Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 40
Tổng truy cập: 1366168
TÌNH YÊU VỚI CHAI RƯỢU CANA
Dịp Năm Thánh 2000 Tám Lưu Linh theo vợ đi hành hương ở Lộ Đức về. Tới phi trường, nhân viên quan thuế mở hành lý của ông ta ra, hỏi:
- Cái gì trong mấy cái chai này vậy?
Tám trả lời:
- Nước suối, nước Đức Mẹ Lộ Đức.
Nhân viên quan thuế không tin, mở thử một chai, ngửi:
- Đâu phải là nước, rõ ràng là rượu mà.
Tám Lưu Linh quì xụp xuống, giang rộng hai tay ngửa mặt lên trời, thành khẩn:
- Quả là phép lạ! Xin tạ ơn Đức Mẹ!
Chúng ta không rõ và có thể hoài nghi phép lạ mà Tám Lưu Linh tuyên bố. Tuy nhiên bài Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay ghi lại một phép lạ thực sự, phép lạ đã được Chúa làm cho nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana.
Cách đây ít năm tôi và một số cha bạn có cơ hội hành hương Đất Thánh ở Do Thái và đến thăm nhà thờ tiệc cưới Cana nơi kỷ niệm Chúa làm phép lạ biến nước thành rượu để giúp cho đôi vợ chồng mới cưới khỏi xấu hổ mất mặt vì thiếu rượu.
Trong phần cầu nguyện cha hướng dẫn nhắn nhủ là có thể nhắc tên những người sắp sửa lập gia đình kỳ hè năm đó. Tôi đã nhắc tên một số cặp vợ chồng và cầu nguyện nhiều cho họ cũng như cho các gia đình.
Sau đó ghé thăm tiệm rượu, người ta mời tôi dùng thử rượu cưới, tôi tự nghĩ mình đi tu, độc thân không cưới ai và không ai thèm cưới mình nhưng dù vậy mình vẫn có quyền hưởng rượu cưới chứ và vì nghĩ như thế nên tự thưởng cho mình một ly, thấy rượu cưới ngon ngọt êm dịu thì thôi và lúc đó bị cám dỗ: Không ngờ tình yêu gia đình lại ngon ngọt dịu êm như thế. Biết trước như vậy mình không đi tu nữa xong. Just kidding.
Sau đó tôi mua 5 chai và cha bạn mua 2 chai. Khi mua không nghĩ gì đến chuyện mang về khó khăn, nhưng khi di chuyển từ miền Bắc, từ Nagiaret xuống miền Nam, Bê-lem, và nghĩ đến chuyện mang về Mỹ là cả một công trình, tôi mới bàn với cha bạn: "Thôi mỗi ngày chúng ta mừng nhau một chai và như thế trong 7 ngày chúng ta thanh toán hết và không còn phải lo lắng gì đến chuyện phải mang về khó khăn nữa. Nếu ai có hỏi thì mình trả lời là rượu cưới có nhiều chất alcohol nên đã bay hơi hết rồi." Nói xong làm liền tôi mở ra một chai và chia ra làm hai mỗi người một nửa rồi nói: "Let us celebrate. Nào chúng ta hãy cùng nhau hoan hỉ." Nói thế chứ cũng cố mang về được bốn chai còn lại.
Trong một lễ cưới, tôi dùng chai rượu Cana để làm hình ảnh trình bày chia sẻ về ý nghĩa tình yêu: Chai rượu này quí vì nó chỉ được bán ở một nơi duy nhất trên thế giới đó là Cana. Nó quí vì nó nhắc lại việc Chúa hiện diện trong tiệc cưới làm cho đôi vợ chồng được sung sướng hạnh phúc. Hơn nữa nó còn quí ở chỗ công phu gìn giữ khi phải di chuyển từ miền Bắc nước Do Thái là Cana xuống miền Nam là Bê-lem, và đi lên miền Trung là Giêrusalem và từ Giêrusalem trở về Mỹ an toàn là cả một công trình vất vả khó khăn. Tôi phải lấy vải lấy khăn bọc các chai lại rồi xếp cẩn thận trong vali và lúc nào cũng xách theo mình không dám gửi xe bus hay máy bay vì sợ vỡ.
Cũng như rượu Cana này, tình yêu của các cặp vợ chồng dành cho nhau thật cao quí vì nó phát xuất từ Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu đó còn cao quí vì nó gói ghém sự trao ban trọn vẹn của cặp vợ chồng trao cho nhau. Tuy nhiên cũng như chai rượu này dễ bể dễ vỡ, tình yêu thật cao quí nhưng cũng rất dòn mỏng, dễ vỡ dễ mất, chỉ một chút không để ý, một chút tự ái ích kỷ, một chút kiêu ngạo cố chấp, cũng có thể làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Một buổi sáng khác, tôi chạy bộ trong công viên trước sân nhà thờ ở Rochester, New York. Trong lúc chạy bộ, thấy có nhưng miểng chai thủy tinh vỡ vụn trên lối đi, tôi về nhà lấy chổi ra quét vì sợ có người nào sẽ bị thương vì những miểng chai vỡ. Đang khi quét dọn, tôi liên tưởng tới hạnh phúc gia đình và vấn đề ly dị. Gìn giữ một chai rượu ngon cho khỏi vỡ không phải là chuyện dễ dàng, đòi nhiều hy sinh cố gắng, nhưng đập vỡ chai rượu ngon đó dễ thôi. Chỉ cần ích kỷ lười biếng một chút vất xuống nền xi-măng một cái là đi đoong chai rượu ngon ngay. Đập vỡ chai rượu dễ, tuy nhiên vừa mất rượu ngon, rồi thêm vào đó, những miểng chai vỡ đã có thể gây tai nạn thương tích cho nhiều người.
Gìn giữ chai rượu ngon cũng như gìn giữ hạnh phúc gia đình không phải là chuyện đơn giản dễ dàng. Tuy nhiên đập vỡ chai rượu cũng như ly dị phá hủy hạnh phúc gia đình thật dễ, và rồi giống như những miếng chai vỡ có thể gây tai nạn cho nhiều người, sự ly dị đã đang gây đau khổ phiền toái cho chính cặp vợ chồng đó, cho con cái họ, cho gia đình hai bên cũng như cho xã hội.
Một em bé sau khi nghe xong bài tin mừng hôm nay về việc Chúa tham dự tiệc cưới và đã làm phép lạ cho nước hóa rượu giúp cho cặp vợ chồng mới cưới được sung sướng hạnh phúc, về nhà ông bố hỏi: "Con đã học được gì nơi bài tin mừng đó?" Em bé suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: "Nếu có đám cưới, hãy làm thế nào để Chúa phải có mặt ở đó."
Mời Chúa tham dự chỉ trong tiệc cưới không thôi chưa đủ, còn cần Chúa hiện diện trong cả cuộc sống gia đình. Thiếu rượu, tiệc cưới mất vui, thiếu rượu tình yêu gia đình không hạnh phúc. "Hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình," Chúa muốn đến với rượu tình yêu giúp cho các gia đình sống hạnh phúc, nhưng còn tùy thuộc ý muốn tự do tiếp nhận hay hờ hững chối từ đầy trách nhiệm của con người.
69. Có Mẹ chở che--Lm. Nguyễn Nguyên
Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một cặp thất bại, phải ly dị nhau.
Với bối cảnh đó, tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta hãy tái khám phá giá trị và ý nghĩa thiêng liêng cao quý của đời sống hôn nhân, qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Và qua đó, cho chúng ta một bài học quá rõ ràng: ở đâu có sự hiện diện của Chúa và Mẹ thì niềm vui và hạnh phúc ở đó tràn đầy.
Thật vậy, câu chuyện Tin mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.
Nếu trong đám cưới ngày xưa đã từng hết rượu, thì sống trong đời hôm nay, có biết bao nhiêu lần chén hạnh phúc của chúng ta đã vơi đi, hay đã cạn hết rồi. Men của tình yêu, của niềm vui, của sự thành công, của sung túc không còn. Ngay cả khi tất cả những điều ấy phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương, bằng máu mới có được… Vậy mà chỉ sau một biến cố nào đó, đã mất hết, đã cướp hết, mình hoàn toàn trắng tay, chỉ để lại trong lòng nỗi cô đơn dằn xé, nỗi chán chường đến mức bạt nhược… Những lúc như thế, mỗi người chúng ta cần lắm một lời van xin của Mẹ đến với Chúa “Họ hết rượu rồi”, để Chúa an ủi và ban nghị lực, ban đức tin giúp ta có thể vượt qua những đắng cay cồn cào ấy.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và trong cuộc đời của mình hay không?
Hôm nay, chúng ta đã thấy rõ rồi đó, dù bảo rằng “Giờ của con chưa tới” và đám tiệc còn hay hết rượu thì chẳng có liên quan gì đến chúng ta cả Mẹ ơi, thế nhưng, phép lạ vẫn cứ xảy ra thật. Chúa đã biến nước thành rượu thật. Không chỉ thành rượu, mà còn là rượu ngon. Và đám cưới không chỉ cứ tiếp tục vui, mà còn vui hơn.
Vì thế, chúng ta có thể xác quyết rằng: Lời cầu nguyện của Đức Mẹ là lời hiệu nghiệm và có uy lực. Lời đó mang lại giá trị cho đời sống chúng ta. Nó cho thấy Đức Mẹ có quyền năng trong lời chuyển cầu của mình. Lời chuyển cầu hiệu nghiệm và uy lực ấy rất cần cho chúng ta, vì nó mang lại giá trị cho đời sống, mang lại hạnh phúc cho con người, mang lại những phép lạ lớn lao tưởng chừng như không thể xảy ra. Vì thế, khi tôn thờ Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cũng hãy yêu mến Đức Mẹ. Hãy tâm sự với Đức Mẹ, hãy bày tỏ cuộc đời mình với Đức Mẹ. Vì chúng ta thâm tín rằng, chính trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã trối Mẹ cho Gioan, và Gioan cho Mẹ. Đấy là lúc chúng ta trở thành con cái Mẹ, lẽ nào Mẹ lại không nhận biết những nhu cầu để giúp đỡ chúng ta sao?. Ngày xưa khi còn tại thế, lời cầu của mẹ đã hiệu nghiệm đến thế, huống chi bây giờ Mẹ đang tột cùng vinh hiển bên cạnh Con Mẹ. Mẹ đang vinh hiển, tràn đầy uy quyền, nắm giữ kho báu ân sủng của Con Mẹ, Mẹ lại tiếc với chúng ta sao?. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
70. Niềm vui.
Trong đêm Giáng sinh, chúng ta đã được nghe các thiên thần công bố: Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại, hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra. Thực vậy, Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để ban niềm vui cho mọi người sống trên trái đất. Họ là những người đau khổ, bất hạnh, nghèo hèn, thiếu hơi ấm của tình thương trong gia đình… Hôm nay, chúng ta cũng thấy được vị Thiên Chúa đầy tình thương và nhân ái qua những trang Kinh thánh vừa nghe.
Thực vậy, Kinh thánh đã mượn hình ảnh tiệc cưới có cô dâu và chú rể, để miêu tả việc Thiên Chúa ở giữa nhân loại, thật gần gũi và thân thương. Tiên tri Isaia đã loan báo: Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về, như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.
Hơn thế nữa, qua Tin mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là con người của niềm vui. Ngài luôn vui vẻ và hơn thế nữa, Ngài còn mang niềm vui đến cho mọi người một cách rộng rãi. Giọt nước mắt của bà góa thành Naim đã hóa nên nụ cười khi con trai bà sống lại. Tính ích kỷ của ông Gialêu đã đổi thành tình yêu quảng đại khi đền bù và chia sẻ cho anh chị em. Lòng sám hối của người trộm lành biến thành niềm vui được cứu độ. Và quan trọng hơn nữa, nỗi buồn tủi của chiều thứ sáu tuần thánh trở nên niềm vui dâng trào sức sống của ngày phục sinh…Đặc biệt hôm nay, Ngài cùng với Mẹ Maria và các môn đệ tham dự tiệc cưới ở Cana. Tại đây, Ngài đã dùng quyền năng làm phép lạ cho nước lã biến thành rượu ngon để duy trì niềm vui và hạnh phúc cho đôi bạn trẻ trong ngày quan trọng nhất đời của họ.
