Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1367717

TÌNH YÊU VÀ TẤM LÒNG

TÌNH YÊU VÀ TẤM LÒNG (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến

Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.

Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.

Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.

Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “nhơ”, được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.

Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.

Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:

1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những người “trong sạch” ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra “ngoài lề”, những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ… nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?

2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về “tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những “tập tục người xưa”.

3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những “tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.

Người trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”

Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là “tấm lòng”. Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.

Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:

Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.

Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.

Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tất cả các thức ăn đều thanh sạch” (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).

Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:

Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái “Cathare” vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết “Ma-nét” là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn”.

Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương “tự do phong tục”: Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về “điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.

Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.

Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).

Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình .

Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?

Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.

(*)  Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- B

GIỚI RĂN THIÊN CHÚA VÀ TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1/.Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch của tâm hồn

Maccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong “phần nói về bánh”, giữa hai lần bánh hóa nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với những người biệt phái cùng ký lục về “sạch” và “ô uế”, sâu xa hơn, về thái độ kỳ thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì “ô uế”, do đó không được đi lại với những người này.

– Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra “xì căng đan” do các môn đệ Đức Giêsu gây ra: vài người trong các ông “dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa”.

Và Maccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm đúng tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn giáo. J. Potin viết: “Nhờ cả một mạng lưới những chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều nhằm tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì những “sinh hoạt” của cuộc sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với xác chết hoặc với người ngoại, người cùi,… Theo cách nói của các Rabbi (thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ. (Xem “Đức Giêsu, lịch sử đích thực Centurion, 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải có: “Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).

– Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.

+ Chẳng những không tìm cách xin lỗi cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là “những kẻ giả hình”, khi dùng những lời tiên tri Isaia để nói về họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân” (Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những” truyền thống” do cha ông truyền lại (những “truyền thống” của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính giả dối của những kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính mẹ”, đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên, người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!) J. Potin giải thích: “Đó rõ ràng là cách thay thế giá trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả danh tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những Kitô Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa”. (sách đã dẫn, tr.194)

+ Rồi Đức Giêsu quay sang nói với “đám đông”. Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch, ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi kết định của con người: đó là “lòng” họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế”.

Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này không có gì ở ngoài con người có thể làm họ trở nên dơ. Về điều này, Maccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa: đụng một xác chết hay một người cùi ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng đối với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để tách rời họ khỏi Thiên Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p. 125)

+ Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ “trong nhà”. Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận: “Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô uế”.

2/.Từ phân biệt đến cởi mở và thông hiệp:

Chính Maccô giải thích: “Như vậy Đức Giêsu tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”. Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: “Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người sạch, tức người biệt phái (nghĩa từ này là “những người được tách biệt ra”) và bên kia là những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mới. Phần Thiên Chúa, người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái ‘những người sạch và khắc nghiệt’ tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, “những kẻ bị loại trừ” (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v.) Chính điều mới mẻ này sẽ xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. (J. Hervieux, “Tin Mừng thánh Maccô”, Centurion, tr. 103)

– Một lời nói rõ ràng và có sức giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng Maccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân ngoại. J. Potin nhận xét thêm: “Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi trong thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý”. (Sách đã dẫn, tr. 195–196) Qua việc công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.

BÀI ĐỌC THÊM

1/.Giới răn của Thiên Chúa và tập tục phàm nhân. (Nocent, trong “Célébrer Jésus Christ” Editions Univer-sitaires, số 7, tr.20-22)

Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn trong đời sống trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời Cựu ước và trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập tục và giới luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô giáo mới biết đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải trải qua những cám dỗ này.

Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần phải chỉnh đốn. Sách Tông đồ Công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này.

Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy chính Phêrô cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số người. Ông dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với người ngoại giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ “ỡm ờ” này (Galata 2,11-14)

Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật lại: trong lúc Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã dạy ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính ông đã biết: người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo.

Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này; ông đã can đảm giải quyết nó nhưng không phải là không phân vân.

Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết: “ Thức ăn dành cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia”. (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một phán đoán rất quân bình: “ Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”. (14,17)

Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm đúng lúc vì “những người yếu đuối”, Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một thức ăn mà phá hủy công trình của Thiên Chúa” (14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương mù. Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành cho các tín hữu của ông”

2/.Truyền thống là gì?(H. Vulliez, trong “Thiên Chúa rất gần. Năm B”, Desclée de Brouwer, tr.146).

“Những người biệt phái trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn”, nghĩa là không trung thành với truyền thống. Nhưng truyền thống là gì?

Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ (Xh 30,17-21). Các Rabbi biến luật này thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích cho rõ ràng hơn.

Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi người Do thái trước khi họ dùng bữa, “lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều làm một hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế”. Rồi, dựa vào một tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là “Truyền thống”.

Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này, cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và ăn ngoài, Đức Giêsu lập luận: “Không có gì từ bên ngoài trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; chúng chính cái từ con người xuất ra mới là cái làm con người ra ô uế”.

Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài”.

Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy”.

3/.Đức Giêsu giải phóng chúng ta (Mgr Daloz, trong “Vậy, Ngài là ai?”, Desclée de Brouwer, tr.43)

“Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm điểm”, tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm” của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa”. Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài…”

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- B

QUY LUẬT SỐNG CHO MỖI NGƯỜI T HỮU (*)-  Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII nầy đều quy hướng về một đề tài chung: những huấn lệnh của Thiên Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu.

Đnl 4: 1-2, 6-8

Lề Luật diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.

Gc 1: 17-18, 21b-22, 27

Người tín hữu không chỉ đón nhận Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời sống nữa.

Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23

Người ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.

BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)

Tác phẩm nầy chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong bối cảnh hư cấu, trong đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dễ dãi, thậm chí xa đọa.

Bối cảnh hư cấu nầy cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.

1/.Lề Luật là nguồn sống:

“Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…” (4: 1a). Với diễn ngữ thời gian: “Giờ đây”, tác giả muốn nói rằng Lề Luật được công bố không phải chỉ cho các tiền nhân, nhưng cho thế hệ hôm nay, những người đang nghe Lề Luật của Chúa. Biểu thức: “Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe”, được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”, được mượn ở Đnl 6: 4-9.

Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật nầy nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước, tức là đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời nầy là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em” (4: 1b). Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm nầy, những viễn cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.

Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).

Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa nầy tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được các tư tế của vương quốc phương Bắc soạn thảo. Với tư cách những chứng nhân về những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn nầy được cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 tCn.), bị quên lãng một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó, nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 tCn.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.

Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).

2/.Lề Luật bất khả xâm phạm:

“Anh em đừng thêm gì… cũng đừng bớt gì…” (4: 2). Lời căn dặn kép nầy nói lên nỗi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu thức nầy được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ XVIII tCn, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc. Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách nầy! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn nầy, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách nầy” (Kh 22: 18-19).

Thật ra ông Mô-sê không là người công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật, ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.

3/.Lề Luật là lẽ khôn ngoan:

Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Híp-ri To-ra để chỉ Lề Luật).

Trong toàn bộ đoạn văn nầy, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn từ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Huấn Ca: lời mời gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Hc 3: 9; 4: 1).

4/.Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:

“Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại nầy chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh” (4: 6). Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát nầy rất hiếm kể ra trong tác phẩm nầy. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc nầy trở nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.

5/.Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân:

“Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người” (4: 7). Lời khẳng định nầy đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để tôn kính Ngài. Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.

Vả lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng.

BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)

Chúng ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê nầy, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương nhiệm vào thời đó.

Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy-lạp và Rô-ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.

Những lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng đạo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.

1/.Chúa Cha, nguồn mọi ân huệ tốt lành:

Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú” (1: 17a), câu này ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.

 “Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (1: 17b). Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.

2/.Người Ki-tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa.

 “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người” (1: 18). Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.

Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn, phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa” gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.

3/.Đức tin năng động:

Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiển: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và đặc biệt phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt thư nầy.

Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn bản của bức thư nầy. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói nầy vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.

TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)

Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ “Bánh Hằng Sống” được trích từ Tin Mừng Gioan. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.

1/.Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo:

Khi quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.

Vấn đề họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất, vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.

Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở về đời sống thông thường (R. de Vaux).

Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được Thiên Chúa chọn và tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.

Thánh Mác-cô chen vào cuộc tranh luận lời giải thích dài dòng để giúp người đọc hiểu những tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người Ki-tô hữu gốc lương dân. 

2/.Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su:

Chẳng cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên trong.

Vì những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình, Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị lạm dụng nhiều nhất. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ cong một điểm then chốt của Lời Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.

Chúa Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách có hiệu quả hơn: “Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo..”. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”: Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật nầy không chỉ chiếm nhiều phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong cuộc sống thường ngày của mình.

Sau khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.

3/.Ý nghĩa của cuộc tranh luận này:

Bản văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm nhấn thần học mà tác giả nhắm đến là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.

Ngoài ra, đoạn văn này đã được tác giả Mác-cô đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1: 15).

Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng nầy sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục. Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá nầy và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.

home Mục lục Lưu trữ