước Thiên Chúa vượt trên trần thế và nhằm xây dựng trời mới đất mới, chứ không phải trần gian. Bởi vậy, họ muốn biến sứ điệp của Đức Giêsu thành chuyện tư riêng hay cá nhân. Chiều cạnh xã hội của Nước Thiên Chúa hoàn toàn bị coi thường và quên lãng.

Ngày nay, dù sống trong hoàn cảnh nào, Kitô hữu cần phải nỗ lực cứu Chúa Giêsu khỏi ngục tù cá nhân chủ nghĩa và đem Người trở lại đời sống xã hội. (2) Nếu đặt Chúa Giêsu vào hoàn cảnh văn hóa xã hội thời Người và nhìn sứ mệnh Người trong bối cảnh phục hồi Israel và loan báo “năm đại hồng ân” cho dân Người, chúng ta sẽ thấy rõ sứ điệp Đức Giêsu hàm ý chính trị. Người muốn triệt để tái cấu trúc mọi cơ cấu xã hội hiện hành trên nền tảng giao ước. (3) Để thực hiện công cuộc đó, Người muốn mọi quyền lực trên đời phải mang tính tương đối và nhường bước cho những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. Có một số người muốn sứ điệp Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa chỉ thuần túy mang tính tôn giáo và không liên quan tới các cơ cấu chính trị xã hội. Thực ra, Tin Mừng liên quan tới những thực tại sâu xa của trần thế. Bởi thế, sứ điệp của Chúa Giêsu là một phản ứng rõ rệt trước một thế giới đầy áp bức và những cơ chế của một trật tự xã hội bất công. (4)

CƠ HỘI PHỤC VỤ

Tới đây, chúng ta cần lắng nghe vị Đại Diện Chúa Kitô. Hoàn cảnh Giáo Hội Việt Nam cũng tương tự Giáo Hội Trung Hoa. Trong mọi hoàn cảnh, “Giáo Hội không thể và không được tự đảm nhận chính trường để đem lại một xã hội công bình nhất. Giáo Hội không thể và không được thay thế chính quyền. Tuy nhiên đồng thời Giáo Hội không thể và không đươc ở bên lề cuộc đấu tranh cho công bình. Qua lý chứng, Giáo Hội phải tham gia và phải thức tỉnh năng lực thiêng liêng cần thiết cho công lý chiếm ưu thế và thành công. Bao giờ công lý cũng đòi phải hy sinh. Một xã hội công bình phải là thành quả của chính trị, chứ không phải của Giáo Hội. Tuy nhiên cổ võ cho công bình qua những nỗ lực nhằm giúp cởi mở tâm trí và ý chí theo những đòi hỏi của công ích, là điều can hệ đến Giáo Hội cách sâu xa.

Nhờ những nguyên tắc không thể đảo ngược này hướng dẫn, những vấn đề đang tồn đọng không thể được giải quyết qua sự xung đột với các nhà cầm quyền dân sự hợp hiến. Nhưng đồng thời không thể tùng phục những nhà cầm quyền ấy khi họ can thiệp vô lý vào những vấn đề liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Các nhà chức trách dân sự cần nhận thức rõ Giáo Hội luôn dạy các tín hữu trở nên những công dân tốt, tôn trọng và đóng góp tích cực cho công ích của đất nước. Nhưng rõ ràng Giáo Hội cũng đòi hỏi Nhà Nước phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo chân chính và bảo đảm cho những người dân Công Giáo được thi hành đầy đủ niềm tin của mình.” (5)

Đàng khác, Giáo hội được thành lập để phục vụ Nước Thiên Chúa, chứ không phải để chiếm chỗ của Nước Thiên Chúa. Nếu không phục vụ Nước Thiên Chúa, Giáo Hội sinh ra để làm gì? Phục vụ Nước Thiên Chúa nghĩa là tranh đấu cho xã hội ngày càng “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17)

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết can đảm phục vụ Nước Thiên Chúa, để công lý mau ngự trị trên quê hương yêu dấu chúng con. Amen.