Có một cô bé đi thăm ông bác đang bị ốm. Thế nhưng chẳng may giữa đường thì trời đổ mưa và cô bé nhìn thấy một bà lão. Thế là cô bé vội chạy lại che dù và đưa bà lão về nhà. Tới nhà, bà lão nói: Cám ơn cháu. Bà có hai quả dưa. Một quả chín đỏ vừa ngọt lại vừa thơm. Còn quả kia, vừa xanh lại vừa đắng, nhưng lại có công dụng chữa bệnh, cháu muốn quả nào? Cô bé lễ phép thưa: bác cháu đang ốm, cháu xin bà quả xanh để chữa bệnh cho bác cháu. Cầm quả dưa trong tay, cô bé nhanh nhẹn đi tới nhà bác. Ông bác ăn quả dưa xanh, thì lập tức cơn bệnh liền thuyên giảm. Ông bác mỉm cười, vui vẻ cám ơn cô bé.
Noi gương cô bé, và nhất là noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng hãy cố gắng đem niềm vui đến cho những người chung quanh, nhờ đó chúng ta sẽ trở nên là chứng nhân cho Tin mừng của Chúa.
71. Có Chúa, niềm vui sẽ trọn vẹn--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Ga 2: 1-11 Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, vì trong cả ba lễ này, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Nếu Chúa Nhật lễ Hiển linh, Đức Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại qua Ba Đạo Sĩ nơi ngôi sao lạ, để loan báo ơn cứu độ phổ quát cho muôn dân; rồi Chúa Nhật lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, Thiên Chúa Cha giới thiệu Ngài là Con Yêu Dấu và được Chúa Thánh Thần tấn phong, đây là một cuộc mạc khải về thiên tính và sứ vụ nơi Đức Giêsu, thì đến Chúa Nhật này, Đức Giêsu tỏ vinh quang của Ngài cho mọi người dự tiệc cưới qua dấu lạ đầu tiên, đó là: phép lạ nước lã thành rượu ngon.
Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
1/ Tiệc cưới Cana
Tin Mừng hôm nay cho biết, tại làng Cana, miền Galilê có một đám cưới của đôi bạn trẻ. Trong số những khách dự tiệc hôm ấy, có sự hiện diện của Mẹ Maria, Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên. Đây thật là một hồng phúc cho gia chủ và nhất là đôi tân hôn!
Theo văn hóa, phong tục của người Dothái thì nghi lễ thường được được bắt đầu vào lúc mặt trời đã xế bóng. Khi ấy, đôi tân hôn được đưa về nhà mới, nơi họ sẽ ở và sinh sống trong tư cách là vợ chồng. Đến giờ đã định, một cuộc rước linh đình bắt đầu diễn ra. Họ được đưa đi qua các con đường dưới ánh sáng của các ngọn đuốc và có lọng che đầu.
Khi đã về đến nhà, họ ở tại nhà mới của mình và bắt đầu tiếp khách. Thời gian kéo dài khoảng một tuần lễ. Đầu họ đội vương niệm và mặc y phục của lễ cưới. Tuần lễ này có thể nói là tuần lễ vui mừng và hạnh phúc, vì đây là dịp duy nhất của đời người, họ được mọi người kính nể, trọng vọng và trân quý cách đặc biệt.
Trong bầu khí hân hoan đó, người ta không ngại gì tốn kém, và ai nấy ăn uống thoải mái, nào là chén chú chén anh, chén tạc chén thù, chén thương chén nhớ...
Như vậy, rượu dùng để đãi khách là điều hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đám cưới hôm nay niềm vui không được trọn vẹn, vì tiệc đang dang dở thì hết rượu. Đây là điều cấm kỵ trong văn hóa của người Dothái và nỗi tủi nhục ập đến cho gia chủ cũng như đôi tân hôn.
Nhưng, nhờ sự tinh tế, nhạy bén, thấu hiểu và cảm thông của Mẹ Maria, nên Mẹ đã không nỡ để cho gia chủ phải bẽ mặt hổ ngươi, vì thế, Mẹ đã cậy nhờ Đức Giêsu để Ngài cứu nguy cho họ, qua đó, giữ thể diện cho gia chủ!
Khi được Mẹ thông báo, Đức Giêsu cũng một tâm tình như Mẹ mình, nên Ngài đã làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon.
2/ Tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người
Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để mạc khải cho nhân loại biết: giữa Thiên Chúa và dân Người cũng được ví như một tiệc cưới.
Hình ảnh này được ngôn sứ Isaia nhắc đến trong bài đọc I hôm nay:
Dân Israel vốn là một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương, nhưng sự bội ước, bất trung đã làm cho họ phải chịu cảnh nô lệ nơi đất khách quê người, bị chủ nô coi thường, khinh bỉ. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa thì lớn lao hơn cả tội lỗi của con người, nên Người đã cứu dân ra khỏi kiếp lưu đày, thoát khỏi cảnh nô lệ, để từ nay, không còn bị nghe thấy dân ngoại sỉ nhục là: “Đồ bị ruồng bỏ” và xứ sở không còn mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Từ nay, dân Israel thoát ra khỏi lời nguyền khinh miệt, được trở thành một dân tự do trong tiếng vui cười hân hoan. Thiên Chúa và dân Israel được ví như: “... trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo nên ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui của chú rể, ngươi cũng là niềm vui của Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62,5). Như vậy, trong tư cách là hôn phu, Thiên Chúa hằng ân cần chăm sóc, kiêm tâm, nhẫn nại và hết mực yêu thương dân Israel như hôn thê của mình.
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu Kitô được ví như vị hôn phu của Giáo Hội (x. Ep 5,22-23). Hình ảnh này đã được sách Khải Huyền nhắc tới khi đề cập đến tiệc cưới giữa Con Chiên (Đức Kitô) với Giêrusalem trên trời (Giáo Hội) (x. Kh 21,9).
Thật vậy, Đức Kitô đã chọn Giáo Hội làm hôn thê của mình, nên Ngài đã hiến dâng trọn vẹn, ngay cả cái chết trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu Ngài dành cho Giáo Hội.
Sự gắn bó đầy yêu thương này một lần nữa được sáng tỏ trong bài Tin Mừng hôm nay: vì yêu thương, cảm thông và liên đới, nên Đức Giêsu đã làm phép lạ nước lã hóa rượu ngon. Qua sự kiện này, một mặt Ngài bày tỏ quyền năng và vinh quang của mình cho các môn đệ thấy mà tin, mặt khác, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để loan báo một triều đại mới, triều đại của Đấng Thiên Sai, đến để ban phát ân sủng nhằm thay thế cho thời đại cũ vì nó không còn phù hợp.
Như vậy, chúng ta thấy: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau.
3/ Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy biết xây dựng mối tương quan gia đình trên nền tảng tình yêu.
Vợ chồng yêu thương nhau, cha mẹ yêu thương con cái như khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi; như hình ảnh khăng khít giữa Thiên Chúa và dân Israel, như Đức Kitô hiến mình vì Giáo Hội. Đây là tiêu chuẩn, mẫu số cho mọi người Kitô hữu noi theo.
Tuy nhiên, muốn sống được điều đó, chúng ta cần:
Trước tiên, loại bỏ lối sống ích kỷ, vụ lợi, thực dụng để thay thế vào đó bằng thứ rượu tình thương, độ lượng và hy sinh, liên đới, cảm thông và chia sẻ.
Thứ đến, mọi người luôn biết nghe và thi hành Lời Chúa như những gia nhân trong Tin Mừng hôm nay. Thiên Chúa phải là trung tâm của mọi sinh hoạt trong gia đình. Nếu không có Chúa, niềm vui của chúng ta sẽ hão huyền, phù phiếm, mau qua, chóng hết và không trọn vẹn.
Cuối cùng, mọi nỗi khó khăn, vất vả, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, để nhờ Mẹ, chúng ta đến với Chúa là nguồn cội bình an, là đích điểm hạnh phúc, Ngài sẽ ban cho chúng ta được no đủ và hoan lạc, như xưa Ngài đã nhận lời Đức Mẹ mà cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Cana.
Lạy Chúa Giêsu, đời sống của nhiều gia đình Công Giáo hôm nay bị thiếu rượu yêu thương, liên đới và trách nhiệm. Vì thế, gia đình không còn là nơi tiếp nhận và chia sẻ tình yêu.
Xin cho các gia đình của chúng con biết chọn Chúa làm trung tâm của cuộc sống và cho mỗi người luôn được Lời Chúa hướng dẫn, ngõ hầu chúng con được bình an, niềm vui và hạnh phúc. Amen.
72. Cảm thông--Trầm Thiên Thu
Cảm thông là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Cảm thông liên quan lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Đó là biết quan tâm, yêu thương và chia sẻ với người khác. Chúa Giêsu đã cảm thông nên mới “chạnh lòng thương” những con người khốn khổ mà Ngài gặp ở bất cứ nơi nào (x. Mt 9:36; Mt 14:14; Mt 15:32; Mt 18:27; Mt 20:34; Mc 1:41; Mc 9:22; Lc 7:13), và Ngài cũng dạy chúng ta phải như người Samari mà biết xót thương tha nhân (x. Lc 10:29-37).
Như vậy, biết cảm thông là một nhân đức, vì cảm thông có liên đới với các nhân đức và các đức tính khác. Người biết cảm thông tha nhân là người của Thiên Chúa, vì người đó noi gương Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (x. Is 49:10; Is 54:10), là Đấng từ bi và nhân hậu (x. 2 Sbn 30:9; Tv 103:1 & 8; Tv 111:4; Tv 145:8; Gc 5:11).
TẠI SAO CẦN CẢM THÔNG?
Ngôn sứ Isaia bộc bạch: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62:1). Rồi ông cho biết rằng “muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi bằng tên mới là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62:2).
Thật là hạnh phúc vì được chính Thiên Chúa cảm thông mà thương xót, đồng thời còn được là “ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa cầm ở tay” (Is 62:3). Vì thế, chẳng ai còn dám tru tréo là “đồ bị ruồng bỏ!”, ngay cả xứ sở cũng không còn bị tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Nhưng lại được ưu ái gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi! Xứ sở ngươi nức tiếng là duyên thắm chỉ hồng” (Is 62:4). Tại sao? Vì người đó được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở người đó. Kinh thánh ví “như tài trai sánh duyên cùng thục nữ” khi Đấng tác tạo sẽ cưới người đó về, và “như cô dâu là niềm vui cho chú rể”, người đó cũng là niềm vui cho Thiên Chúa (Is 62:5).
Chắc hẳn chẳng còn niềm vui nào lớn lao hơn và tột đỉnh như vậy. Vậy thì im lặng sao được, thế nên phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Chúc tụng và tôn vinh như vậy cũng chưa đủ, vì lời nói phải đi đôi với việc làm. Tác giả Thánh vịnh kêu gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi các dân các nước, dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan” (Tv 96:7-9). Tiếp theo là phải loan truyền cho người khác cùng hưởng niềm vui có Chúa: “Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:10).
Làm gì cũng phải nhờ ơn Chúa, như Đức Kitô đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng có nhiều loại ơn, và mỗi người được nhận theo khả năng của mình: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:4-7). Vấn đề là “vì ích chung”. Vì thế, khi chúng ta được ơn này mà người kia không có thì đừng cho là mình “ngon”, được ơn gì đó là để phục vụ chứ không phải để hãnh diện mà kiêu căng, trách nhiệm tăng theo số ơn nhận được. Ngược lại, nếu mình không được ơn mà người khác được thì đừng ghen tỵ mà đố kỵ. Phải rất tỉnh táo để mà khiêm nhường và cảm thông.
