Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1374967

TÌNH YÊU HIẾN DÂNG

Tình yêu hiến dâng

Nhiều người đã thắc mắc phải hiểu như thế nào về câu nói của Gioan khi nhìn thấy Đức Giêsu tiến về phía mình: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian". Thông thường người ta chỉ hiểu lời giới thiệu đó như một tiếng ám chỉ chiên vượt qua hoặc chiên hy tế của đền thờ, hay "Tôi tớ Giavê" Trong sấm ngôn Is 53,7 kẻ được hình dung như con chiên bị đem đi giết, như con cừu được thợ xén lông, và mang lấy nỗi khổ cùng các hành vi bất công của chúng ta "Người đã bị sát tế vì chúng ta" (1Cr 5,7) , và như vậy, Người đã trở nên Chiên Vượt Qua, Đấng xoá tội trần gian cho tất cả những ai tin vào Người (Ga, 1,29) (Từ điển Công Giáo Phổ thông)

Hai thành ngữ "Tôi Tớ" và "Chiên Thiên Chúa" dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu là Đấng vô tội mà lại bị con người trừng phạt như một tội nhân, khi gọi người như vây, Isaia và Gioan Tẩy giả muốn công bố sự công chính đức vâng phục vâng lệnh Thiên Chúa và hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của Phêrô nói: "Máu của người châu báu như con chiên vô tật vô tì" (1Pr 1,19). Từ "Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian", chúng ta thật khó hiểu hết ý nghĩa của từ "xoá" Vì "xoá" mới có nghĩa như đứng bên ngoài, ở ngoài tham gia vào, nên chưa thấy được thâm sâu tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Tiếng Latinh dùng từ "tollit" có nghĩa là nhận lấy vào mình gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa Đấng "gánh" lấy tội nhân loại thì chính xác hơn. Đức Giêsu đã tự hiến thân hoà mình với nhân loại và cuối cùng đã chết thay cho nhân loại, đã gáng lấy tội lỗi của con người. Chính vì con người đáng lẽ phải chịu phạt mà Thiên Chúa lại gánh lấy để con người được thứ tha, Người hạ mình xuống để ta được nâng lên, Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có, Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa, Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ, Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang, Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do, Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.

Chỉ có tình yêu cao cả và sự vâng phục tuyệt đối đã làm cho Đức Giêsu trở thành con chiên, thành của lễ hy sinh tuyệt vời Người là Con Thiên Chúa, Người sống cho mọi người. Nhất là qua những cử chỉ hành động lời nói của Đức Giêsu như động lực thúc đẩy con người cũng hãy biết hy sinh cho nhau. Để sống với và sống trong Chúa một cách cụ thể, đòi ta phải biết sống với người khác, phải tha thiết với sự sống còn và sự phát triển tươi đẹp của anh em mình, và như Đức Kitô, tôi phải dám chia sẻ bằng chính sự sống của mình, để có thể dám hy sinh cho tha nhân, ta phải sống cho tình yêu như chính Chúa đã sống cho nhân loại, chỉ khi nào cảm nhận được tình yêu thì chúng ta mới dám hiến thân và cho đi tất cả vì tình yêu. Con người không thể sống mà không có tình yêu thương người khác. Chính vì thế, ta tìm thấy tình yêu không phải nhờ được yêu mà biết sống cho tình yêu. Càng quên mình để sống cho tình yêu thì chúng ta lại càng được tình yêu, vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh (kinh Hoà Bình).