——————————————————————

  1. VietCatholic 03/07/2007.
  2. x. Hollenbach 1898:11-22.
  3. Dictionary of Fundamental Theology 1995:589.
  4. x. Hollenbach 1898:37-48.
  5. ĐGH Bênêđictô XVI, Lá Thư Gởi Người CGTH, http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/letters/2007/documents/hf_ben-xvi_let_20070527_china_en.html

 

47. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Ngoài 12 tông đồ, còn có 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi tiếp nối sứ mạng của Ngài. 72 môn đệ đó tượng trưng cho ơn gọi nào trong Giáo Hội?
  2. Tình hình nhân sự trong việc tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu trên thế giới hay trong xã hội chúng ta đang sống như thế nào? Khi ý thức điều ấy, bạn có nghe thấy Đức Giêsu mời gọi bạn làm gì không?
  3. Để làm tông đồ, tức tiếp tục công việc cứu thế của Đức Giêsu, chúng ta phải làm gì? Chúng ta đã làm gì? Có gì cần sửa chữa trong quan niệm của chúng ta?

Suy tư gợi ý:

  1. Ơn gọi làm tông đồ giáo dân

Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giêsu huấn luyện đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài, Tin Mừng Luca còn nói tới số 72 môn đệ được Ngài sai đi. Người ta thường ví ơn gọi của 12 môn đệ với ơn gọi tông đồ của hàng giáo phẩm và giáo sĩ, là những người thường được huấn luyện đặc biệt có trường lớp để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Và ví ơn gọi của 72 môn đệ với ơn gọi tông đồ của giáo dân, là những người được huấn luyện ở trình độ phổ thông để làm tông đồ.

Đấy cũng là một cách hiểu khá hợp lý. Thực ra, bất kỳ người Kitô hữu nào một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, đều được Đức Giêsu mời gọi tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại. Vì thế, việc cứu độ nhân loại không phải là công việc dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là nhiệm vụ của bất kỳ người Kitô hữu nào, dù là giáo dân, đạo gốc hay tân tòng. Bài Tin Mừng hôm nay là một dịp nhắc nhở người giáo dân nhiệm vụ tông đồ hay cứu thế của mình. Đặc biệt những Kitô hữu đã có từng được đào tạo để làm tông đồ trong các chủng viện hay tu viện, mà nay lại đứng trong hàng ngũ giáo dân. Những người này thường được Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt hơn những giáo dân khác.

  1. Sứ mạng của Đức Giêsu còn bao nhiêu việc phải làm

Hễ nói tới câu Tin Mừng «Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về», chúng ta thường nghĩ ngay tới cánh đồng truyền giáo, làm như Giáo Hội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là truyền giáo. Thực ra, Đức Giêsu đến là để cứu chuộc nhân loại, mà trong đó việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng chỉ là một phần, và chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Nhiều khi người Kitô hữu quá quan tâm đến phương tiện này mà quên đi mục đích của nó, nghĩa là lấy chính việc loan báo Tin Mừng làm mục đích của việc tông đồ. Mục đích của Giáo Hội cũng như của Đức Giêsu không phải là loan báo Tin Mừng, mà là cứu nhân loại, không chỉ đời sau mà còn cả đời này nữa. Cứu nhân loại là làm cho nhân loại hay con người thoát khổ và hạnh phúc hơn. Loan báo Tin Mừng chỉ một trong những phương tiện phải làm để đạt được mục đích cứu độ đó.

Ý thức lại vấn đề như vậy, chúng ta thử tự hỏi: chúng ta đã quan tâm tới vấn đề cứu độ con người như Đức Giêsu chưa? Một cách cụ thể, chúng ta đã làm gì để những người chung quanh ta bớt đau khổ và hạnh phúc hơn? Sự hiện diện của ta, với tư cách người Kitô hữu hay tập thể Kitô hữu, có làm cho gia đình ta, những người chung quanh ta, xã hội ta đang sống bớt khổ đau và hạnh phúc hơn không?

Thế giới và xã hội con người hiện nay còn biết bao tội lỗi, đau khổ, bất công. Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu chưa thực hiện được bao nhiêu, và còn biết bao việc phải làm. Nhưng có được bao người muốn dấn thân tiếp nối sứ mạng của Ngài? Việc thì nhiều mà nhân sự thì ít. Người Kitô hữu, dù là giáo dân hay giáo sĩ, có nghe thấy lời mời gọi tha thiết của Ngài không? Và nếu muốn tiếp tục sứ mạng của Ngài, chúng ta phải làm gì?