Thánh Phaolô phân tích rạch ròi: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” (1 Cr 12:8-10). Tất cả đồng quy một mối: “Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (1 Cr 12:11).
Thế thì chẳng ai có thể vênh vang tự đắc hoặc biện hộ cho mình bằng bất kỳ lý do gì. Người nào cũng có bổn phận riêng theo ơn mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Mười nén, năm nén hay một nén không là để kèn cựa nhau, mà là để nâng đỡ nhau, cảm thông nhau, và xót thương nhau theo gương Đại Sư Giêsu.
CẢM THÔNG ĐỂ LÀM GÌ?
Chắc chắn cảm thông là để phục vụ: Phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo hội, phục vụ tha nhân. Khi dạy về bài học phục vụ, chính Chúa Giêsu xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Phục vụ là phải “chịu thiệt”, vậy mới khó, chứ ai cũng có thể “chỉ tay năm ngón” – người tài thì điều khiển khéo léo, người kém tài thì điều khiển vụng về, nhưng người ta vẫn có thể ra lệnh và “sai bảo”.
Một lần nọ, Đức Giêsu và Thân mẫu được mời dự tiệc cưới tại Cana, miền Galilê, các môn đệ cũng được mời. Tiệc đang “nóng”, khách đang “hưng phấn” thì rượu bia không còn. Đi mua thì không kịp, vì thời đó phải đi bộ xa lắm phương tiện liên lạc không dễ. Như ngày nay, người ta chỉ cần phóng xe đi trong vòng vài phút hoặc “nhấn nút alô” là xong ngay, khỏi cần tính toán nhiều cho nhức đầu.
Khi thấy họ thiếu rượu, Đức Mẹ đã cảm thông gia chủ và thấy thương họ, nên rỉ tai Con Trai: “Họ hết rượu rồi, con ơi!” (Ga 2:3). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến mẹ con mình? Giờ của con chưa đến” (Ga 2:4). Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn đi nói với gia nhân: “Con Trai tôi bảo gì thì các anh cứ việc làm theo nhé!” (Ga 2:5). Con nói gì thì nói, Mẹ cứ bảo người ta theo ý Mẹ. Điều đó chứng tỏ Mẹ Con rất thông cảm và hiểu nhau, luôn “ăn ý” với nhau, đồng thời cũng chứng tỏ đức tin của mẹ quá mạnh mẽ và vững vàng.
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng 80 hoặc 120 lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” (Ga 2:7). Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (Ga 2:8). Họ liền đem cho ông mà cũng không thắc mắc gì hết.
Khi người quản tiệc nếm thử thì thấy là rượu. Các chum đổ đầy nước mà giờ hoá thành rượu. Lạ thật! Không ai biết rượu từ đâu ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết. Mà không phải rượu thường, đó lại là thứ rượu hảo hạng, vừa ngon và vừa mạnh “đô” lắm. Ôi chao, cứ đổ đồng mỗi chum là 100 lít, vị chi là 600 lít. Lượng rượu này có nước mà vừa bán vừa cho chứ uống gì hết! Ông quản tiệc “đau cái điền”, chả hiểu ất giáp gì ráo trọi. Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (Ga 2:10). Chú rể cũng lắc đầu, bó tay, nhưng hẳn là anh chàng này khoái chí và hạnh phúc lắm.
Thánh Gioan cho biết rằng đây là dấu lạ đầu tiên mà Đức Giêsu đã làm để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Các môn đệ quá đỗi ngạc nhiên, nhưng nhờ vậy mà các đệ tử đã tin vào Đại Sư của mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết cảm thông và yêu thương mọi người, nhất là những con người khốn khổ nhất, để chúng con xứng đáng được Ngài xót thương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
73. Quan tâm đến tha nhân--JKN
Chủ đề: Thiên Chúa cứu chữa điều hư hỏng nên hoàn hảo hơn cả tình trạng ban đầu
Câu hỏi gợi ý:
1. Hôn nhân hay bậc sống đời gia đình - cùng với những vui thú, trách nhiệm, vất vả của nó - có phải là một lối sống được Thiên Chúa mong muốn và chúc lành không? Hay đó là một bậc sống thấp hèn?
2. Trường hợp đám cưới này, nhờ sự can thiệp cứu độ của Đức Giêsu, sự thiếu rượu cuối cùng lại biến thành có rượu mà rượu ấy lại còn ngon hơn rượu trước, khiến cho đám cưới trở nên tốt đẹp hơn dự tính. Điều đó hàm ý nghĩa gì khi có sự cứu chữa hay can thiệp của Thiên Chúa?
3. Vai trò của Đức Mẹ trong bối cảnh này quan trọng thế nào? Sự thường trong hoàn cảnh này, nếu không có Đức Mẹ, thì Chúa Giêsu có ra tay cứu chữa không?
4. Lý do gì khiến Đức Mẹ nhận ra họ thiếu rượu? Mẹ có nhậy bén trước nhu cầu của người khác không? Tại sao Mẹ lại nhậy bén như vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu tham dự tiệc cưới và cứu chữa thế kẹt cho đám cưới
Ngay từ khởi thủy, “Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27), để từng cặp nam nữ sống thân thiện yêu thương nhau, trở nên một với nhau, “cả hai trở thành một xương thịt” (St 2,24). Thiên Chúa muốn họ sống với nhau thành một tổ ấm, một gia đình, để yêu thương nhau, nâng đỡ nương tựa nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, và để sinh con cái hầu duy trì nhân loại đến muôn đời. Vì thế, đôi nam nữ yêu thương nhau, kết hợp với nhau thành vợ chồng, thành gia đình. Họ còn cộng tác với Ngài trong công cuộc tiếp tục sáng tạo con người. Đó là điều hết sức tốt đẹp và thánh thiện, nằm trong kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, đời sống hôn nhân hay gia đình nằm trong kế hoạch đầu tiên - có thể nói kế thượng sách - của Thiên Chúa, tức kế hoạch sáng tạo. Do đó, ơn gọi sống đời hôn nhân và gia đình là một ơn gọi hết sức cao quí. Chính vì thế, phép lạ mở đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, là phép lạ dành cho tiệc cưới Cana. Cả Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ của Ngài cùng tham dự tiệc cưới này. Điều đó nói lên rằng Thiên Chúa - qua con người Đức Giêsu - đã đánh giá bậc sống hôn nhân gia đình rất cao quí, đáng được ủng hộ và chúc phúc.
Có điều đáng tiếc là kế hoạch đầu tiên này đã bị tội nguyên tổ làm hư hỏng, nên Thiên Chúa đã đưa ra một kế hoạch thứ hai là kế hoạch cứu chuộc. Ơn gọi linh mục hay tu sĩ nằm trong kế hoạch cứu rỗi này. Trong kế hoạch cứu chuộc này, theo suy nghĩ của Giáo Hội, thì Đức Giêsu đã lập bí tích hôn nhân trong tiệc cưới Cana này.
2. Kế hoạch cứu chuộc làm kế hoạch sáng tạo thành công tốt đẹp hơn
Trong đám cưới, rượu được đưa ra ban đầu chắc chắn cũng là loại rượu ngon, ngon nhất trong khả năng kinh tế của gia đình đôi tân hôn. Nhưng sự trục trặc đã xảy ra khiến cho nếu không có sự can thiệp cứu chữa của Chúa Giêsu, gia đình đôi tân hôn sẽ bị mất mặt hay mang tiếng, và đám cưới sẽ mất vui đi rất nhiều. Nhưng chính nhờ có sự trục trặc đó mà Đức Giêsu mới ra tay cứu chữa. Và một khi Ngài ra tay cứu chữa thì bữa tiệc lại trở nên vui hơn, tốt đẹp hơn, hơn cả khi không có trục trặc xảy ra. Rượu sau này là loại rượu ngon hơn, chắc chắn khiến khách dự tiệc vui hơn, uống được nhiều hơn, và hài lòng hơn bình thường rất nhiều. Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu.
Công trình sáng tạo của Thiên Chúa hết sức tốt đẹp. Nhưng rồi có sự trục trặc xảy ra do tội lỗi con người. Nhưng sự cứu chuộc của Chúa Giêsu không phải chỉ là sửa chữa cho tình trạng đó đỡ xấu đi, mà chắc chắn sẽ làm cho kết quả cuối cùng còn tốt đẹp hơn là khi không xảy ra trục trặc nào cả. Chính vì thế, trong lễ đêm Phục sinh, Giáo Hội đã không ngần ngại tuyên bố: tội nguyên tổ là một tội hồng phúc. Vì chính nhờ có tội đó mới có kế hoạch cứu chuộc. Và theo sự khôn ngoan và toàn năng của Thiên Chúa, chắc chắn kế hoạch cứu chuộc này không chỉ sửa chữa lại kế hoạch sáng tạo đã bị hư hỏng, mà còn làm cho kế hoạch sáng tạo ấy thành công mỹ mãn, tốt đẹp hơn lên gấp bội. Có hành xử như thế, Thiên Chúa của chúng ta mới đúng là Thiên Chúa cao cả vĩ đại, đầy quyền năng. Và chỉ Ngài mới có thể làm cho điều xấu nhất trở nên tốt nhất mà thôi. Đó chính là lý do để người Kitô hữu luôn luôn sống hân hoan và tràn đầy hy vọng vào tương lai.
3. Sự đồng công của Đức Mẹ trong công việc của Chúa Giêsu
Sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ, và sự can thiệp đặc biệt của Ngài để cứu nguy cho đám cưới ấy là một dấu hiệu hết sức ý nghĩa. Cuộc hôn nhân hay đám cưới (vốn thuộc kế hoạch thứ nhất) đã lâm vào tình trạng nguy khốn (hình ảnh của sự trục trặc gây ra do tội nguyên tổ) đã được Chúa Giêsu cứu chữa một cách hết sức tốt đẹp (kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa đã thành công).
Sự cứu chữa ấy có sự đóng góp hết sức quan trọng của Mẹ Maria: Chúa Giêsu đã thực hiện sự cứu chữa ấy theo yêu cầu đầy lòng thương người của Mẹ mình. Trong công việc cứu chữa đám cưới này, Đức Mẹ đã tỏ ra tư cách của mình là người Đồng Công Cứu Chuộc với Chúa Giêsu một cách hết sức rõ ràng và cụ thể. Công việc chính yếu là do Chúa Giêsu, nhưng nếu không có Mẹ Maria thì sự cứu chữa ấy có thể đã không xảy ra.
Người Kitô hữu cần ý thức hơn về vai trò rất quan trọng của Mẹ Maria trong việc nên thánh và sống đời Kitô hữu của mình. Trong việc nên thánh, những Kitô hữu nào biết cậy nhờ vào sự bảo trợ của Mẹ Maria thì thường là dễ thành công hơn.
4. Mẫu gương quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nơi Mẹ Maria
Lý do khiến Đức Mẹ trở nên Đấng Đồng Công với Chúa Giêsu, chính là tình yêu thương chan hòa của Ngài đối với mọi người, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo. Tình yêu thương ấy đã khiến Đức Mẹ trở nên hết sức nhậy cảm trước nhu cầu, nỗi khó khăn, sự đau khổ cũng như niềm vui, niềm hạnh phúc của người khác. Vì thế, trong đám tiệc, khi chủ nhà sắp hết rượu, Đức Mẹ đã nhận ra ngay nỗi lo lắng của họ, cho dù theo lẽ thường họ cố gắng không biểu lộ ra. Chắc chắn có biết bao phụ nữ cùng đi dự đám cưới ấy đã không nhận ra điều ấy.
Sự nhạy bén đó Mẹ có được là do lòng yêu thương của Mẹ khiến Mẹ luôn quan tâm đến người khác, quan tâm đến từng chi tiết của đời sống. Có thể nói tình yêu luôn luôn phải được biểu lộ bằng sự quan tâm. Mặc dù quan tâm không phải lúc nào cũng là dấu chứng của yêu thương, nhưng chắc chắn rằng không quan tâm thì cũng đồng nghĩa với không yêu thương.