Lời giới thiệu của Gioan cho ta thấy và cảm nhận được hồng ân bao la mà Thiên chúa đã ban cho mình. Vì "không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15,13), để từ đó con người biết tạ ơn Thiên Chúa vì kế hoạch đầy tình thương của Người. Người đã ban Đức Giêsu Kitô cho ta để làm người Tôi Tớ để thực hiện kế hoạch ấy, và Đức Giêsu Kitô lại tha thiết mời gọi chúng ta quy tụ vào thân thể mầu nhiệm của Người, để Người sai ta đem ân sủng và bình an đi, tiếp nối sứ mang của Người Tôi Tớ. Dĩ nhiên muốn thực hiện sứ mạng này, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, vì chính sự hy sinh mới nói lên được một tình yêu chân thành, sâu thẳm đối với Chúa và tha nhân. Tình yêu không hy sinh là tình yêu trá hình. Tình yêu không dựa vào lời nói hay những cử chỉ trìu mến, nhưng phải được chúng tỏ qua sự hy sinh sống động để làm bằng chứng. Sự hy sinh càng cao độ thì càng diễn tả được chiều kích sâu xa của tình yêu, càng mang lại bầu khí an vui cho mình và những người xung quanh.

Lạy Chúa, xin cho con dám hy sinh cho tha nhân cũng như Chúa đã từng hy sinh cho chúng con. Amen.

 

37. Suy niệm của Lm. Phaolô Lê Văn Nhơn

Một hành trình sống đạo

Tôi muốn nói gì? Thưa: sẽ là chán ngấy, nếu chỉ như một kịch bản diễn đi diễn lại hằng năm. Chúa Giêsu giáng sinh với hình hài bé thơ trong ánh đèn màu. Một thoáng mây trắng bay trên bầu trời trong xanh của dòng Jordan thơ mộng, đã là một người lớn “trạc độ 30 tuổi”. Không phải thế, mùa Phụng vụ là hành trình sống đạo của Hội thánh và của mổi người Kitô hữu chúng ta. Bằng vào sự biến chuyển của thời tiết, loài người trên hành tinh nầy gọi bốn mùa: Xuân Hạ Thu Đông, cứ tưởng chẳng ảnh hưởng gì, nào ngờ….” Một phen xuân đến một phen già”. Không nghi ngờ gì, tạo Hóa đã an bài trong mỗi mùa những chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự sinh tồn và phát triển của muôn loài. Mùa Phụng Vụ, Thiên Chúa toàn năng giàu lòng yêu thương đã tiên liệu những hồng ân đầy đủ để mổi người chúng ta theo đuổi sự nghiệp thánh hóa đời mình. Mùa Giáng Sinh chúng ta đem tất cả niềm tin đón mừng Con Thiên Chúa làm người ,giành cho Ngài một miền đất sống trong tâm hồn chúng ta. Mùa Quanh năm chúng ta đón nhận hồng ân củng cố sự lựa chọn mang tính hiện sinh ấy, và triển nở đến đỉnh cao trưởng thành và viên mãn của Thân Thể nhiệm mầu Chúa Giêsu Kitô.

Lời chứng của Gioan Tẩy Giả

Trong tầm nhìn vỹ mô ấy, Lời Chúa hôm nay muốn xây dựng niềm tin vào Con Thiên Chúa trên chứng từ của thánh Gioan Tẩy Giả ,một cửa sổ đặc biệt có thể mở ra đón ánh sáng Thần Khí ngay từ trong lòng mẹ. Không một con cái người nữ nào trên mặt đất nầy có thể nói như trong mơ rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi làm Phép Rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy và tôi làm chứng: Chính Ngài là Con Thiên Chúa.” Chuyện kể rằng hồi kết của Lời chứng ấy thấm nhuộm máu đào. “ Các môn đệ đem xác Ngài về an táng trong phần mộ”. Tôi không nghi ngờ gì, nhưng quả thật Ngài làm tôi choáng váng vì

Một điều kỳ diệu quá lớn lao!

Đấng Mê-xi-a, cũng gọi là Đấng Kitô, người muôn dân trông đợi,chính là Con Thiên Chúa sao?