  1. Trình tự những việc phải làm của người môn đệ Đức Giêsu

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi. Hãy coi lại xem Ngài truyền bảo họ những gì. Có những điều chính yếu được xếp theo trình tự thời gian mà cũng có thể là theo thứ tự quan trọng như sau:

  1. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép»: ý nói đừng quá lo toan về những nhu cầu vật chất, mà hãy chú tâm vào sứ mạng của mình. Việc này được đề cập đến đầu tiên, ắt nhiên là một điều rất quan trọng. Muốn cứu rỗi người khác mà lại quan tâm đến những nhu cầu vật chất của mình, vốn đòi hỏi rất nhiều tâm trí và năng lực của mình, thì còn đâu tâm trí và năng lực để cứu rỗi người khác?
  2. «Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường»: ý nói sứ mạng khẩn cấp, cần tập trung thì giờ và năng lực vào sứ mạng của mình. Ngoài nhu cầu vật chất, còn những nhu cầu cá nhân khác, cũng cần phải dẹp bớt để tập trung thì giờ và năng lực vào việc cứu rỗi con người.
  3. «Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”»: ý nói phải quan tâm tới sự bình an, thoải mái cho người mình gặp. Sự bình an, không phải sống trong lo âu, sợ sệt… về tinh thần cũng như thể chất là điều mà người môn đệ Chúa cần phải quan tâm thực hiện đầu tiên cho mọi người mình được sai đến. Đây là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của mọi người sống trong trần thế.
  4. «Hãy chữa những người đau yếu trong thành»: ý nói hãy quan tâm đến đau khổ và hạnh phúc của mọi người, và cứu giúp họ trong khả năng của mình. Người môn đệ của Chúa cần phải quan tâm đến những nhu cầu hết sức cụ thể của con người. Phải cảm thông với niềm vui nỗi buồn, với hạnh phúc và đau khổ của mọi người, đồng thời phải cứu khổ và tạo điều kiện hạnh phúc cho họ một cách hữu hiệu.
  5. Và sau cùng mới là «nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”»: ý nói là phải loan báo Tin Mừng cho họ, tức nói với họ về Thiên Chúa, về nhu cầu tâm linh, về những gì thiêng liêng.

Ta thấy trình tự trên thật là hợp lý. Người chung quanh ta có được ta quan tâm tạo bình yên và thoải mái cho họ, thì họ mới dám đặt niềm tin tưởng vào ta, và mới có điều kiện thoải mái để nghe ta nói những chuyện xem ra có vẻ ít thực tế hơn đối với đời sống của họ. Thế mà rất nhiều khi người Kitô hữu lại làm ngược lại trình tự mà Đức Giêsu đã đề nghị. Chúng ta lo loan báo Tin Mừng trước, và coi những việc đáng quan tâm hàng đầu kia vào hàng thứ yếu. Chính vì thế mà việc loan báo Tin Mừng của chúng ta trở thành thiếu thực tế, kém hữu hiệu, nên không được đón nhận bao nhiêu từ nhiều thập kỷ nay tại Châu Á. Do đó, chúng ta cần phải sửa lại quan niệm về cách làm tông đồ của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, Công Đồng Vatican II nhắc nhở người Kitô hữu phải nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường mình sống nên tốt đẹp hơn một cách hữu hiệu. Xin giúp con xét lại xem sự hiện diện của con đã biến cải môi trường con sống tới mức độ nào? Có làm cho những nơi mà con hiện diện tốt đẹp và hạnh phúc hơn không? Xin cho con biết quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trước đã, trước khi loan báo nó ra để người khác cùng sống theo. Xin giúp con biết yêu thương để quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người chung quanh con, và biến con trở nên một đấng cứu thế nho nhỏ trong môi trường nhỏ bé con đang sống, là gia đình con, là môi trường nghề nghiệp của con, khu xóm của con, v.v… Amen.