Chúng ta thường nghĩ rằng mình đang yêu thương, đặc biệt những người gần gũi ta nhất: cha mẹ, vợ con (hay chồng con), anh chị em ta. Nhưng có đích thật là ta yêu thương những người ấy không? ta có thật sự quan tâm đến niềm vui, nỗi buồn, niềm mong ước, hy vọng hay nhu cầu của họ không? ta có sẵn sàng thỏa mãn những nhu cầu ấy bất chấp phải hy sinh ít nhiều thì giờ, tiền bạc, sức lực của ta không? ta sẵn sàng tới mức độ nào?
CẦU NGUYỆN
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết bắt chước Mẹ, biết biểu lộ tình thương của con đối với những người chung quanh một cách cụ thể bằng sự quan tâm thật sự đối với những niềm vui, nỗi buồn, những thuận lợi cũng như những bất lợi của họ. Xin đừng để con thường xuyên vô tình, hay cố tình làm ngơ trước những nhu cầu hay những đau khổ của người khác.
74. "Giờ con chưa đến" (Ga 2,4)
Hóa nước thành rượu tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài công khai rao giảng Tin Mừng. Tiệc cưới này thật sự may mắn và hạnh phúc vì có mặt Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ của Ngài.
Phép lạ xảy ra dường như là bó buộc và đột ngột, việc hết rượu giữa buổi tiệc là chuyện của gia đình chủ tiệc, những người dự tiệc chỉ là khách mời. Họ chỉ đến để chia vui, dự tiệc...rồi ra về. Nhưng việc hết rượu trong tiệc cưới Cana này lại trở thành một biến cố quan trọng Chúa Giêsu bắt đầu thực hiện chương cứu độ của Thiên Chúa, chứng minh Ngài là Con Một của Thiên Chúa và đến để thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha. Qua lời ngỏ của Đức Maria với Chúa Giêsu và cho dù câu trả lời của Ngài: "Giờ con chưa đến" nhưng cuối cùng Chúa Giêsu vẫn làm phép lạ.
Phép lạ xảy ra được kết hợp rất nhiều yếu tố: thánh ý của Thiên Chúa muốn bày tỏ quyền năng của Ngài tuy bây giờ nó còn âm thầm, giới hạn ở một gia đình nhỏ, trong tiệc cưới và như trong bài Phúc Âm trình bày có vẻ như Chúa Giêsu chưa sẵn sàng để làm việc này nhưng nó lại là cột móc quan trọng để Chúa Giêsu bài tỏ chính mình. Vai trò của Đức Maria trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và người khác, đó là niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và sự tinh tế, quan tâm đến nhu cầu của người khác. Và thái độ của con người khi sẵn sàng thực hiện ý của Thiên Chúa cách này hay cách khác, qua người này hay người kia. Như vậy phép lạ đãõ xảy ra.
"Giờ con chưa đến", chúng ta vừa nghe rất lạ tai nhưng biết bao nhiêu ý định của Chúa Giêsu muốn thực hiện. Lạ tai vì Chúa Giêsu dường như xa lạ và không quan tâm đến nhu cầu hiện tại của người khác. Đối với mọi người chúng ta, chúng ta nhiều khi nghĩ Thiên Chúa là như vậy thờ ơ và xa lạ với đời sống của chúng ta. Ngài không thấy cái khổ, cái thiếu thốn, cái cần thiết trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa đã thấy trước biết trước cả khi chúng ta chưa nhận ra mình đang cần gì và đang thiếu gì. Bối cảnh của phép lạ cho chúng ta thấy, mọi người vẫn bình thản dự tiệc không biết chuyện gì sắp xảy ra chỉ có Đức Maria biết, Chúa Giêsu biết.
Qua phép lạ hóa nước thành rượu ở tiệc cưới Cana cho chúng ta thêm tin tưởng vào Chúa. có Chúa, có Mẹ Maria đời sống của chúng ta luôn luôn an toàn dù có lúc chúng ta cảm thấy bất an. Có khi nguy hiểm sắp xảy ra nhưng chúng ta không thể nhận ra nhưng cậy dựa vào Chúa, vào Mẹ chúng ta sẽ được che chở và bảo vệ. Nhất là đối với mọi nhu cầu cần thiết trong cuộc sống chúng ta vẫn luôn được các Ngài quan tâm và giúp đỡ. Có Chúa, có Mẹ chúng ta sống nhẹ nhàng và hòa mình để sống trọn vẹn cuộc sống ở trần gian này.
75. Tiệc cưới Cana--Lm. PX. Vũ Phan Long
Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
1.- Ngữ cảnh
Về đoạn văn Ga 2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana mở ra một phân đoạn mới (gọi là “Sách các dấu lạ”, ch. 2–12) hoặc khép lại một bài tựa mang tính tường thuật (1,19–2,12)?
Chúng tôi chọn đặt truyện Cana vào cuối bài tựa tường thuật. Trong ch. 1, sau Bài Tựa (1,1-18), tác giả giới thiệu gương mặt vị Tẩy Giả, vị chứng nhân, “bạn của chàng rể” (3,29), người ban phép rửa để “Người [= Đức Giêsu] được tỏ ra cho dân Ít-ra-en” (1,31). Sứ mạng của Gioan là bày tỏ chân tính thiên sai của Đức Giêsu. Vì lý do này, Anrê và một môn đệ nữa đã đi theo Thầy (1,35-40). Anrê lại đi gặp Simôn và bảo: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (1,41); chuyện cũng như thế đã xảy ra với Nathanaen (1,45-51). Tất cả kết thúc tại Cana, với việc chính Đức Giêsu tỏ vinh quang ra (2,11).
Còn có những lý do khác khiến phải đi theo chiều hướng này. Có thể kể ra hai lý do: 1) Cách tính các ngày làm thành một tuần. “Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình” (1,29). “Hôm sau ông Gioan lại đứng đó” (1,35). “Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê” (1,43). Cuối cùng, “ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền Galilê” (2,1). Đây đúng là một tuần, và tiệc cưới đã xảy ra vào ngày thứ bảy. 2) Cần ghi nhận việc tác giả tích lũy các danh hiệu Kitô học. Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (1,29.36), “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (1,33), là “Rabbi” (1,38.49), là “Đấng Mêsia” (1,41), là “Con Thiên Chúa, vua Ít-ra-en” (1,49). Rõ ràng các danh hiệu này là một tổng hợp việc mạc khải mầu nhiệm Đức Kitô. Điểm tới của cụộc tỏ mình này là Cana: “Đức Giêsu tỏ vinh quang của Người” (2,11). Việc Đức Giêsu tỏ mình ra tương ứng với việc các môn đệ đáp lại: “Và các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Tới đây, cộng đoàn các môn đệ gồm những người tin đã thành hình; Đức Giêsu có thể bắt đầu đời sống công khai.
Vậy có thể coi đây là Dẫn nhập bằng một dấu lạ lịch sử: Truyện Tiệc cưới Cana kết thúc phần Dẫn nhập và đưa vào “Sách các dấu lạ của Đức Giêsu”, nên có thể gọi là đoạn văn “làm cầu”.
2.- Bố cục
Bài tường thuật được giới thiệu như là một “dấu lạ”, nên có thể tìm bố cục theo cách cấu trúc cổ điển của các phép lạ. Nhưng chúng ta có thể tìm ra bố cục theo cấu trúc đồng tâm sau:
A = Phần tường thuật (2,1-3);
B = Các đối thoại (2,4-8):
Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu,
Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn,
Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn;
A'= Phần tường thuật (2,9-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ngày thứ ba (1): Chi tiết thời gian này có mục đích nối kết phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu với núi Sinai (Xh 19,1.10-11.16) và cuộc Phục Sinh (Ga 2,19-22; x. 7,30; 8,20...).
Như thế, Cana một đàng là phiên bản của những gì đã xảy ra tại núi Sinai, đàng khác, là một lời tiên báo mào đầu cho mạc khải tối hậu phát xuất từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
- tại Cana miền Galilê (1a và 11a): Trong Tân Ước, thành này chỉ được Ga nhắc tới (x. cả 21,2). Thông thường người ta nghĩ đến Khirbet Qana, cách Nadarét 15 cây số. Đây là nơi hẻo lánh, không mấy quan trọng.
- Có tiệc cưới: Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần (ba ngày: trường hợp một quả phụ tái giá). Khung cảnh tiệc cưới nối kết câu truyện Cana với đề tài quen thuộc trong Cựu Ước: hôn lễ của Đấng Mêsia với Dân Người. Trong TM IV, Gioan Tiền Hô sẽ giới thiêu Đức Giêsu là chàng rể (3,29); còn trong các TMNL, Đức Giêsu tự coi mình là chàng rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34), và đã mô tả Nước Trời như một tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng, sách Kh cũng vận dụng tới đề tài này để diễn tả sự kết thúc thời hiện tại và sự khai mở thời tương lai (Kh 19,7-9; 21,2; so với Ep 5,22tt). Theo tập tục, chính chàng rể cung cấp rượu (x. c. 10).
- có thân mẫu Đức Giêsu: Đức Trinh Nữ được giới thiệu là “thân mẫu Đức Giêsu”, rồi ở c. 4, Đức Giêsu lại gọi mẹ là “bà”. Một sự cố tương tự lại xảy ra trên Núi Sọ trong Ga 19,25-27; như vậy, câu truyện Núi Sọ có những điểm chung với câu truyện Cana. Có thể coi hai câu truyện này làm nên một thứ cấu trúc “đóng khung”.
- Họ hết rượu rồi (3): Người ta đã muốn coi lời này chỉ là ghi nhận một sự kiện. Tuy nhiên, có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó.
- Thưa bà (gynai) (4): Một người Do Thái gọi mẹ là 'immâ, “mẹ của con”. Vì thế danh hiệu “bà” (gynê; femme, woman) được Đức Giêsu dùng mà gọi Đức Maria có vẻ kỳ lạ. Trong thực tế, Đức Giêsu cũng sử dụng danh xưng ấy để gọi các phụ nữ khác trong TM IV (4,21: bà Samari; 20,13: bà Maria Mácđala) và trong các TMNL (Mt 15,28; Lc 13,12). Dù sao, đối chiếu với Ga 19,25-27, danh xưng này không thể có một ý nghĩa tiêu cực. Rất có thể qua tiếng “bà” (E. Farahian đề nghị dịch trong tiếng Ý là “signora”), Đức Giêsu đề ra một cách công khai hơn để gọi mẹ ruột của mình tại nơi công cộng. Ngoài ra, với từ ngữ này, chắc chắn ở bình diện biểu tượng, có một gọi ý đến cuộc tạo dựng: Đức Maria xuất hiện ra như là Evà mới, hoặc hơn nữa, như là đại diện của dân Israel, hoặc tốt hơn nữa, như là Israel đích thật.
- Chuyện đó can gì đến bà và con? (4): dịch sát: “Giữa tôi và bà, nào có việc gì?” (NTT). Ti emoi kai soi (Hp: mah-li wâlâk): Đây là cách diễn tả quen thuộc trong văn chương Hy Lạp, Rô-ma và Sê-mít để diễn tả sự ưng thuận hoặc bất thuận giữa hai hoặc nhiều người. Chỉ có văn cảnh mới giúp thấy rõ các sắc thái của mỗi trường hợp.
- Giờ của con chưa đến (4): Nếu quan tâm tới ý nghĩa của thuật ngữ “Giờ của Đức Giêsu” theo TM Ga, và tới giá trị biểu tượng của rượu, chúng ta sẽ thấy rõ. “Giờ của Đức Giêsu” là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh; còn rượu tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1).
- Rượu (3): Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta các ý nghĩa của “rượu”.