Suốt dòng Kinh thánh cựu ước, ngay cả cụm từ Con Thiên Chúa cũng như ngọn đèn khi tỏ khi mờ.Không phải ánh sáng Thần Khí không đủ sáng, nhưng vì tầm trí năng của các ngôn sứ không đủ kích cở để có thể đón nhận và phản chiếu ánh sáng chói chan của Thần Khí. "Cho đến thời Ông Gioan” Tẩy giả, Thiên Chúa toàn năng sáng tạo một cửa sổ đặc biệt ngay từ trong lòng mẹ. Lần gặp gở đầu tiên Đấng Mê-xi-a, Gioan đã nhảy mừng. Bằng một tác động bình thường của thai nhi, em bé thông truyền ánh sáng Thần Khí cho mẹ mình khiến “bà đầy Thánh Thần và thốt lên ôi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Còn hơn một ngôn sứ nữa, ông Gioan là người cao cả, Chúa Giêsu đã nói về thánh Gioan tẩy giả như thế. Trong Phúc Âm của mình thánh Gioan tông đồ cho biết “Gioan không phải là Sự Sáng nhưng Ông đến để chứng minh Sự Sáng”

Lời Chứng của Đức Maria

Thánh Am-brô-xi-ô tập chú vào sự kiện Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-za-bết nơi Tin mừng thánh Luca: “Bà mẹ đón nhận Đức Maria đến thăm,còn người con lại cảm thấy Chúa ngự đến…Con trẻ nhảy mừng, bà mẹ đầy tràn ơn thánh. Không phải bà mẹ được đầy ơn trước, nhưng vì con được đầy tràn Thánh Thần nên cũng làm cho mẹ được đầy tràn”. Được thúc đẩy bởi Thánh Thần Đức Maria vội vã ra đi lên miền rừng núi xứ Giu-đê-a viếng thăm bà chị họ Ê-li-za-bết. Vì lòng bác ái chăng? Đúng vậy, nhưng trước hết để chu toàn sứ mệnh cao cả Thiên Chúa ủy thác. Đức Maria phải có mặt trong biến cố nầy để xác nhận Lời loan báo của Thánh Thần qua vị ngôn sứ của Ngài:”Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Đúng vậy, Thiên Chúa đã ký gởi cho Mẹ Điều kỳ diệu quá lớn lao ấy.

Lời chứng cho chính mình

“Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta”. Thánh Gioan tông đồ đã cẩn thận ghi lại những lời vàng ngọc ấy là vì “để anh em tin mà được sống đời đời”. Con chim Phượng hoàng bay vút thinh không ấy thật diểm phúc: vì “Không ai biết Cha trừ ra Con, cũng không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ Con muốn mạc khải cho”. Lần khởi đi từ Lời Chứng nầy, hồi nhớ về biến cố năm 12 tuổi: Người ở lại trong đền thờ Giê-ru-sa-lem(nơi mà sau nầy Người gọi là Nhà Cha Ta) giữa các nhà thông thái đang nghiên cứu Thánh Kinh, sẵn sàng giải đáp những thắc mắc mang tính hàn lâm cao khiến các ông vô cùng kinh ngạc - Là vì Lời đã làm người mà các ông không hay biết - Điểm sáng bỏ qua cảnh ấy, hội tụ đến một nơi rất quan trọng. Trước sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Giuse (chính xác là dựa vào tình phụ tử trần gian) Lời chính thức loan báo về chính mình:

- “Thầy Mẹ tìm con làm gì? Thầy Mẹ không biết rằng CON phải thu xếp các công việc cho CHA con ư?”(lời dịch của Đức Hồng y Trịnh văn Căn từ Bản Phổ Thông)

- “Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là CON phải ở nơi nhà CHA con sao?”

(Lời dịch của cha Nguyễn thế Thuấn từ bản văn Hy Lạp)

Cơ hồ là một huyền nhiệm ẩn dấu từ muôn thuở. Phải chính Lời tỏ ra khi đến thời gian viên mãn.

Thiên Chúa Cha đích thân Xác nhận

Bước lên từ dòng sông Jordan lửng lờ trôi như dòng lệ sám hối của sứ điệp thánh Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu đang cầu nguyện. Bỏ qua lời thoại giải thích của thánh Matthêô, thánh Luca đi ngay vào quang cảnh Thần hiện:”Trời mở ra và Thánh Thần lấy hình dáng thể xác như chim câu, đáp xuống trên Ngài, và từ trời một tiếng phát ra:

Con là Con chí ái Ta, Kẻ Ta đã sủng mộ

Một nơi khác, Chính Chúa Giêsu xác nhận, Lời ấy phán ra vì anh em có nghĩa là vì sự cứu độ của muôn người, hay diển tả như thánh Gioan tông đồ “Là để anh em tin mà được sống muôn đời”.