 

48. Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt

Tại vùng Trung Đông, dầu mỏ thì dồi dào nhưng lại khan hiếm nước trong lành. Một nhà thông thái nọ đi tìm suối nước thiêng. Khi nhìn thấy suối nước đó, ông vui mừng phấn khởi, chân bước nhanh đến suối. Sau khi giải khát nhờ nước trong mát của dòng suối, ông chụp hình dòng suối đó, có ý mang về cho đồng bào ông thấy mà tìm đến hưởng nguồn nước trong lành.

Vừa về đến nhà, thân quyến, bà con lối xóm xúm lại mừng ông. Mọi người đều nhận thấy gương mặt hân hoan rạng rỡ của ông. Ai nấy đều vồn vã hỏi cho biết điều gì đã đến với ông, làm sao ông vui mừng phấn khởi như thế! Ông kể lại cho họ nghe việc ông đã khám phá nguồn nước trong lành và mời gọi mọi người đến đó thưởng thức hương vị ngọt ngào của dòng suối. Ai cũng vui thích với tấm ảnh về nguồn suối đó. Họ mong có phương tiện đi đến đó để được tắm mát và vui hưởng hạnh phúc bên nguồn nước trong lành.

Khi Chúa Giêsu đến, Ngài không chỉ hứa ban cho chúng ta một dòng suối vật chất mà ban cho chúng ta chính Thịt Máu là Nguồn ban sức sống, là thần lương nuôi sống linh hồn chúng ta. Ngài tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha rất yêu thương chúng ta, và hứa đưa chúng ta về nơi hạnh phúc muôn đời.

Thế nhưng ai sẽ là người nói cho mọi người biết về suối nước trường sinh, về hạnh phúc Chúa dọn sẵn cho mọi người?

Chính Chúa Giêsu nói cho các Tông đồ và các môn đệ của Ngài và nhờ các ngài nói lại cho chúng ta. Khi chúng ta trở thành môn đệ Chúa thì có bổn phận nói lại cho anh em mình biết niềm hạnh phúc đó. Nguồn suối trường sinh từ Thiên Chúa thì không bao giờ cạn, ai đến lấy bao nhiêu tuỳ thích. Càng nhiều người đến thì dòng suối càng tràn đầy hơn. Vì vậy chúng ta đừng sợ thiệt thòi khi tiết lộ cho anh em mình về Tin Mừng đó, mà phải dành nhiều thời giờ để loan báo cho anh em tin vui trọng đại này.

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Khi đi, Chúa dặn đừng chào hỏi ai dọc đường, cũng đừng mang theo tiền bạc giày dép. Môn đệ Chúa khi đi rao giảng đừng để tâm đến tiền bạc của cải nhưng hãy lo giúp mọi người tìm về Nước Chúa. Việc rao giảng cũng rất cấp bách cho nên không nên lân la, chào hỏi, nấn ná nói chuyện với người quen làm mất thời giờ. Người môn đệ Chúa không nên chậm trễ nhiệm vụ loan báo Tin Mừng Nước Chúa cho anh em mình.

Ngày hôm nay việc loan báo Tin mừng có còn cấp bách nữa không? Sự cấp bách đó vẫn còn và còn nhiều hơn nữa vì thế giới hơn 6 tỉ người, trong đó người Công giáo sốt sắng chưa được 1 tỉ. Còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa hưởng được các Bí tích Chúa Giêsu đã lập ra. Nhân loại còn nhiều người đang chìm trong u tối, chưa nhận ra con đường dẫn đến lối trường sinh.

Lúa chín đầy đồng nhưng phải có thợ đi gặt về. Nước Chúa cần có những người thợ nhiệt thành, quên mình, đem bình an đến cho tha nhân. Loan báo Tin Mừng là việc làm cao quý Chúa giao cho chúng ta. Tuy nhiên, việc rao giảng Tin Mừng cho người khác đòi hỏi phải có sự chuẩn bị trước về kiến thức cơ bản, cách truyền đạt, lối giải thích dễ hiểu để cho người nghe dễ tiếp thu, dễ đón nhận.