* Thời thiên sai và cánh chung:
Các ngôn sứ nói rằng khi Thiên Chúa quy tụ con cái tản mác lưu đày về và cho họ được định cư, rượu và các sản phẩm khác sẽ được ban cho họ dư dật (Am 9,13; Ge 2,24; Gr 31,12; Ge 2,19-16). Rượu này lại có phẩm chất rất tốt (Hs 14,8; Is 25,6; Dcr 9,17). Rượu và sữa được tặng không (Is 55,1). Trong Hs 2,21-22 và Is 62,5, sự phì nhiêu của hoa mầu ruộng đất được ghép vào hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Cuộc hôn nhân này tượng trưng Giao Ước mới ký kết với con cái Israel, được quy tụ về (Ge 31,8-10.31-37). Có hai bản văn trực tiếp mang tính thiên sai, St 27,28-29 và St 49,10-12: Thời đại thiên sai được mô tả bằng một giọng văn đầy hình ảnh: “rượu mới dồi dào” (St 27,28); muốn buộc con lừa, Đấng Mêsia chỉ có dây nho; muốn giặt áo, Người chỉ có rượu; và rượu làm cặp mắt Người ngời sáng (St 49,11-12).
Trong Diễm ca, “rượu” được dùng 8 lần để tượng trưng tình yêu nồng nàn của đôi nam nữ (Dc 1,2-4; 2,4; 4,10; 5,1; 7,3-10; 8,2).
* Rượu và Lời Thiên Chúa:
Trong Cựu Ước, Luật Môsê (hoặc Lời Thiên Chúa) được đặt trong quan hệ với rượu, trong hai đoạn: Gr 23,9 và Cn 9,25. Sự Khôn Ngoan đã dọn tiệc và mời khách, thật ra là Luật Môsê. Theo truyền thống Kinh Thánh, vị hiền nhân là người suy gẫm và đào sâu Torah. Và rượu của sự Khôn Ngoan là Luật Thiên Chúa. Trong Hc 24,17, sự Khôn Ngoan lại tự ví mình với một cây nho (x. Ga 15,1). Như vậy, ta có chuỗi các khái niệm: Torah = Khôn Ngoan = cây nho = rượu.
* Rượu là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích:
a) Truyền thống Do Thái giáo:
Rượu còn được coi như là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích: Vị này được người ta chờ mong như một vị thầy chuyên môn về Luật Môsê (x. Targ Dc 8,12). Còn khi bản Midrash St R 98,9–49,11 nói rằng Đấng Mêsia “... giặt áo mình trong rượu” (St 49,11), điều này có nghĩa là Người sẽ viết lại những câu Luật cho người nhà mình, tức sẽ đề nghị những ý nghĩa và lối giải thích Torah. Còn Người giặt “áo choàng trong máu của nho”, có nghĩa là Người sẽ sửa chữa các lối giải thích sai lạc.
b) Tân Ước: x. Mt 5,17.21-22.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44. Các TMNL ví giáo huấn của Đấng Mêsia với rượu mới, Đức Giêsu là chàng rể của lễ cưới thiên sai. Rượu mới tượng trưng cho Tin Mừng của Người, Mạc khải của Người; rượu này không thể pha trộn với rượu cũ của Do Thái giáo (Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39).
* Giá trị biểu tượng của rượu Cana:
Trong thần học Gioan, Lời của Đức Giêsu là “Sự Thật” (Ga 8,31-32; 18,37; 17,8.14.17..), và điều quan trọng là Lời này được đồng hóa với chính Đức Giêsu: “Thầy là Sự Thật” (14,6; x. 8,32-26). Tin Mừng của Đức Kitô được nhập thể cách rõ ràng nhất nơi bản thân và trong những biến cố liên hệ tới bản thân con người đang loan báo Tin Mừng này, là Ngôi Lời làm người: “Thầy là ánh sáng, bánh ban sự sống, sự sống lại, sự sống...”. Vậy, Lời của Đức Kitô là Mạc khải của Người, Tin Mừng của Người.
Chúng ta nói “rượu” tượng trưng Lời Đức Kitô là do những nhận định sau:
1) Cặp mẫu Sinai – Cana:
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan (1,19-2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với chóp đỉnh là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người.
2) Động từ “giữ” (c. 10):
Người quản tiệc nói với tân lang: “... Còn anh, anh lại giữ (HL. tetêrêkas) rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. Động từ “giữ” là động từ tiêu biểu của từ vựng Gioan khi đề cập đến Lời–Điều răn của Đức Giêsu, và Lời này là Lời của Chúa Cha. Tác giả Gioan đã dùng động từ ấy theo nghĩa này ít ra 25 lần (8,51-52; 14,23; 15,20; 17,6; Kh 3,8 / Kh 3,10 / 14,24 / 1 Ga 2,5 = 8,55 / Kh 1,3; x. 22,7.9 / Kh 2,26 / 1 Ga 2,3; 3,22.24; 5,3 / Kh 12,17 / Kh 14,12. Lưu ý: Mc chỉ dùng 1 lần (Mc 7,9); Mt 3 lần (Mt 27,36.54; 28,4); Lc 1 lần (Cv 15,5).
3) Nước thanh tẩy của tập tục Do Thái:
Rượu Đức Giêsu ban lại lấy từ nước đựng trong các chum dùng vào “việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái” (c. 6). Nước này không phải là nước phàm tục, mà là nước dùng trong nghi lễ, để thanh tẩy các thực khách (x. Mc 7,2-5; Mt 15,2; Lc 11,38-39). Chính nước này được Đức Giêsu biến thành rượu. Điều này có nghĩa là kể từ nay, “việc thanh tẩy” không còn được nối kết với việc giữ Luật Môsê nữa (tượng trưng bằng nước trong sáu chum), mà là với việc giữ Tin Mừng của Đức Kitô, giữ Lời của Người (tượng trưng bằng rượu ngon).
Thật ra, đây là giáo lý của tác giả Ga về việc “thanh tẩy”. Các môn đệ được “thanh tẩy” nhờ Lời Đức Giêsu đã loan báo cho họ (15,3). Sứ điệp mạc khải của Đức Kitô là Sự Thật có thể giải thoát các môn đệ khỏi nô lệ tội lỗi (8,32.34-36). Người nào ở lại trong Đức Giêsu, bằng cách đón nhận Tin Mừng của Người (Ga 15,7; 1 Ga 3,6) thì không phạm tội nữa, mà được thánh hóa (1 Ga 3,6). Lời Đức Giêsu giống như một hạt giống (1 Ga 3,9; x. Lc 8,11; 1 Pr 1,23; Gc 1,18; 1 Cr 4,15). Nhờ tác động của Lời, người môn đệ có thể thắng sự dữ và ít sa vào tội lỗi hơn (1 Ga 2,14). Đây là cách Đức Giêsu “xóa bỏ tội trần gian” (1,29): Người “thanh tẩy” con người bằng Lời Sự Thật của Người.
4) Rượu Cana, biểu tượng của mạc khải cánh chung của Đức Kitô:
Rượu Cana không những là hình ảnh của Lời mạc khải của Đức Giêsu, mà còn diễn tả chiều kích cánh chung của Lời này, trong tư cách là Lời tối hậu và vĩnh viễn.
Chẳng hạn Ga 1,45: Philípphê nói với Nathanaen: “Đấng mà Sách Luật Môsê và các Ngôn Sứ nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét”. Từ Môsê và các Ngôn sứ, ta chuyển qua Đức Giêsu. Đây là điều đã được nói ở 1,16-17. Dấu lạ Cana là một sự chuẩn nhận mang tính ngôn sứ cho niềm chờ mong cánh chung xoáy vào con người Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu ra lệnh đổ các chum “đầy tới miệng” (c. 7), điều đó không chỉ có nghĩa là đổ nhiều tối đa, nhưng đặc biệt có nghĩa là “hoàn toàn”. Sau Đức Kitô, không còn có chuyện “còn nữa”, “sau đó” hoặc “thêm nữa”. Lời Người làm đầy mức Mạc khải. Lời Người là “nguồn sung mãn” (1,16). Tuy nhiên, sự sung mãn của Đức Kitô được thêm vào cho một mức độ có trước (x. Dt 1,1). Rượu Người cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Nhiệm cục Luật Môsê bị vượt quá về chất lượng bởi Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn “mới” (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (HL. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassô).
Những gì xuất hiện tại Cana là như hình ảnh của một mở đầu, thì được kiểm chứng trong TM IV bởi những mẩu đối thoại khác, trong đó nhắc lại sự cao trọng của Đức Giêsu và những ân ban của Người, so với những nhân vật hoặc những định chế của Cựu Ước: hơn Giacóp (4,12), Môsê (5,46; 6,32-35), Abraham (8,58), Đền Thờ (2,19-21; x. 4,21-23), Gioan Tẩy Giả (1,26-33), như Gioan đã tuyên bố (3,29-30): “... Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi (Hl. elattousthai; từ này cùng một ngữ căn với elassô, 2,10)”.
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại “cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ “cho đến bây giờ” (HL. eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
5) Quan hệ giữa rượu Cana với “ngày thứ ba” và “Giờ của Đức Giêsu”:
Cuối cùng, các thuật ngữ “ngày thứ ba” (c. 1) và “Giờ của Đức Giêsu” đưa lại cho dấu lạ Cana một ý nghĩa cánh chung: cả hai thuật ngữ quy hướng về những biến cố cuối đời của Đấng Cứu thế, về cuộc Khổ Nạn quang vinh của Người.
Yếu tố “rượu” cũng có một vai trò trong chiều hướng cánh chung này. Chúng ta nói rằng “rượu” tượng trưng cho Sự Thật Phúc Âm đã được Đức Giêsu rao giảng, và đã nhập thể nơi chính bản thân Ngôi Lời nhập thể. Thế nhưng lời cuối cùng của sứ điệp này, nghĩa là việc mạc khải hoàn toàn về chân tính của Đức Kitô, chỉ nên rõ khi Đức Giêsu đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). “Vào ngày ấy”, các môn đệ biết rằng Đức Giêsu bằng Cha Người trong thần tính (14,20a; x. 10,31-33; 5,18), và Người liên kết họ với Người trong sự hiệp thông với Cha Người (14,20b). Đây là ngày xảy ra Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa và loài người để tiếp nối và hoàn tất Giao Ước cũ.
Sau Phục Sinh, Tôma nhận biết Đức Giêsu là “Đức Chúa và Thiên Chúa” của ông (20,28); nơi Người, được thực hiện lời hứa thường được các Ngôn sứ nhắc lại: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi”.
Trong thời của mầu nhiệm Phục Sinh ấy, Mạc khải không còn được truyền đạt bằng dụ ngôn hoặc hình ảnh nữa (16,25). Nay đã được Thánh Thần hướng dẫn (16,13-14), các môn đệ không còn dám hỏi: “Người là ai?” nữa (21,12; x. 16,23). Kể từ nay, các ông biết Người là “Đức Chúa, Kyrios” (21,12).
Lời Phúc Âm (được tượng trưng bằng rượu Cana) nay rực sáng lên nơi Đức Kitô quang vinh.
- Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo (5b): Có lẽ Đức Maria không hiểu những lời Đức Giêsu nói. Mẹ cũng giống như những người khác trong TM IV, ở tại một bình diện hết sức cách biệt với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định.
- Mỗi chum chứa được khoảng hai hoặc ba thùng (6. NTT): Một metrêtês (mesure) khoảng 40 lít (Hp: êpah, éphah).
- Người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (9c): Dọc theo TM IV, ý tưởng này: 'không biết nguồn gốc Đức Giêsu và Vương quốc của Người (x. 18,36)' tái xuất hiện dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: 3,8; 4,10; 6,41; 9,29.30; 7,26-27 (x. 19,9).
Đức Giêsu vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người khi xảy ra biến cố Khổ Nạn–Chết–Sống lại (x. Ga 7,33-35; 8,21-23; 23,36; 16,5.28). Đây sẽ là một mạc khải vĩ đại có sức soi sáng các tín hữu và làm cho những kẻ không tin phải bẽ mặt (1,51; 2,18-19; 3,11-15; 5,17.20; 6,62; 8,28; 12,32; 14,19-20).
- Còn gia nhân đã múc nước thì biết (9d): Câu này không chỉ là một ghi nhận về sự kiện. Các “gia nhân” là những người đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9).
Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa cho người giữ các điều răn của Người (14,21). Như vậy, Đức Giêsu tỏ mình ra cho ai yêu mến Người bằng cách đưa Lời Người ra thực hành. Người sẽ cùng với Chúa Cha đến lập cư nơi người ấy (14,23). Ai yêu mến Đức Kitô là gia nhân đích thật của Người, Chúa Cha sẽ “quý trọng” (tôn vinh) kẻ ấy (12,26).
Ba thành ngữ sau đây liên hệ với nhau: “phục vụ Đức Kitô – Vâng theo Lời Người – Đức Kitô tỏ mình ra”. Ai “phục vụ” Đức Giêsu, “vâng theo điều răn của Người” (và ngược lại), Đức Kitô sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Gia nhân ở Cana đã chứng nghiệm điều trên rõ ràng. Họ được biết “rượu ngon” (= một phương diện của thực tại Đức Kitô) “từ đâu đến”, chính là vì họ đã vâng lời Đức Giêsu mà múc nước đổ đầy các chum. Thánh Gioan có nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1 Ga 2,3).
Trong TM IV, hai viễn tượng lịch sử và thần học thường lồng vào nhau. Như vậy, các câu 7c, 8d, 9d đã giới thiệu các “gia nhân” ở Cana như là điển hình cho đời “phục vụ–vâng lời” mà Đức Kitô đòi hỏi trong Giao Ước mới (x. Ga 13,34; 15,14).
- ông gọi tân lang lại và nói...(9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”.
Trong TM Ga (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm “bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. “được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30).
Sách Khải huyền cũng ca tụng lễ cưới của Chiên Con với Giêrusalem mới (19,7-8; 21,2).
Vì tác giả TM trình bày Dấu lạ Cana phỏng theo những truyền thống về Núi Sinai, ta có thể nhớ rằng Giao Ước Sinai đã được trình bày dưới biểu tượng hôn lễ kể từ nền văn chương ngôn sứ (x. Hs 2,16-25; Is 50,1; 54,4-8; 62,4-5; Gr 2,1-2; 3,1-13...). Trong khối Tân Ước có trước Ga, ta có thể kể ra: Mt 22,1-14; 25,1-13 (Các dụ ngôn về Nước Trời như tiệc cưới); Mc 2,18-20 (Đức Giêsu tự giới thiệu như là “Chàng Rể”); 2 Cr 11,2; Ep 5,25-33 (Đức Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền Thê).
Loại hình ảnh biểu tượng này được dùng rất phổ biến trong truyền thống Do Thái giáo. Chính thánh Âutinh đã viết: “Hôn phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của Đức Chúa hiện thân...”.
- Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này (11a): Nhiều nhà chú giải (C.K. Barrett; Olsson) ghi chú rằng tác giả TM coi phép lạ Cana không những như là dấu lạ “đầu tiên”, mà còn như điển hình của các dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện. Bởi vì Người đã viết: “Tautên epoiêsan archên tên sêmeiôn Iêsous...” (NAB: Jesus did this as the beginning of his signs; TOB: Tel fut... le commencement des signes de Jésus; NTT: Dấu lạ đầu hết này, Đức Giêsu đã làm...). Từ ngữ archê (khởi đầu, bắt đầu) gây ra một số khó khăn; vì thế người ta đã đưa vào những dị bản, chẳng hạn prôtên (= thứ nhất).
Dường như trong Ga, từ archê không có nghĩa là khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, như trong Lc (3,23; Cv 10,37), cũng không phải là lời rao giảng của Gioan Tiền Hô trong hoang địa (Mc 1,1), thậm chí cũng không phải là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Nhưng từ ấy có nghĩa là khoảnh khắc chính xác mà Đức Giêsu bắt đầu tỏ mình ra cho các môn đệ (x. Ga 15,27; 16,4; 1 Ga 1,1-3). Vậy việc mạc khải tiệm tiến của Đức Giêsu khởi sự tại Cana miền Galilê, và được tiếp tục dọc theo sách Tin Mừng (x. Ignace de la Potterie). Origiênê gọi dấu lạ Cana là “prohêgoumenon sêmeion”, một dấu chỉ “ưu việt”. Zerwick & Grosvenor giải thích: “such was the first of the signs that Jesus did; Jesus did this as his initial sign”.
Vậy rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu lạ đầu tiên”, mà cũng còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người.
- và bày tỏ vinh quang của Người (11b): Động từ “bày tỏ” (HL. phaneroô; manifester; make clear/visible, show) cũng là động từ tiêu biểu của từ vựng Ga. Tác giả ưu tiên dùng động từ này để nói về “mạc khải” (x. Ga 1,31; 2,11; 3,21; 7,4; 9,3; 17,6; 21,1; 1 Ga 1,2; 2,19; 3,2; 4,9).
Còn ý nghĩa của từ “vinh quang” (HL. doxa) được rút từ Cựu Ước. Theo nghĩa đen, từ Híp-ri kabôd hàm chứa một ý tưởng về “trọng lượng” (động từ kabêd: cân nặng). Theo nghĩa bóng, từ này có nghĩa là “trọng (quan trọng, trọng đại)”, nghĩa là “giá trị”, “tầm quan trọng” của một hữu thể, “sự tôn kính” mà hữu thể ấy gợi ra; tóm, là “bản tính”, “bản lĩnh (nhân cách)” của kẻ ấy, dù kẻ ấy là ai.
Thế mà trong truyền thống Cựu Ước, Đức Chúa (Yhwh) mạc khải “vinh quang” của Ngài ra bằng những biểu lộ bên ngoài của chính bản thân Ngài, nghĩa là xuyên qua “những việc vĩ đại”, “những việc kỳ diệu” (= phép lạ) được thực hiện trong cuộc Tạo dựng và trong Lịch sử Dân Ngài (x. Tv 19/18B,2; Ds 14,21.22; Xh 14,18; 16,7; 24,25t; 29,43; 40,34; 1 V 8,10t...). Con người có thể hiểu rõ hơn Đức Chúa là ai hoặc “vinh quang” của Ngài là thế nào, khi suy nghĩ về sự tỏa rạng của bản thân Ngài trong công cuộc tạo dựng và trong lịch sử Dân Thiên Chúa tuyển chọn.
Tại Cana, Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên như một biểu lộ đầu tiên về “vinh quang” của Người, một khởi đầu cho công cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Người. Các tông đồ có hiểu gì chăng?
* Trước Phục Sinh, và chính xác hơn, vào ngay ngày các môn đệ được chứng kiến dấu lạ Cana, dĩ nhiên các ông không thể hiểu thấu bí mật sâu xa của chân tính Đức Kitô. Các ông không thể nắm được tính siêu việt của chân tính này. Cứ cho đi là niềm tin của các ông được khơi lên bởi một phép lạ–dấu chỉ, thì muốn hợp lý, nên suy ra là cũng như đối với Nathanaen, niềm tin ấy có đối tượng là tư cách Mêsia của Đức Giêsu (x. Ga 1,47-50; rồi 7,31; 10,41-42; 12,37-42).
* Sau Phục Sinh, Hội Thánh được soi sáng trọn vẹn về mầu nhiệm Đức Giêsu. Thế là khi nhớ lại những gì đã xảy ra tại Cana, tác giả Gioan (cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu) đã hiểu rằng, ngay ở dấu lạ đầu tiên này, Đức Giêsu đã bắt đầu tự mạc khải ra như “Hôn Phu thần linh của tiệc cưới thiên sai”, tiệc cưới của Giao Ước mới, trong đó sẽ được chứng thực “ngày thứ ba” của Phục Sinh, khi “Giờ của Đức Giêsu”đã đến (x. Ga 14,20).
Phụng Vụ lễ Hiển Linh chú giải thật đúng hình ảnh biểu tượng mang tính ngôn sứ của Cana, khi hát lên Điệp ca của Thánh ca Benedictus: “Tân Nương là Giáo Hội, ngày hôm nay được phối hiệp cùng Đức Kitô, vị Lang Quân thống trị Nước Trời... Nước hóa rượu ngon, làm vui lòng thực khách”.
- Các môn đệ đã tin vào Người (11c): Trong TM IV, đề tài “đức tin” là đề tài căn bản. Động từ “tin” (HL. pisteuô có 3 cách dùng:
- tin “ai” (HL. pisteuein tini) nghĩa là chấp nhận lời người ấy là thật: 2,22; 4,21-50; 1 Ga 3,23;
- tin “vào ai” (HL. pisteuein eis tina) hàm ý gắn bó với người ấy: 2,11; 3,16.18.36; 4,39;
- tin “vào danh ai” (HL. pisteuein eis to onoma tinos): đây là cách diễn tả hoàn hảo nhất về đức tin.
Tác giả Gioan là người duy nhất đã dùng cách này trong Tân Ước (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13). Đây là sự gắn bó với một người theo nội dung của tên người ấy. “Tin vào danh Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18) có nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là “Con Một Thiên Chúa”.
- Sau đó (meta touto...) (12a): Một vài tác giả (J.H. Bernard; A. Feuillet) có lý mà cho rằng, trong ngôn ngữ Ga, công thức meta touto (= sau việc ấy; après quoi) có ý nhắm tạo ra một liên hệ lô-gích giữa những gì đi trước và những gì tiếp sau, y như thể đoạn sau là một hậu quả hoặc một minh họa mới của đoạn trước. Tác giả đã dùng 4 lần, luôn luôn trong quan hệ với Đức Giêsu (Ga 2,12; 11,7-11; 19,28). Ý nghĩa rất gần với ý nghĩa của “tauta (hoặc touto) eipôn” (= “khi đã nói những điều ấy xong”; hoặc: “sau khi đã nói những điều ấy”) (Ga 7,9; 9,6; 11,18.43; 13,21; 18,1; 20,20-22).
Còn thuật ngữ meta tauta (= sau các biến cố ấy) thì khác: nó chỉ đóng vai trò chuyển mạch về văn chương thôi, một chuyển mạch không xác định, giữa hai đoạn (Ga 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 13,7; 19,38; 21,1).
Vậy, tương quan giữa 2,1-11 và 2,12 là thế nào? Phần tiếp của c. 12 sẽ cho thấy.
- Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum (12bc): Ở đầu bài tường thuật, Đức Trinh Nữ Maria ở một bên, Đức Giêsu và các môn đệ ở một bên, như là hai nhóm đến dự tiệc cưới theo những nẻo đường khác nhau. Nhưng đến cuối bài, Đức Trinh Nữ, các anh em và các môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ra như một nhóm duy nhất siết chặt quanh Người. Chắc hẳn tác giả muốn nói rằng họ đã xích lại gần nhau nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, mà Đức Trinh Nữ (c. 5) và các môn đệ (c. 11) đã chứng tỏ. Hơn nữa, trên bình diện đức tin, không có khác biệt giữa bà con họ hàng (thân mẫu và các anh em) và các môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phần tường thuật (1-3):
Chi tiết thời gian “ngày thứ ba” đánh dấu tuần lễ khai mạc hoạt động của Đức Giêsu; nhưng chi tiết này cũng nhắc lại những sự kiện lớn thuộc lịch sử cứu độ xảy ra vào ngày thứ ba: Đức Chúa tỏ mình ra cho Dân Ngài vào ngày thứ ba trên núi Sinai (Xh 19,10-11; x. 19,16). Nhưng dựa vào Hs 6,2, chi tiết “ngày thứ ba” còn có liên hệ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu (“theo lời Kinh Thánh”: Lc 24,46 và 1 Cr 15,4). Có thể nói tác giả Ga minh nhiên thiết lập quan hệ giữa “ngày thứ ba” và “sự chết–sự sống lại” của Đức Giêsu (x. 2,19-22). Trong TM IV, công thức “ngày thứ ba” cũng liên hệ với “Giờ của Đức Giêsu” (x. 2,1-4): đây là kiểu nói để gọi ba biến cố Khổ Nạn – Chết – Sống Lại của Đấng Cứu thế, coi như một thực tại duy nhất (x. 2,4; 7,30; 8,20; 13,1...).