Lời Chứng của Hội Thánh

Chính Chúa Giêsu đã tiên liệu Lời chứng mang tính pháp lý nầy,khi dẫn Phê-rô, Giacôbê, và Gioan lên núi Taborê cầu nguyện. Nơi quang cảnh Thần hiện ấy, từ trong đám mây có tiếng phán ra: “Nầy là CON rất yêu dấu của TA, các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời Chứng nầy mang tính pháp lý, vì khi thánh Phê-rô làm chứng điều nầy Ngài đã cố ý dùng từ chúng tôi có nghĩa là Lời chứng có giá trị trước tòa án theo như luật pháp lúc bấy giờ quy định. Lời chứng của ba nhân chứng.

Niềm tin vào CON THIÊN CHÚA

Những Lời chứng trên đây rốt cuộc cũng chỉ là dấu chỉ của đức tin,là lời mời gọi Hãy tin vào Con Thiên Chúa. Thật vậy,có lẽ ai đó còn có nhiều Lời chứng sâu sắc rộng rãi hơn, nhưng khi đối diện với lòng mình tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng sợ hãi. Một sự sợ hãi kinh hoàng bao phủ tôi giống như sự sợ hãi của dân Do-thái khi đứng trước ngỏ cụt, trước là biển cả,phía sau quân thù đuổi bắt!

Trước mặt tôi là vực thẳm tăm tối,nhưng trong tôi vang lên lời thôi thúc: hay tín thác vào bàn tay uy quyền toàn năng như một bàn tay nhiệm mầu đủ sức đưa tôi từ nơi tối tăm kinh hoàng đến nơi ánh sáng kỳ diệu. Tôi đã nhảy vào vực thẳm ấy: Niềm tin vào CON THIÊN CHÚA.

 

38. Sự thật

Có một đứa bé sống ở một vùng xa xôi hẻo lánh nọ. Một hôm, cậu bé thấy có một chiếc phi cơ khá lớn bay qua ngôi làng của cậu. Cậu bé say sưa nhìn ngắm chiếc máy bay cho đến khi nó khuất dạng trên bầu trời. Cậu bé liền chạy vào nhà và hỏi ngay ông bố rằng: "Bố ơi, làm sao người ta có thể bay lên trời để vào chiếc máy bay được hả bố?" Ông bố trả lời với cậu rằng: "Không phải người ta bay lên trời để bước vào máy bay đâu con, nhưng chiếc máy bay phải đáp xuống thì người ta mới có thể bước vào đó được." Và cậu bé đã hiểu!

Câu chuyện đó cũng phần nào cho ta hiểu được Mầu nhiệm nhập thể làm người của Con Thiên Chúa. Con người không thể nào có thể bay lên trời để gặp được Thiên Chúa hay bước vào cung lòng của Thiên Chúa được. Nhưng Thiên Chúa phải bước vào thế gian để cho con người có thể bước vào cung lòng của Thiên Chúa được. Đó cũng chính là mầu nhiệm sâu xa mà chúng ta cần để tâm suy gẫm. Vì yêu con người, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm, trở nên hoàn toàn giống như con người ngoại trừ tội lỗi để con người được gặp gỡ Thiên Chúa, được bước vào cung lòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa từ trời cao bước xuống gian trần để con người gian trần được bước lên trời cao. Đây quả là một mầu nhiệm tình yêu quá lớn lao!