Ngày nay, Giáo Hội đang hết sức mời gọi con cái mình dấn thân trong đời sống tu trì, truyền rao Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Thời nào cũng có những người nhiệt tâm làm sáng danh Chúa, đem nhiều người vào nước Chúa. Tuy nhiên, số người chưa biết Chúa vẫn còn quá nhiều. Vì vậy, Chúa đòi mỗi người chúng ta hãy gấp rút lo việc truyền giáo. Chúng ta thương anh em mình thì không thể nhẫn tâm ngồi nhìn họ sống mồ côi, không biết Chúa là Cha. Vì không biết Cha, họ hay lỗi phạm điều răn Chúa và dần dần đi đến hư mất.

Thế giới này đang cần ơn bình an Chúa ban. Chúng ta hãy đem bình an của Chúa đến cho mọi người. Bình an của Chúa không như thế gian ban tặng. Bình an của Chúa làm cho lòng mỗi người tràn đầy bác ái, sẵn sàng hy sinh bản thân cho người khác bớt phần khổ sở. Bình an của Chúa làm lương tâm thoải mái. Chỉ những ai có lòng yêu mến Chúa thật sự mới có được loại bình an này.

Bình an nhờ việc sống đạo. Nếu chúng ta không sống đạo thì làm sao có bình an thật từ Chúa mà cho anh em mình, làm sao nhắc nhở được người khác đến với đạo. Để đem người khác về với Chúa, mỗi người chúng ta hãy hy sinh, sống gương mẫu để thu hút lương dân tìm đến sự thật mà được ơn cứu độ. Chúng ta hãy tìm hiểu ý Chúa trong Phúc Âm, giáo lý trong lương tâm ngay thẳng. Mọi người chúng ta hãy hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ. Chính Chúa Giêsu đã nói rằng: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau như thầy đã yệu thương các con. Chúng ta thấy rằng 9 người 10 ý. Nhưng ai yêu mến Chúa và anh em thì sẵn sàng bỏ một số ý riêng để làm vui lòng nhau và đẹp lòng Cha chung của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con đi làm chứng cho Chúa, cho chúng con trở nên muối men, ánh sáng cho đời bớt tăm tối và đau khổ. Con sẽ trung thành yêu mến Chúa và nguyện hướng về Chúa cho đến muôn đời. Xin Chúa phù trợ cho chúng con luôn. Amen.

 

49. Suy niệm của nhóm Gp Vĩnh Long

Anh chị em thân mến.

Trong thời buổi kinh tế thị trường, tất cả mọi mặt hàng đều phải có chất lượng, nếu muốn được đứng vững. Chúng ta nhìn thấy có rất nhiều nhóm người, họ mặc đồng phục, trên nón và trên áo có ghi tên sản phẩm mà họ mang đi. Đó là những chuyên viên tiếp thị.

Họ đi giới thiệu sản phẩm. Không biết sản phẩm họ giới thiệu như thế nào, mọi người đều chưa biết. Nhưng trước tiên, những con người này phải có một phong cách cho xứng đáng, thì sản phẩm của họ mới được nhiều người biết đến. Thế mà cũng có những người lừa đão. Họ cũng giới thiệu sản phẩm và có trúng thưởng. Rất nhiều người bị sụp vào bẩy, họ phải trả một số tiền, để nhận món hàng cùng với quà trúng thưởng mà cay đắng. Những chuyên viên tiếp thị như thế, chắc không ai muốn nhìn thấy họ thêm lần nào nữa.

Chúa Giêsu nhìn thấy những khách hàng của Ngài đang thiếu thốn, đang khao khát. Ngài sai các chuyên viên tiếp thị của Ngài đến với họ. Các chuyên viên này không giới thiệu mặt hàng để mang mối lợi về kinh tế. Nhưng giới thiệu Nước Trời. Những người được sai đi cũng phải có phong cách của Nước Trời. Họ đến đem sự Bình an cho những khách hàng của họ, đồng thời còn chữa lành những chứng bệnh, những đau khổ của con người. Muốn được như thế trước tiên họ phải co, thì mới có thể cho được. Họ không được mang gì hết, không được tìm những phương thế để bảo vệ cho thân xác. Nhưng mang hành trang của nước trời, đó là sự bình an.

Họ đã thành công, đã tìm được thị trường cho Nước Trời. Họ vui mừng báo tin cho chủ mình. Niềm vui của họ còn được đong đầy thêm vì đã được chắm công để trọng thưởng, không phải như niềm vui chóng qua, nhưng là phần thưởng đời đời cho những người xứng đáng.

“Lúa chính đấy đồng mà thợ gặt thì ít.”

Mỗi ngày lời mời gọi càng cấp thiết hơn. Mỗi ngày nhu cầu con người càng cần thiết hơn, càng chờ đợi, càng khao khát nhiều hơn.

Thị trường hôm nay rất cần những chuyên viên tiếp thị cho nước trời. Chúa Giêsu cũng nói với những con người của thời đại mới, những người trong chúng ta:” Lúa chính đầy đồng mà thợ gặt thì ít.” Ngài cũng sai chúng ta làm những chuyên viên tiếp thị cho Nước Trời. Chúng ta cũng đã gia nhập, đã lãnh sứ mạng. Mỗi người cũng đã ra đi, đã rao giảng. Có người trở về báo cáo được vui mừng vì kết quả tốt đẹp, nhưng cũng có người không dám nói gì hết, vì đã hoàn toàn thất bại.

Giờ này đây, mỗi người ngồi trước mặt Chúa và báo cáo thành tích của mình đi. Trải qua bao nhiêu năm tháng của đời người, đó là những năm tháng mà Thiên Chúa mời gọi đi rao giảng, đi tiếp thị, giới thiệu Nước Trời cho người khác. Mỗi người một hoàn cảnh, một môi trường khác nhau. Rao giảng tiếp thị không chỉ bằng lời nói suông, nhưng còn bằng cả con người, cả cuộc sống. Cứ nhìn lại xem, những người chung quanh, khi nhìn vào đời sống của chúng ta và họ nhận ra được gì? Họ nhận ra được một Chúa Kitô đang sống, đang hoạt động, đang mời gọi họ, đang phục vu, đang yêu thương tất cả mọi người. Hay họ nhận ra một con người trần thế, với những tiền bạc, với những tham lam, những nóng nãy giận hờn, với những ích kỷ nhỏ nhen, với những mánh khóe mưu mô mà họ không dám đến gần được nếu không muốn bị hại.

Nhìn lại quãng đời đã qua như thế, chúng ta sẽ thấy được báo cáo của mình mang lại niềm vui hay nỗi buồn. Nếu là vui mừng, chúng ta cũng được vui mừng thêm vì tên chúng ta đã được ghi trên trời. Còn nếu chưa hòan thành được trách nhiệm của một chuyên viên tiếp thị cho Nước Trời, thì giờ đây cũng vẫn còn thời gian để chúng ta làm lại, sữa đỗi lại cách giới thiệu, qua việc sữa đỗi cách sống, cho xứng đáng, thích hợp hơn. Có như thế, chúng ta sẽ đạt được niềm vui nước trời.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe mệnh lệnh của Chúa, để hoàn thành trách nhiệm thật tốt trong hoàn cảnh sống và đạt được niềm vui Nước Trời.

 

50. Thi hành sứ mạng của Đức Kitô

(Suy niệm của Gp. Vĩnh Long)

Anh chị em thân mến!

Sau một thời gian được ở với Thầy nay các môn đệ được Chúa Giêsu sai đi làm công tác tông đồ, loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân mà ưu tiên là dân Israel. Hôm nay thánh Luca ghi lại khung cảnh “xuất quân” của đoàn môn đệ Chúa Giêsu. Qua đoạn Tin mừng Lc 10, 1-9 ta được đọc hôm nay ta học được tính chất của sứ điệp cũng như nội dung của sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ mình loan báo. Chúa Giêsu sai các môn đệ và Ngài cũng sai mỗi người chúng ta cộng tác để cho Nước Chúa được lan rộng. Ta hãy suy niệm để biết phải thực hiện như thế nào và cần loan báo những gì cho triều đại Nước Thiên Chúa.

Trước hết người môn đệ rao giảng tin mừng phải là người được Chúa Giêsu sai đi, đi từ hai người một và vào các thành mà chính Chúa Giêsu sẽ đến. Nhiệm vụ của các môn đệ này là như những nhà tiền trạm, dọn đường để Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng. Nhưng phải đi hai người một và không mang bao bị, túi tiền, giày dép… cho thấy nhiệm vụ này là một nhiệm vụ khẩn thiết phải biết bỏ đi những gì thứ yếu để chọn cái chính yếu là loa n báo Đấng Cứu Thế. Phải đi hai người một vì là người minh chứng nên chứng này phải thật mà thật thì phải có hai người trở lên như quy ước thời ấy. Vả lại việc loan báo tin mừng không phải là việc của cá nhân riêng lẻ mà là việc của cộng đoàn và cũng không phải là độc quyền của riêng ai nhưng phải liên kết với nhiều người khác. Ý thức mình là người được sai đi chứ không phải là chủ nên người môn đệ phải xin chủ ruộng chính là Thiên Chúa cho mình được làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa tức là làm người loan báo tin mừng. Chúa Giêsu còn dạy tỉ mỉ các môn đệ về các vấn đề cơ bản của công tác truyền giáo như “Đừng mang theo bao bị, túi tiền, giầy dép… đừng đi nhà này sang nhà kia…”. Như đã nói sứ điệp nước Thiên Chúa là chính yếu phải làm sao cho sứ điệp ấy được loan báo. Nhưng sứ điệp đó là gì? Sứ điệp đó là Bình An, là Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Nều liên kế với những câu trước ta thấy ChúaGiêsu chính là Bình An, là Triều đại Nước Thiên Chúa đang đến các môn đệ đang mở đường để Chúa Giêsu đến được với mọi người. Chúa Giêsu đang đến với con người, Ngài là Vua Bình An, là Đấng Cứu Độ, ai đón nhận Ngài thì được hưởng sự bình an, được hưởng ơn cứu độ, con ai từ chối Ngài thì đã tự tách mình ra khỏi sự sống ắt hẳn đi đến diệt vong.

Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy sứ mạng loan báo Tin mừng là công việc của chính Thiên Chúa nên muốn là thợ gặt phải cầu xin chủ ruộng để được là thợ gặt. Người loan báo tin mừng phải là người được sai đi nên ta hãy ý thức việc loan báo tin mừng không phải là phát kiến từ cá nhân nhưng là từ Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên thợ gặt của Chúa. Y thức đây là việc của Chúa nên ta hãy biết phó thác trông cậy vào Chúa, và để khi thành công ta không tự hào tự mãn cũng như khi thất bại ta không chán chường buông xuôi. Tất cả là do thánh ý Thiên Chúa, chúng ta là người được Thiên Chúa mời gọi cộng tác.

Được mời gọi theo Đức Kitô, làm công việc của Đức Kitô ta hãy nghe lời Ngài mà trang bị hành trang lên đường thật nhẹ nhàng khiêm tốn. Hãy tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khi Chúa sai chúng ta đi chắc chắn Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta mọi thứ để chúng ta có thể chu toàn sứ mạng quan trọng là chúng ta có biết phó thác hay không. Ngày nay là thời của tiến bộ khoa học, nhưng đòi hỏi của tiền tài vật chất lôi kéo chúng ta và đôi khi làm ta mờ tối đến độ coi đó như là những nhu cầu chính yếu để ta có thể loan báo Tin mừng hiệu quả. Hãy nhớ rằng ta đang loan báo sự gì, loan báo tin mừng của Chúa hay chính bản thân chúng ta. Cái gì là chính yếu Lời Chúa hay tiền tài vật chất.

Người môn đệ của Chúa Giêsu cũng đòi hỏi phải là con người của bình an. Bởi Chúa Giêsu chính là bình an đích thực. Loan báo Chúa Giêsu là loan báo sự bình an, mà có loan báo sự bình an được đòi hỏi người môn đệ phải là người có sự bình an trước tiên. Bình an không chỉ là thư thái, thoải mái mà là Nước Thiên Chúa đang đến, là ơn cứu độ đang đến.

Ước gì ta biết sống khiêm tốn, giản dị để biết phó thác mọi sự cho Chúa.

Ước gì tha nhân nhận được nơi chúng ta sự bình an đích thực khi ta biết sống gắn bó với Chúa.

Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta thực hiện được căn tính của mình là đem Tin mừng cho những người xung quanh.

 

home Mục lục Lưu trữ