“Tại Cana miền Galilê” (1a và 11a): Đây là một chi tiết địa lý, nhưng hẳn cũng có một lý do thần học. Những người Pharisêu hỏi Nicôđêmô: “Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả!” (7,52). Đấy là điều người ta gọi là “sự mỉa mai thần học của Tin Mừng IV”: Cho đến nay, người ta vẫn cho rằng không thể có một ngôn sứ xuất thân từ miền Galilê; thế mà, bây giờ tại Cana miền Galilê, lại xảy ra cuộc tỏ mình đầu tiên của Vị Ngôn sứ siêu đẳng, Đức Giêsu Nadarét, Đấng được nói đến trong Luật Môsê và các Ngôn sứ (Ga 1,45). Vị Ngôn sứ cánh chung (x. Ga 6,14) xuất thân từ Nadarét, một thôn làng mà người ta cho rằng không thể có gì tốt phát sinh từ đó được (Ga 1,46).
Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần. Thân mẫu Đức Giêsu có đến dự: tác giả không gọi tên bà ra, tương tự như ở 19,25-27: Rõ ràng tác giả quan tâm đến vai trò của Đức Trinh Nữ được diễn tả ra bằng các danh hiệu “thân mẫu Đức Giêsu” và “bà” hơn là đến tên thật của bà. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh – Do Thái giáo, Dân Israel thường được hình dung như một “phụ nữ” (x. Is 52,2; Dcr 9,9). Do đó, ta có thể hiểu lý do khiến Đức Giêsu nói với thân mẫu như thế (“Thưa bà”): Đức Giêsu coi thân mẫu chính là hiện thân Dân Israel đã tới thời viên mãn. Ta có thể nói rằng từ ngữ “bà” trong TM Ga tương ứng với hình ảnh “thiếu nữ Sion” được TM Lc gán cho Đức Maria (Lc 1,28; x. Dcr 2,14).
Tác giả TM ghi nhận là sự cố đầu tiên khởi đầu hoạt động công khai của Đức Giêsu là một tiệc cưới. Ngoài việc ghi lại một sự kiện, hẳn tác giả muốn vận dụng hình ảnh “tiệc cưới” nhằm nhắc lại giao ước của Thiên Chúa với Dân Ngài, và đặc biệt gợi tới sự thể hiện cánh chung, khi Thiên Chúa ký kết giao ước với toàn thể nhân loại. Sâu sắc hơn nữa, hình ảnh lễ cưới nhắc lại giao ước của Đấng Mêsia với Dân Người (x. Hs 2,16-25).
Đang giữa tiệc cưới thì hết rượu...
* Các đối thoại (4-8)
(1) Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu
Thân mẫu Người nói: “Họ hết rượu rồi” (3). Có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó. Chỉ có điều là bản văn không đủ rõ để có thể kết luận rằng Đức Maria đã xin một phép lạ (x. Ga 4,47; 11,3.21-22). Nhưng phải trợ giúp thế nào thì bà cũng không rõ. Bà không xin rõ ràng một phép lạ. Có lẽ bà có biết sứ mạng thiên sai của Con mình; nhưng bà có thể chờ đợi phép lạ như chuyện hết sức tự nhiên chăng? Vả lại, hẳn là quá đáng nếu Đức Maria dám xin một phép lạ, lại là phép lạ đầu tiên, để chỉ kéo dài một lễ hội trong làng? Có lẽ ở đây, với tấm lòng vừa đầy sự chú tâm ân cần vừa đầy cảm thương của người phụ nữ, Đức Maria đã kêu đến Đức Giêsu, mà mơ hồ hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ làm “một điều gì đó”, rằng Người sẽ can thiệp cách nào đó, mà Mẹ cũng chẳng biết thế nào cả.
Bằng câu nói “Chuyện đó can gì đến bà và con?” (4), Đức Giêsu từ chối không làm “phép lạ” mà Người gán cho Thân mẫu là có ý xin. Nhưng Đức Giêsu lại liên kết điều Thân mẫu xin (cho có rượu) với thuật ngữ “Giờ” khiến độc giả ngờ ngợ là ở đây có những biểu tượng.
“Giờ” của Đức Giêsu là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh, là khoảnh khắc tối hậu trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra; còn rượu, theo truyền thống Do Thái giáo và các Giáo Phụ (vd: thánh Âutinh), tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). Thân mẫu Người nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất (như chẳng hạn, Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thân mẫu nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đó là điểm khác biêt giữa Đức Giêsu và Thân mẫu Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất. Đây là một đặc điểm của lời Đức Giêsu rao giảng, mà TM IV minh họa rõ ràng (Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thật ra, tác giả không nói rõ ràng ý nghĩa của “rượu” (x. ngược lại Ga 2,21; 7,39), nhưng ngài có gợi ý để ta coi “rượu” là biểu tượng của Lời Đức Kitô, của Mạc khải, của Luật mới mà Đức Giêsu mang lại, của Tin Mừng của Người.
Đây không phải là một cách giải thích mới. Nhiều Giáo Phụ đã coi “nước” trong các chum ở Cana là hình ảnh của Lề Luật và các Ngôn sứ, được Đức Giêsu biến đổi bằng Tin Mừng của Người. Thánh Âutinh đã viết: “Đức Kitô đã giữ rượu tốt nhất lại cho đến bây giờ, điều ấy có nghĩa là Tin Mừng của Người”. Trong số các nhà chú giải hiện đại, Bultmann khẳng định: “Rượu không liên hệ tới một ơn nào của Đức Kitô nói riêng, nhưng đúng hơn tới ơn là chính Đức Giêsu, trong toàn vẹn bản thân của Người, tới Đức Giêsu trong tư cách là Đấng mạc khải...”.
Trong thực tế, Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta nhiều ánh sáng.
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Ga (1,19–2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với đỉnh điểm là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người. Động từ “giữ” (“giữ rượu”) cũng là động từ tiêu biểu của truyền thống Ga khi nói về Lời – Điều răn của Đức Giêsu. Đàng khác, các chum đựng nước thanh tẩy theo tập tục Do Thái tượng trưng Luật Môsê bất toàn (chỉ có sáu chum), giờ đây đựng rượu tuyệt hảo, có thể giải thích đó là Tin Mừng, là Lời của Đức Kitô: Người “thanh tẩy” con người bằng Lời Sự Thật của Người. Đức Giêsu cho thấy Luật của Người có sự hoàn hảo khi bảo tôi tớ đổ các chum “đầy tới miệng” (c. 7).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (HL. kalœn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassœ).
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại “cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ “cho đến bây giờ” (HL. [h]eœs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô xuất hiện.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
(2) Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Dù bị Đức Giêsu từ chối, dù không hiểu các ý định của Con, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (c. 5b). Câu này khiến ta nghĩ đến lời của Pharaô: “Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55). Chúng ta còn nghĩ đến các câu nói của các vị trung gian trong Cựu Ước nói lên lập trường của mình để mời gọi toàn dân chọn Đức Chúa: Tùy hoàn cảnh, vị trung gian ấy có thể là một vị ngôn sứ (Er 19,3-8; 24,3-8 [Môsê]; Gr 42-43,4 [Giêrêmia]), một vị vua (2 V 23,1-3 [Giôsigiahu]; 2 Sb 15,9-15 [Axa]), một thủ lãnh (Gs 1; 24,1-28 [Giôsuê]; Nkm 5,1-13 [Nơkhêmia]; 1 Mcb 13,1-9 [Simôn]), một tư tế (Er 10,10-12 [Étra]), một thiên thần (Lc 1,26-28 [Gabriel]). Vị này đóng vai trò sứ giả giữa Đức Chúa và các anh em mình (Dnl 5,5). Vị này mời gọi chọn lựa, nhưng bắt đầu bằng việc nhận lấy cho mình những yêu cầu của Đấng mà Người đại diện, để làm gương (x. Gs 24,15; Nkm 5,10). Do bản văn Cana gần với bản văn Sinai, chúng ta thấy Thân Mẫu Đức Giêsu có vai trò như Môsê (so sánh Ga 1,3-5 với Dnl 5,5), để rồi tại Sinai, ân ban Lề Luật đã được trao tặng sau khi Dân đã tuyên xưng đức tin; và tại Cana, ân ban rượu mới (biểu tượng của Luật mới được Đức Giêsu mang đến) đã được báo trước và tạo cơ hội cho xảy ra nhờ đức tin của Đức Maria được thông truyền cho các gia nhân.
Bản văn có một chỗ cắt ngang sau lời khuyên của Đức Maria (“Người bảo gì, các anh cứ làm theo”), để tháp vào một đoạn mô tả giúp hiểu những gì xảy ra sau đó: “Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước” (c. 6). Đoạn văn này cung cấp cho độc giả hai thông tin: a) khối lượng nước khá lớn; b) nghi thức thanh tẩy của người Do Thái. Với hai thông tin này, độc giả sẵn sàng để hiểu khá hơn những gì sẽ xảy đến.
(3) Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Đức Giêsu đã bảo những người hầu bàn hai câu: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi” và: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (c. 7). Các gia nhân không nói một lời, họ vâng lời thật chính xác, họ “giữ” đúng các lời Đức Giêsu truyền. Trước tiên, họ “làm đầy”, đưa đến mức hoàn hảo, những gì còn vơi, những gì chưa hoàn hảo, trong truyền thống cũ. Kế đó, họ múc nước từ những chum đá (tượng trưng Luật cũ bất toàn) đưa cho ông quản tiệc để được chứng thực (nước đã hóa thành rượu hảo hạng). Đấy chính là dấu lạ.
* Phần tường thuật (9-11)
Khi nếm nước đã biến thành rượu, “người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (c. 9c)”, vì ông khơng “làm” các lời Đức Giêsu truyền, ông không “giữ” lời Người. Nhưng “còn gia nhân đã múc nước thì biết” (c. 9d), bởi vì họ đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9). Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (14,21; x. 14,23; 12,26).
“Người quản tiệc mới gọi tân lang lại và nói...” (cc. 9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”. Trong TM IV (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm “bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. “được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay, Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30). Xem thêm Kh 19,7-8; 21,2.
Và tác giả kết luận: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này” (c. 11a): Rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu lạ đầu tiên”, mà cũng còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người. “Các môn đệ đã tin vào Người” (c. 11c), nghĩa là gắn bó với Người ấy, trong khi chờ đợi một ngày nào đó sẽ tin “vào danh Người”, nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là “Con Một Thiên Chúa”.
“Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít ngày” (c. 12). Câu này là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] đưa sang đoạn sau.