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa bước vào lịch sử của con người để cho con người được đón nhận sự thật về Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về sự thật: Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đã đến trần gian để xoá tội cho con người và cứu chuộc con người. Ông thừa nhận là ông đã không biết Đức Giêsu trong căn tính thật của Ngài: "Tôi đã không biết Ngài". Cách nói "không biết" ở đây không có ý nói rằng Đức Giêsu của Gioan Tẩy giả đối với Đức Giêsu cũng giống như việc "không biết" Đức Giêsu của người Do thái: "ở giữa các ông có một Đấng mà các ông "không biết". Như vậy, muốn nhận biết Đức Giêsu, chúng ta cần phải có ánh sáng của đức tin soi dẫn, cần được giới thiệu và nhất là cần có tấm lòng sẵn sàng mở ra để đón nhận sự thật.

Gioan Tẩy Giả không phải là sự thật, nhưng ông được sai đến để làm chứng cho sự thật. Chính Đức Giêsu Kitô mới là sự thật, là ánh sáng và là sự sống. Khi Gioan Tẩy giả nói về Chúa Giêsu rằng: "Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian" thì ông đã nói lên sự thật về sứ mạng của Đức Giêsu. Đó là sứ mạng cứu chuộc con người tội lỗi và mở đường sự sống cho họ. Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng Messia chính là người tôi tớ được Thiên Chúa tuyển chọn. Sứ mạng của Ngài là mang những tội nhân trở về với Thiên Chúa, về quê hương đích thực của mình.

Đức Giêsu đã khẳng định rằng: "sự thật sẽ giải thoát các ngươi", mà sự thật là chính Đức Giêsu. Nói cách khác, chỉ có Đức Giêsu mới có thể giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi sự nô lệ của tử thần. Vì thế, con người phải tìm đến với Đức Giêsu, phải khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình để được Ngài là Sự Thật xuất phát từ Sự thật giải thoát và cứu chuộc chúng ta.

Sự thật đã đến trần gian này hơn 2000 năm, nhưng ta phải nhìn nhận rằng, con người chưa tin vào Đức Giêsu còn quá nhiều. Con người vẫn còn sống trong tội lỗi, trong nô lệ của tội lỗi quá nhiều; sự gian trá hình như càng ngày càng lớn mạnh và lan rộng khắp nơi.

Tin mừng hôm nay là một nhắc nhở cho chúng ta phải siêng năng tiếp cận với Sự Thật, năng tìm đến với Sự Thật để được Sự Thật giải thoát chúng ta mỗi ngày. Và một khi đã được tìm thấy Sự Thật, chúng ta cũng hãy biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả tận tình giới thiệu cho người khác biết và tìm đến với Sự Thật, để họ cũng được hưởng những ân ban do chính Thiên Chúa ban tặng.

 

39. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA

Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”. Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.

Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.

Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu. Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân. Người Do Thái nhớ đến con chiên. Con chiên đã chết cho họ được sống. Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng. Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.

Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.

Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.

Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn. Xóa là đứng ngoài cuộc. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người. Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ. Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.

Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.

Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) “Chiên Thiên Chúa” gợi lên những ý tưởng nào nơi bạn?

2) Là ‘con chiên của Chúa’ bạn phải sống thế nào cho xứng đáng danh hiệu ấy?

3) Thánh Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với tất cả ý nghĩa sâu xa của danh hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, nếu phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người chung quanh, bạn sẽ dùng danh hiệu nào?

 

40. Giới thiệu Chúa Kitô – ĐGM Giuse Vũ Duy Thống

Nếu khởi đầu Mùa Quanh Năm là sự nhận diện thiên tính của Chúa Giêsu khi Người chịu phép Rửa nơi sông Giođan và cũng là nhận diện phẩm giá Kitô hữu khởi đi từ ngày họ lãnh phép Rửa Tội, thì Chúa Nhật thứ hai Thường Niên được xem như một khai triển phẩm giá ấy về mặt sứ vụ. Thật vậy, đảm nhận cuộc sống làm người và đón nhận cuộc đời làm con Chúa, tín hữu không chỉ sống đơn lẻ mà còn sống giữa những người khác, thế nên nét tươi tắn nhất trong sứ vụ của họ là giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ xung quanh mình. Nhưng vấn đề là phải làm sao để giới thiệu Chúa Kitô cho có hiệu quả.

Dựa trên trang Tin Mừng hôm nay về việc Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ đương thời, ta gặp thấy những tiêu chuẩn xác định hiệu quả cho việc giới thiệu ấy.

1) Giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân

Đây là tiêu chuẩn quan trọng có khả năng đi vào lòng người, bởi lẽ “con người hôm nay ít thích nghe những lời dạy cho bằng nghe những chứng tá” (Gioan Phaolô II). Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một học thuyết, thì dẫu chủ quan mình có nắm vững và say mê, Đức Kitô ấy vẫn chỉ là một lý tưởng còn xa lạ chưa đụng chạm thiết thực với đời người. Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một hệ thống tín điều, thì dù cho có xác tín đến đâu, Đức Kitô ấy vẫn còn xa vời, chưa phải là điểm quy chiếu thiết thân cho cuộc sống.

Thế nên, tiêu chuẩn hàng đầu là cần giới thiệu Đức Kitô như một Đấng mà mình đã tiếp cận, gặp gỡ và kết thân. Hiện nay mình đang sống trong Người như kiểu nói của thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, và do thúc bách bởi sự sống ấy mà mình giới thiệu Người cho người khác. Người là khởi điểm đồng thời cũng là đích điểm cho việc giới thiệu này.

Với kinh nghiệm bản thân, ta giới thiệu sự xác tín của ta vào Đức Kitô và đó cũng chính là sự khả tín của điều ta giới thiệu.

Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã không làm điều gì khác ngoài việc giới thiệu qua chứng từ về một kinh nghiệm ở ngôi thứ nhất số ít: “Tôi đã thấy và tôi xin làm chứng”.

2) Giới thiệu Đức Kitô là Đấng Cứu Độ

Có một thực tế không thể phủ nhận là khi giới thiệu Đức Kitô, thường ta hay rơi vào một trong hai thái cực:

Hoặc quá chủ quan: giới thiệu một Chúa Kitô không như Người là mà như mình tưởng, mình nghĩ. Coi chừng! Thiên Chúa tạo dựng con người “giống hình ảnh Thiên Chúa”, nhưng xem ra con người lại có khuynh hướng nắn đúc một Thiên Chúa theo như mình nghĩ, “giống hình ảnh con người”. Có lẽ chuyện dân Do Thái ở Ai Cập năm xưa lấy hình ảnh bò vàng làm tượng thờ phải được xem như một kinh nghiệm đau lòng.

Hoặc quá chung chung: giới thiệu một Chúa Kitô không minh bạch xác đáng, có nguy cơ giản lược đánh đồng coi Kitô giáo cũng chỉ là một trong nhiều tôn giáo ngang hàng và Đức Kitô không còn là Đấng Cứu Độ duy nhất nữa. Có lần đến thăm nhà một tân tòng, tôi gặp thấy cảnh tổng hợp nhiêu khê: truyền thống gia đình ông bà cha mẹ theo Phật Giáo, con trai theo Tin Lành, cô gái vào Công Giáo, còn cậu em là đối tượng một đảng nên không theo tôn giáo nào. Bà mẹ gia đình nói trổng như muốn phân bua về việc tự do chọn lựa niềm tin của con cái: “Ôi! Đạo nào cũng tốt, đều dạy ăn ngay ở lành cả ấy mà”. Trong suy nghĩ của người mẹ này, Đức Kitô cũng ngồi chung chiếu với những vị cổ võ đạo đức nhân sinh. Thế thôi.

Thiết nghĩ, giới thiệu Đức Kitô là phải trình bày cho thấy Người là Thiên Chúa cứu rỗi nhân loại, là Đấng Cứu Độ trần gian, là Đấng từ trời xuống để đem ơn giải thoát đến tất cả mọi người và đạt tới từng người. Nét độc sáng của Kitô giáo chính là đây. Và Đức Kitô sở dĩ thiết thân đối với người đời bởi Người chính là Đấng Cứu Thế.

Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dứt khoát giới thiệu Đức Kitô cho dân chúng bằng một hình ảnh đặc biệt cho thấy Người là Đấng Cứu Độ: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.

3) Giới thiệu Đức Kitô nhờ Thánh Thần

Giới thiệu Đức Kitô là công cuộc dài hơi, thậm chí là công việc một đời, vì thế đòi hỏi người giới thiệu không chỉ như kẻ chào hàng tiếp thị, mà phải đầu tư để học biết và học hiểu, học tập và học hành, học ngang và học dọc, học tới và học lui; nghĩa là phải nỗ lực hợp tác với ơn thánh bằng vận dụng hết công suất những khả năng Chúa ban mà chu toàn nghĩa vụ cũng là ý nghĩa cuộc đời mình. Ngày nào còn là Kitô hữu, ngày đó còn phải gắn bó và giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Đó là yếu tố thuộc về căn tính.

Giới thiệu Đức Kitô cũng là một công trình thuộc về sứ vụ truyền giáo của mọi thành viên trong Giáo Hội, nghĩa là thuộc về lẽ công bình. Ai đã nhận được lẽ sống Đức Kitô thì cũng canh cánh bên lòng một đòi buộc phải tiếp nối sứ mạng giới thiệu sự sống ấy cho những người mình gặp gỡ trong mọi cảnh ngộ cuộc đời. Chả thế mà sứ vụ cũng đồng nghĩa với sự lên đường. Đồng quà tấm bánh có thể giữ lại chứ sự sống mà giữ lại thì cũng đồng nghĩa với sự thui chột ngột ngạt ngay trong vòng tay ôm chặt của người sở hữu.

Giới thiệu Đức Kitô như thế cũng là cuộc hiến thân làm chứng, đón nhận hy sinh, chấp nhận thiệt thòi, quên mình xóa mình, thao thức miệt mài, “làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”. Không dễ dàng, không dễ dãi và không dễ chịu. Thế nên đó là một công trình sức người tự mình không làm nổi ngoài ơn của Thánh Thần. Vả chăng chính Thánh Thần mới giữ vai trò chủ động trong công trình lớn lao này, còn con người dẫu hết lòng hết sức cũng chỉ là dụng cụ góp phần.

Nếu hôm qua Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dựa vào dấu chỉ Thánh Thần để nhận biết Đấng Cứu Thế: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép Rửa trong Thánh Thần”, thì hôm nay tín hữu cũng dựa vào Thánh Thần để chu toàn sứ mạng giới thiệu Đức Kitô cho người đồng thời với mình.

Tóm lại, giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân, giới thiệu Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế và giới thiệu Chúa Kitô nhờ Thánh Thần. Đó là những tiêu chuẩn giúp cho việc giới thiệu này mang lại hiệu quả mong muốn.

Vì thế, Kitô hữu không chỉ là người mang Chúa Kitô trong mình, không chỉ thuộc về Chúa Kitô mà còn là người phải giới thiệu Chúa Kitô cũng như biết cách giới thiệu Chúa Kitô làm sao cho có hiệu quả nữa. Như một người chào hàng không mệt mỏi, như một chứng nhân luôn trung thành, và như một lẽ sống hạnh phúc, ta quyết chí lên đường.

Trong buổi chia sẻ của những tân tòng lớp trước dành cho lớp sau, một cô gái mười sáu tuổi đã chân thành cho biết lý do mình gia nhập đạo Công Giáo: “Tôi theo đạo vì lúc nhỏ học chung với một người bạn Công Giáo. Bạn ấy rủ tôi đi lễ, tôi đi theo dẫu chẳng hiểu gì. Nhưng vì bạn ấy đối xử tốt với tôi, nhất là trong những lúc ngặt nghèo, nên qua gương sống đức tin của bạn ấy, dần dà tôi hiểu ra lẽ đạo và cuối cùng tôi tìm đến với lớp giáo lý khai tâm, và hôm nay được nhận Bí tích Thanh Tẩy”.

Mong rằng đây không chỉ là chuyện cá biệt mà là chuyện điển hình đã được nhân lên trong mọi cộng đoàn tín hữu.

 

home Mục lục Lưu trữ