+ Kết luận
Được mời đến Cana dự tiệc cưới, Đức Giêsu đã đến trong tư cách người bạn, có các môn đệ cùng đi theo. Thân mẫu Người cũng được mời dự tiệc. Tại đây, Người đã thực hiện “dấu lạ đầu tiên”: biến nước thành rượu ngon để cứu chữa một đám cưới. Đối với tác giả Gioan, người đã viết trong Lời Tựa của Tin Mừng: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1), thì “khởi đầu các dấu lạ” này, nghĩa là các việc kỳ diệu có chức năng chứng thực cho tư cách Mêsia của Người, chính là cách tỏ bày trong thời gian vinh quang vĩnh cửu của Người. Tác giả ghi lại “dấu lạ” này để chúng ta tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để chúng ta tin chúng ta có sự sống đời đời nhờ danh Người (x. Ga 20,30-31).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Rõ ràng là dấu chỉ tiệc cưới, nếu một đàng phong phú ý nghĩa, thì đàng khác cũng rất dị nghĩa. Tiệc cưới, dấu chỉ tự nhiên của niềm vui và niềm hân hoan, bị đe dọa bởi nỗi buồn do hết rượu. Giao ước giữa người nam và người nữ tự nó rất mỏng giòn, và cũng như mọi thực tại dưới ánh mặt trời, nó bị đe dọa bởi bạo chúa khắc nghiệt là sự chết. Tiệc cưới vẫn là một biểu tượng tích cực: nó gợi tới tình yêu, sự chung thủy, sự phong nhiêu, sự sống. Nhưng nó cũng bị đe dọa bởi nỗi buồn, sự thất trung, sự đau khổ. Bản văn Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
2. Rượu là dấu chỉ của niềm vui của Tin Mừng, của tình yêu, của Thánh Thần, của sinh lực mới tuôn trào ra từ sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui sẽ đưa lễ cưới khỏi nỗi buồn, khỏi sự chán chường do Lề Luật. Và rượu vừa chan hòa vừa hảo hạng. Đời Kitô hữu không bao giờ thiếu rượu là phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, có ai trong chúng ta dám nghĩ rằng mình đã sống được ngang tầm với phúc lành của Thiên Chúa? Ai dám nói rằng tính ích kỷ không bao giờ lấn lướt tình yêu nơi mình? Ai lại không bị thương tích ngày qua ngày do tội lỗi? Do đó, sự trung thành là một ơn ta phải hết lòng cầu xin. Chính ân huệ dồi dào Thiên Chúa ban giúp ta thắng vượt nỗi lo sợ về các giới hạn của đời sống chúng ta. Chúng ta bị dính cứng vào mặt đất, dễ mệt nhọc, bị đủ thứ sự dữ khống chế, chúng ta mỏng giòn và dễ bị tổn thương, nhưng niềm tin vào Chúa sẽ chiến thắng mọi sự dữ và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
3. Có thể nói lời Đức Maria nói với gia nhân ở Cana là “di chúc thiêng liêng của Mẹ” (A. Serra), bởi vì đó là những lời nói cuối cùng của Mẹ được các tác giả Tin Mừng ghi lại. Đức Maria sẽ không nói nữa, nhưng Mẹ đã nói được điều chính yếu. Mẹ đâu có bổn phận mở cửa sổ khi Đức Kitô có vẻ muốn đóng các cửa ra vào! Trong tư cách là “Mẹ” của Hội Thánh, Mẹ cầu nguyện và chuyển cầu để con cái Mẹ thường xuyên mở lòng ra với các lời của Chúa Giêsu, những lời vừa nặng ý nghĩa vừa có sức giải phóng. Đấy là “những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Hôm nay, chúng ta là những gia nhân của các đám cưới, chúng ta có khôn ngoan đủ để đón nhận lời Mẹ đề nghị chăng?
4. Cha M. Thurian (+1996) đã viết: “Đến cuối bài tường thuật, Đức Maria và các môn đệ làm thành cộng đoàn thiên sai, hợp nhất trong niềm tin vào Con Thiên Chúa đến biểu lộ vinh quang của Người; đó chính là nòng cốt của Giáo Hội đang vây quanh Đức Chúa của mình, mà lắng nghe Lời Người và thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Đức Maria hiện diện với cộng đoàn Giáo Hội này và ta có thể tưởng tượng ra Đức Kitô đang nhìn nhóm vây quanh mình mà nói: 'Đây là Mẹ tôi và đây là anh em tôi; bất cứ ai thực hiện ý muốn của Cha tôi trên trời, thì người ấy là một người anh em, một người chị em, và một người mẹ đối với tôi' (x. Mt 12,49 và các bản văn song song)”.
76. Rượu ngon sẽ không thiếu--Dã Quỳ
Trong thời của Chúa Giêsu cũng như cuộc sống hiện nay của chúng ta, rượu là một phần không thể thiếu của những bữa tiệc mừng. Rượu đem lại niềm vui, tạo bầu khí sinh động. Người xưa nói “Miếng trầu mở đầu câu chuyện”; nhưng thời nay thì dường như “Chén rượu khởi đầu câu chuyện”, vì rượu giúp người ta cởi mở với nhau và dễ dàng giao trao đổi. Niềm vui của buổi tiệc được trọn vẹn khi món ăn đủ và rượu ngon không thiếu. Tin Mừng hôm nay thuật lại một tiệc cưới dở dang hết rượu! Thế nhưng, có thể nói là chỉ hết rượu không ngon, còn rượu ngon sẽ không bao giờ thiếu. Bởi vì:
- Lòng tin và sự Quan Tâm của Mẹ Maria: Ở bữa tiệc cưới tại Cana, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu đã rất chú ý tới nhu cầu của những người khác. Mẹ nhận thấy rằng chủ nhân tiệc cưới không còn rượu để thiết đãi khách nữa. Mẹ hiểu được nỗi khó khăn nan giải này của họ, Mẹ đã đến với Chúa Giêsu và tin chắc chắn Người có thể cứu nguy ở đây. Dù rằng con của Mẹ biểu lộ ngạc nhiên về lời cầu xin, nhưng... Mẹ đã sáng kiến nói với những người giúp việc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5)
- Lòng tin và sự vâng lời của gia nhân: Các gia nhân nghe lời Đức Maria dặn.Vậy họ đã nhiệt tình đổ đầy nước vào sáu chum đá theo lời Chúa Giêsu đề nghị. Có thể những gia nhân cũng không biết Đức Maria và Chúa Giêsu, nhưng họ thực sự đơn sơ vâng lời và cộng tác với các Ngài. Gia nhân múc nước đổ vào chum và mang nước cho chủ tiệc nếm, hơn ai hết, họ biết chắc đó là nước, thế mà họ vẫn một lòng tin vào những lời Chúa Giêsu truyền dạy “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết.)”(Ga 2,8-9) Chúa Giêsu đã biến đổi nước thành rượu, ngon hơn rượu đã phục vụ trước đó.
- Và bởi vì Chúa Giê su tham dự tiệc cưới: Có Chúa Giê su hiện diện ở đó trong tiệc cưới. Người đã thực hiện nhiều hơn một cử chỉ quảng đại đối với đôi tân hôn và gia đình họ. Như vậy, khởi đầu sứ mạng, Chúa Giêsu công bố thời đại mới đã đến, thời mà dân đã nóng lòng chờ đợi, trong bối cảnh của một bữa tiệc cưới mà ở đó rượu ngon không bao giờ thiếu. Từ 6 chum nước dùng vào việc thanh tẩy, con số không trọn vẹn (vì là 7 thiếu 1), nói lên Luật cũ không hoàn hảo, Chúa Giêsu đã dùng để hóa thành rượu ngon, rượu của Giao Ước Mới, giao ước đã vượt qua sự giới hạn của Giao Ước cũ với hình ảnh “Họ đã đổ đầy tới miệng.”(Ga 2,7)
Qua dấu lạ này, Chúa Giêsu khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên lòng nhân hậu kỳ diệu của Thiên Chúa, khởi đi từ bữa tiệc hoàn thành một Giao Ước Mới với dân của Người và với tất cả nhân loại. Tóm lại, đó là bữa tiệc cưới giữa Chúa Giêsu -Tân Lang với nhân loại, trở thành hiền thê của Người. Chúa Giêsu sai gia nhân đưa rượu cho chủ tiệc nếm là việc của một tân lang “...ông mới gọi tân lang lại và nói: Ai ai cũng thết rượu ngon trước...còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ.” (Ga 2, 9-10) Chúa Giê su chính là Tân Lang Tiệc Cưới của Đấng Mê-si-a như lời Gio-an tẩy giả đã làm chứng: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể.” (Ga 3, 28-29) Hình ảnh Tiệc Cưới nói nhiều về Thiên Chúa và về sứ vụ của Chúa Giêsu như chúng ta thấy trong Tin Mừng (Mt 22,2-10. 25,1-3; Lc, 14,8-11. 12, 36).
Ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn tiếp tục được mời dự tiệc cưới với Tân Lang Giêsu trong mỗi Thánh Lễ và vui mừng chuẩn bị đến dự Tiệc Cưới Cánh Chung. Cùng với Mẹ Maria, Mẹ của những kẻ tin, chúng ta mời Chúa Giêsu đến nhà chúng ta, tham dự và chia sẻ với chúng ta trong từng chi tiết của cuộc sống. Có Chúa hiện diện, chắc chắn Chúa sẽ can thiệp, cứu giúp gia đình chúng ta trong những lúc thiếu rượu của tình yêu, của cảm thông, của sự ấm áp...Và có Chúa, chúng ta sẽ có đầy ắp rượu ngon tin yêu.
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Chúa ban thêm đức tin và hướng dẫn chúng con. Xin Chúa ở lại trong chúng con và dạy chúng con biết làm tất cả những gì Người nói với chúng con. Amen.
77. Chú giải của Noel Quesson.
Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích “tượng trưng” sâu xa: Sự kiện ấy là một “dấu chỉ”. Nó có một “ý nghĩ” ẩn giấu.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê.
Khi Gioan viết những từ “ngày thứ ba” ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại “ngày vinh quang” của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 - 17,23 - 20,19; Lc 9,2-18 - 33-24, 7; Cv 10,40).
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Trong phần đầu Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá...mà không cho biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu... đó là “Mẹ Người “!
Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”
Giờ của Đức Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 - 8,20 - 13,1 - 16,25 - 16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh quang: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,l-5). Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người được “nâng lên” về mặt thể xác và một cách tưởng tượng... đó là sự sống lại, Người được “nâng lên” bên hữu Chúa Cha... và đó là sự tuôn đổ của Thánh Linh cho các tín hữu... (Ga 3,14 - 8,28 - 12,32 - 17,11 - 17;13 - 17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá “hữu thể” sâu xa của Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người. Người nói rằng “Giờ của Người” chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa.
Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
Bề ngoài kiểu nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành. “Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: “Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm theo” (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.
Giờ đây, chính Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Ở đó, đang thiếu rượu... và có lẽ, nào ai biết được, “tình yêu' cũng thiếu... Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: “Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta “không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó... Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: “Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo”.
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)
Không một chi tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.
Chúng ta thử hiểu một nửa chữ thôi...
“Sáu chum đá... Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.
“Dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!
“Họ đổ đầy tới miệng...”. Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong “dấu chỉ” đầu tiên này, quả thật là điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!
“Rượu”... Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v...) Trái nho là một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người”. Các thời đại của Đấng Mêsia được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: “Đức Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu nồng”(Isaia 25,6; A-mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3 1., 12; Diễm ca 2,4 v.v...)
Vả lại chúng ta chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ “rượu'“ mầu nhiệm được róc ra. Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người... trong sự chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: “Từ nay Thầy không còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc của Cha Thầy”.
Phúc thay cho những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.
Mỗi lần bạn uống được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một “dấu chỉ” về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.
Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”.
Sự lầm lẫn này có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng “tân lang” đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).
Chúng ta thấy ở đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana...”. Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta”. Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!
Một truyền thống lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta “sự ngỏ lời tình yêu” nóng bỏng như một đam mê của người si tình: “Người ta sẽ không còn gọi em “cô gái bị bỏ rơi” nhưng người ta sẽ gọi em là “cô gái được yêu thích”, người ta sẽ gọi xứ sở của em là “Tân nương của Ta”... Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em” (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien 16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2 - 22,17 v.v...).
Vả lại như bạn đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân nương thật sự là người “phụ nữ” mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang tính tượng trưng sâu sắc: 'Thưa Bà!”. Tân nương của Thiên Chúa, chính là Israel chờ đợi “giao ước mới” khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa. Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là “con gái của Israel” và khuôn mặt của Giáo Hội”. Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn... Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô... trong khi vui cũng như trong lúc buồn!
Chúng ta sống trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra... Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn rượu nữa!”. Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu thương cho đến cùng” (Ga 13,1).
Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống “hôn nhân” hay cuộc sống “độc thân”. Tuy nhiên chúng ta chớ nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa - Tình Quân. Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn, vợ chồng bạn là “dấu chỉ”, nghĩa là “bí tích”, “sự biểu lộ” của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn “không có tình yêu”, bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được “dấu chỉ” của tiệc cưới Cana, điều đó chẳng cần thiết hay sao?
Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
Bên ngoài tính giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người... các môn đệ đã bắt đầu bước vào đức tin... “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người”.(Ga 1,14).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam