Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 72

Tổng truy cập: 1371204

TỘI LỖI CỦA TA

Tội lỗi của ta.

 

Đó là vào đầu tháng 11, lá cây phủ đầy các con đường, rải rác trên mặt đất. Người ta kêu gọi mỗi gia đình thu gom những lá cây của nhà mình vào những giỏ nhựa, và chuyển đến cho những người hốt rác. Bây giờ, khi sử dụng những lá cây như một biểu tượng của tội lỗi, chúng ta hãy nhận xét xem sự việc diễn tiến ra sao.

Một số người không hề cảm thấy phiền toái gì cả, khi nhìn thấy những lá cây rơi xuống, phủ đầy trên bãi cỏ, bồn hoa và lối đi. Họ nhìn thấy chúng ta bắt đầu mục nát và làm cho không khí bốc mùi hôi thối. Nhưng mỗi ngày, họ đều bước lên trên những lá cây thối rữa đó, dường như thể chúng chưa bao giờ hiện diện. Đây là những người mà đối với họ, tội lỗi không là gì cả. Hêrôđê là một trong những người này.

Một người quét ra ngoài đường những lá cây trên bãi cỏ và lối đi cả nhà họ. Tại đó, chúng trở thành một đống xấu xí khó coi, và tạo ra một mối nguy hại đối với các tài xế. Nhưng người đó không hề bận tâm, họ cứ để mặc cho người khác đến dọn sạch đống rác đó đi. Người này nhắc nhở chúng ta về những kẻ làm phiền người khác vì tội lỗi của họ. Philatô, bọn quân lính và đám đông thuộc loại người này.

Hầu hết người ta thường quan tâm đến việc dọn dẹp những lá cây của nhà họ, nhưng họ không màng đến việc nhặt một chiếc lá trên bãi cỏ nhà hàng xóm. Đây là phần đất và trách nhiệm của người đó. Loại người này đại diện cho những người biết nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Phêrô là một ví dụ.

Cuối cùng, có một người đang chú ý. Người này không chỉ thu gom những lá cây trên bãi cỏ nhà mình, mà còn thu gom cả những lá cây ngoài đường nữa. Và người đó làm công việc này một cách âm thầm, không hề phàn nàn gì cả. Người đó nhắc nhở chúng ta đôi chút về Đức Kitô, Đấng đã chịu chết vì tất cả chúng ta. Nhưng Đức Kitô là một người duy nhất không hề phạm tội.

Tuần Thánh không phải là một tuần lễ để chúng ta ẩn núp phía sau người khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Nếu biết nhìn nhận tội lỗi của mình, chúng ta không có gì phải sợ hãi, bởi vì Đức Kitô đã đến gánh tất cả tội lỗi của chúng ta. Sau đó. ít nhất chúng ta có thể cố gắng cảm thấy một số trách nhiệm đối với tội lỗi của đồng loại và của cả thế giới nói chung.

Không ai là một hòn đảo. Mỗi người chúng ta đều là một phần tử ở trên mảnh đất của nhân loại.

 

 

 

 

 

82. Đức Giêsu, Mêssia vinh quang và đau khổ

 

Lễ lá hôm nay cho thấy sự oai phong của Messia khởi hành vào đền thánh Giêrusalem. Ngài vào thành trong sự tung hô chúc tụng vang trời của dân chúng. Điều này rất hợp lý, vì Thiên chúa viếng thăm dân người thì đáng được dân Người đón tiếp trong niềm hoân hoan, trong tiếng tung hô vang dậy vì Người ngự đến là để cứu chuộc dân người và đem hòa bình cho các dân các nước. Tuy nhiên, mục đích vào thành của Chúa Giêsu không nhằm đến việc tung hô bên ngoài bằng môi miệng nhưng Ngài nhằm thực hiện lời sấm các tiên tri về Ngài.

Đức Giêsu vào thành trong những lời hoan hô chúc tụng của dân chúng vốn coi Người là Vị Cứu Thế. Chúa Giêsu cũng có ý tỏ mình cho Israel và cho biết sứ mệnh thiên sai cao cả của Ngài. Tuy nhiên, dân chúng chưa hiểu đúng đắn mạc khải của Ngài. Đa số dân chúng còn nghĩ rằng sứ mệnh Mesia là đòan kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi của họ. Đức Giêsu cỡi lừa con vào thành là đi ngược lại ý tưởng đó, vì Chúa Giêsu không phải là ông vua dùng sức mạnh quân sự để bắt các dân làm nô lệ cho Isrel nhưng đến để cứu các dân khỏi nghèo khổ, đói khát, thù hận và những hình thức bất công. Ngài không đến để kết án người khác nhưng là để tha thứ cho họ. Ngài đến để cho dân chúng tìm được một cuộc sống có giá trị vững bền. Ngài tiến vào thành với tư cách một vị vua hiền từ cỡi lừa con tiến vào như Giacaria đã nói trước: Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Zac 9,9). Vị vua hiền từ này chiến thắng những thế lực thù địch mạnh nhất bằng cái chết trên thập giá chứ không bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên La mã.

Chúng ta là môn đệ Chúa hãy theo tinh thần của Chúa, sống phù hợp với niềm tin và luân lý yêu thương để làm chứng cho Chúa trước mặt người thế. Chúng ta không bắt chước dân Do thái đón nhận Chúa để rồi kết án thập hình cho Chúa nhưng đón nhận lời Chúa và giữ đúng đường lối Chúa dạy, biết vác thập giá hàng ngày để mai sau được vào vinh quang với Người.

Chúa Giêsu để dân chúng tung hô Người là con vua Đavid nhưng không vì thế mà người quên bổn phận chịu tử nạn để rồi Phục sinh. Chúng ta sống giữa thế gian không vì sự khen tặng, lôi cuốn, dễ dãi của thế gian mà xao lãng bổn phận người kitô hữu. Chúng ta theo Chúa không vì lợi lộc trần gian chóng qua nhưng vì hạnh phúc vĩnh cửu bền lâu Chúa sẽ ban cho.

Lạy Chúa Giêsu, trong ngày Chúa sắp chịu nạn này, chúng con bỗng nhớ đến những ý tưởng dại dột của mình. Chúa từ bỏ những lợi lộc trần gian vì chúng con. Vậy mà hôm nay chúng con đang còn tìm lợi lộc và danh lợi. Nhiều khi vì những danh lợi đó mà con xao lãng việc thờ phượng Chúa, đối xử bất công với anh em tha nhân dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng con xin hứa sẽ thay đổi cuộc sống để làm sáng danh Chúa và mai sau được Chúa thưởng công bội hậu trên Thiên đàng.

 

 

 

 

 

83. Thái độ.

 

Không có điểm nào trong việc trở nên nhạy cảm về nỗi đau khổ. Người ta có thể quá bị đụng chạm, đến nỗi họ trở nên cay cú, và sẽ không bù đắp lại được. “Một sự hy sinh quá lâu dài, có thể làm cho trái tim trở thành chai đá” (W.B. Yeats).

Tuy nhiên, nỗi đau khổ có thể trở thành một cơ hội. Đây không phải là vấn đề lý tưởng hóa nỗi đau khổ, nhưng là đương đầu với nó trong niềm hy vọng. Giá trị của nỗi đau khổ không hệ tại ở cảm giác đau đớn của nó, nhưng hệ tại ở thái độ của người chịu đau khổ. Nỗi đau khổ có thể thanh tẩy linh hồn con người, và biến đổi tính cách của người đó. Nỗi đau đớn có thể mang lại hiệu quả. Nỗi đau khổ là một phần thiết yếu trong quá trình trở thành con người thực sự, nghĩa là một người có lòng thương xót và trưởng thành.

Chúng ta không được coi nỗi đau khổ như là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt bất cứ ai. Quả thật Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ, chỉ vì điều tốt đẹp có thể xuất phát từ nỗi đau khổ mà thôi. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần với Người hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Người.

Thật là một sự an ủi lớn lao cho chúng ta, khi nhận biết rằng Đức Kitô, Đấng Vô Tội và Không Hề Phạm Tội, lại đi trên con đường đau khổ trước chúng ta, và Người đã đi đến tận cùng. Trên thánh giá, Người gom tất cả nỗi đau của nhân loại, và biến thành của riêng Người.

Trong suốt thời cộng sản, thi sĩ Irina Ratushinkaya đã sống một thời gian trong các trại lao động ảm đạm ở nước Nga. Bà nói “Cách thức tốt nhất để giữ được nhân cách của bạn trong các trại này, là quan tâm nhiều hơn đến nỗi đau khổ của người khác, hơn là của bản thân bạn” Chúng ta không thể học hỏi được về lòng thương xót, nếu không biết đau khổ.

Trong Cuộc Khổ Nạn của Người, chúng ta nhận thấy cách thức Đức Kitô quan tâm đến người khác – Người quan tâm đến những phụ nữ thành Giêrusalem đồng cảm với Người, Người quan tâm đến tên trộm, và tất nhiên Người quan tâm đến mẹ của Người. Nơi Người, không có gì khác ngoài tấm lòng yêu thương. Ngay cả khi bị đóng đinh tay chân trên thánh giá, Người vẫn tiếp tục yêu thương.

Đức Giêsu không chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi đau khổ. Người đã chết để dạy cho chúng ta cách thức chịu đau khổ. Mặc dù con đường đau khổ chật hẹp và khó khăn, nhưng từ khi Đức Giêsu đi qua đó, thì nó không còn như vậy nữa. Một ánh sáng rạng ngời chiếu tỏa trên nó. Những ai biết liên kết những đau khổ của mình với những đau khổ của Đức Kitô, thì những đau khổ đó sẽ trở thành nguồn ân sủng cho toàn thể cộng đồng, và họ sẽ được chia sẻ vinh quang Phục sinh của Đức Kitô.

 

 

 

 

 

84. Vụ án.

 

Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của “vụ án” này. Bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.

Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao.

Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống tổ tiên để lại… Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” không? Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: “Đúng như lời ngài nói”, tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại lời nhận tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa”. Theo luật Do thái: “Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng chết”. Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài bị kết án tử hình.

Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.

Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.

Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và Chúa đã chết trên thập giá.

Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.

Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói: “Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ”. Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.

 

 

 

 

 

85. Vào thành.

 

Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ, người ta có thể đọc bài thơ vô danh như sau:

Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức mạnh để đạt thành công, Ngài đã khiến tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng lời trong khiêm tốn. Tôi đã xin cho được sức vóc để làm những việc trọng đại, Ngài đã cho tôi tật nguyền để tôi làm những điều tốt lành hơn. Tôi đã xin Chúa cho tôi của cải giàu sang để được sung sướng, Ngài đã cho tôi cái nghèo khó để tôi biết sống khôn ngoan. Tôi đã xin được chức quyền để mọi người kiêng nể kính trọng và Ngài đã cho tôi sự yếu đuối để tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.

Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải sống lẻ loi, Ngài đã cho tôi một con tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã kêu xin những điều khiến cho cuộc đời tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc sống. Để tìm vui trong mọi sự, tôi đã không nhận được gì trong số những điều tôi kêu xin cùng Thiên Chúa, nhưng tôi đã nhận được những gì tôi hy vọng. Các lời nguyện không thành, lời của tôi đã được khứng nhận và tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian.

Lời cầu nguyện của người vô danh trên đây cho chúng ta thấy một cái nhìn khác về cuộc đời và các giá trị đích thực vượt xa nhãn quang chúng ta hiểu. Sứ điệp Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta qua Phụng vụ Chúa nhật lễ lá đó là biết nhận ra các chiến thắng của Chúa Giêsu và của tình yêu trong những thất bại ê chề bề ngoài của một người tử tội. Ngôn sứ Isaia và bài ca thứ ba trong bốn bài ca trình bày gương mặt của người tôi tớ khổ đau, nó diễn tả kinh nghiệm bị bắt bớ mà ngôn sứ phải gánh chịu là người loan báo Lời Chúa cho những kẻ thất vọng. Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy vọng khi nhẫn nhục chịu đựng cảnh đối xử.

Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau đây của người tôi tớ Giavê:

Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào trong khung trời mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực hiện ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho dân Ngài.

Thứ hai để thực hiện chương trình ấy theo ý muốn và nhãn quan của Thiên Chúa, người tôi tớ sống đón nhận thánh ý của Ngài mà không phản đối cũng không chần chừ tìm cách thoái thác và viện dẫn lý do.

Thứ ba tuy là người vô cùng khôn ngoan, người có Lời Chúa trong mình, người tôi tớ chứng nhận mọi xỉ nhục, mọi khinh bỉ. Bị xỉ nhổ, bị đánh đòn như người điên dại và không còn phẩm giá gì nữa và nhất là không chấp nhận dàn xếp lèo lái để tránh né cái khó khăn và khổ đau xuất phát từ sứ mệnh đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha.

Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ đau diễn tả cách hành xử siêu việt khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến của loài người. Cách hành xử đấy đưa nhân loại vào vòng bạo lực không có lối thoát.

Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong thơ gởi giáo đoàn Philipphê thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách hành xử của Chúa Giêsu Kitô và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần của người tôi tớ đau khổ. Thánh Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại lòng tin của cộng đoàn tiên khởi vào Chúa Kitô. Bài ca nêu bật bản tính Thiên Chúa và cuộc sống đời đời của Chúa Kitô trong liên hệ với Thiên Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý nghĩa cuộc đời dương thế và bản tính nhân loại của Ngài. Đó là một bài khảo luận Kitô học súc tích. Từ ngữ nòng cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản trên đây là sự từ bỏ trọn vẹn, đổ hết ra làm cho trống rỗng đi.

Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người để hiện thực chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã lột bỏ mọi vinh quang siêu việt thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản tính Thiên Chúa của Ngài, đã trở thành trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ thân phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi vong thân của con người.

Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để hoàn toàn sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết và thập giá của con Ngài để trao ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ khiêm hạ vô cùng và tự hủy bỏ mình đó đã khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa Kitô và trao ban trở lại cho Ngài mọi phẩm giá cao trọng và một quyền bính trên trời dưới đất. Phẩm giá cao trọng và quyền năng ấy trong cách hành xử của Thiên Chúa không phải là kết quả sức mạnh của con người, mà là hoa trái của khổ đau và nhục nhã khiêm cung.

Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là Đấng Cứu thế. Người đã từ bỏ điều kiện Thiên Chúa của mình để sống như người phàm, như người tôi tớ đau khổ. Từ nay trở đi loài người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua chính cuộc đời của Chúa Giêsu và thập giá. Thập giá giúp chúng ta tẩy rửa lòng tin của mình khỏi mọi thần tượng do chính chúng ta đã tạo ra trong cuộc đời mình. Thiên Chúa của thập giá là một người Thiên Chúa tự lột bỏ, tự đổ dốc hết phẩm giá cao vời của mình đi để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn cùng của con người.

Thiên Chúa của thập giá không phải là một vị Thiên Chúa luôn kéo chúng ta ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế giới này, nhưng Ngài là Đấng bước vào trong lịch sử con người để yêu thương, hoán cải và trao ban cho lịch sử loài người một ý nghĩa. Khi trở thành người anh em của chúng ta, Ngài cống hiến cho chúng ta sự hiệp thông thần linh của Ngài và kêu mời chúng ta trở thành anh chị em với nhau.

Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này, chúng ta hãy xin Chúa giúp cho chúng ta được theo Chúa cho đến cùng trên con đường thập giá Chúa đã đi qua.

 

 

 

 

 

86. Chúa Nhật Lễ Lá B

 

“Dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”

Hôm nay dân Do thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem hết sức long trọng, đây là một hình thức đón tiếp vị vua chiến thắng vinh quang trở về. Họ lấy những cánh lá, trải xuống đường, tung hô vị vua của họ “hoan hô con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Thật là náo nhiệt, thật là tưng bừng, biết bao nhiêu lời chúc tụng, biết bao nhiêu lời hoan hô, không thể đếm nổi, không thể kể hết được.

Do đâu mà có cảnh náo nhiệt tưng bừng này? Dịp này là đại lễ của người Do thái, mọi người từ khắp nơi tề tựu về Giêrusalem để dự lễ. Trong số này có những người chưa hề nghe biết về Đức Giêsu, có người cũng đã nghe, người nghe ít, kẻ nghe nhiều và có những người từng chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm, nào là cho người què đi được, người câm nói được, người điếc nghe được, người mù thấy được, người bị quỷ ám được lành mạnh, người chết được sống lại, họ đã từng chứng kiến và hưởng nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê mà vẫn còn dư thừa; và họ đã từng nghe lời giảng của Ngài, họ thích thú nghe và Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền.

Trong đám đông dân chúng hôm nay, có rất nhiều thành phần, có những người tò mò hiếu kỳ, có những người ngưỡng mộ, có những người thọ ơn của Đức Giêsu… Những người này hò reo vang dậy để tung hô và đón rước Chúa vào thành.

Đáng buồn là những lời hoan hô chúc tụng không khéo dài được bao lâu, nó như một thứ lửa rơm mà thôi, bùng lên rồi tắt lim, bạo phát, nhưng cũng bạo tàng. Thật buồn cho Đức Giêsu trong hoàn cảnh này, tình người thật đen bạc, đổi trắng thay đen, như ông bà ta dạy “dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”. Chỉ mấy ngày sau đó, cũng những con người này, cũng những môi miệng này, cũng những cánh tay này, lại kết án Đức Giêsu, nhưng lời hoan hô chúc tụng không còn nữa mà thay vào đó những lời đả đảo, quá khích “giết đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá”.

Ta không biết Đức Giêsu nghĩ gì? Nhưng có lẻ Chúa buồn lắm, buồn đến chết đi được, có lẻ Ngài đã cảm nghiệm được điều đó, nên Ngài đã cầu nguyện thống thiết với Chúa Cha trong vườn cây dầu “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng theo ý Cha, đừng theo ý con”. Buồn lắm nhưng cũng thương lắm, buồn vì lòng người đen bạc, nhưng thương vì con người đang bị tội lỗi thống trị cần phải được cứu chuộc. Cuối cùng thì tình thương đã chiến thắng, tình yêu đến thì nỗi buồn không còn nữa. Dù lòng người có thay đổi nhưng Chúa vẫn trung thành yêu thương cứu chuộc con người.

Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp để chúng con luôn trung thành sống ơn gọi làm con Chúa đến trọn đời. Xin cho chúng con biết bắt chước Chúa lấy tình thương mà đối xử với nhau trong mọi hoàn cảnh sống của chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

87. Bóng tối và niềm tin – Peter Feldmeier

(Lm. Gioan B. Văn Hào chuyển ngữ)

 

“Ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mc 15,34).

Bước vào tuần thánh, chúng ta dấn bước theo Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào và tung hô, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên núi sọ. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng bỗng chốc họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm đốn mạt nhất.

Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một sự phẫn nộ đượm tính căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư đáng mến. Trò phản thầy. Các đầu mục tôn giáo thì quá gian ác đã dàn dựng một phiên tòa rùng rợn. Các môn sinh thân thiết nhất đã vội quên thầy của mình. Họ đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường và cuối cùng đã tháo chạy. Phêrô thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram, có nghĩa là “con của Cha”. Họ đã chọn một người “con” với một quá khứ đan kín tội ác, và đòi kết án người “Con” duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai mọi tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.

Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của thập giá là một chứng tá và là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc lên trong phụng vụ lễ lá hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời đó. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau “Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau… anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Gía như là cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm của Chúa Giêsu. Và kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là “Thiên Chúa đã tôn vinh Người… mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.

Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập Gía. Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (Sáng thế 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là sự sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu- Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại một chân trời mới của ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa, liên kết với nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là một người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái chết, để cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.

Khi chúng ta gẫm suy việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức Giêsu đã biết, và Ngài không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Ngài trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu tuôn đổ đến mức thảm thiết như thế? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét lên một cách não nuột “Cha ơi, sao cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã viết: Vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Nhưng, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.

Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi loài người chúng ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo thân trên Thập giá. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị mất mát, chìm lặng trong bóng tối của kinh khiếp? Khi gặp những thất bại cay đắng, bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào những chán chường và tuyệt vọng… chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và trên thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta gặp phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Ngài đi vào lộ trình lên Giêrusalem, và thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.

 

 

 

 

 

88. Qua đau khổ Thánh Giá tới vinh quang Phục Sinh

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

 

Vào những ngày cuối đời tại thế, Đức Giêsu bị Giuđa phản bội, nộp Thầy mình để đổi lấy ba mươi đồng bạc (Mt 26:15). Nghĩ đến viễn tượng đau khổ và tử nạn Người sắp phải chịu, Đức Giêsu đi ra Núi Cây Dầu cầu nguyện. Cầu nguyện xong thì Giuđa, kẻ phản bội dẫn một toán vệ binh Đền thờ đến bắt Đức Giêsu bằng một dấu hiệu là nụ hôn. Để bảo vệ Thầy mình, một người trong nhóm các tông đồ tuốt gươm chém đứt tai phải tên đầy tớ của thượng tế (Mc 14:46). Phúc âm Nhất lãm không nêu danh người chém. May thay, Phúc âm thánh Gioan có xác định là ông Phêrô chủ động và nêu danh cả viên đầy tớ bị chém là Man-khô nữa (Ga 18:10).

Nói đến việc chém đứt tai tên đầy tớ, thì có linh mục kia từ khi vào chủng viện trung học cứ thắc mắc: Sao thánh Phêrô chém kiểu nào mà chỉ làm đứt tai tên đầy tớ thôi, mà không làm bị thương vai hay cổ? Hay phải dịch là xẻo tai? Mà xẻo tai thì lại không thực tế trong trường hợp này. Để xẻo, thì một tay cần phải cầm tai của tên đầy tớ, còn tay kia cầm gươm để xẻo thì mới có điểm tựa. Nếu vậy, đối phương thấy đau sẽ vùng vẫy để tẩu thoát. Còn nếu nhờ các tông đồ khác kìm kẹp hắn lại để thực hiện việc xẻo, thì cũng không giúp được gì, bởi vì vệ binh Đền thờ đi bắt Đức Giêsu thế nào cũng phải đông hơn và có khí giới lợi hại hơn để áp đảo nhóm Mười Một.

Trở lại việc chém đứt tai thì linh muc đó lý luận: Nếu thánh Phêrô bổ thẳng từ trên xuống dưới thì thế nào cũng làm bị thương vai của tên đầy tớ. Nếu chém chéo, thì không những làm đứt tai mà còn làm bị thương cả đầu hay cổ nữa. Nếu tai cụp gần vào đầu thì lại càng khó chém. Có lẽ tên đầy tớ có tai vảnh ra như tai lừa nên mới dễ chém như vậy. Dầu sao đi nữa, linh mục đó cũng kết luận rằng thánh Phêrô phải có võ thuật, nhất là làm nghề chài lưới ở biển hồ Tibêria thì càng phải biết võ mà đề phòng hải tặc, nếu có. Như vậy khi chém tên đầy tớ, thánh Phêrô đã phải dùng thiên giác để cho thanh gươm dừng lại ở điểm nào đó cho khỏi làm bị thương cổ hoặc vai của tên đầy tớ. Nói cách khác, thánh Phêrô phải dùng trí óc để điều khiển thần kinh, rồi thần kinh phối trí với nhãn quan và bắp thịt cánh tay để điều khiển hướng đi của thanh gươm, cho gươm dừng lại ngay trước vai. Như thế thánh Phêrô chỉ chém để cảnh cáo nhóm người đến bắt Thầy mình như là ngụ ý nói với chúng: Tụi bay đừng có đụng đến Thầy của chúng ta nghe không, kẻo phải ăn đòn như thế này. May thay, Phúc âm thánh Luca có ghi lại việc Chúa chữa tên đầy tớ: Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành (Lc 22:51).

Như vậy đường lối của Đức Giêsu khác với đường lối loài người. Đường lối của Đức Giêsu là vâng phục thánh ý Chúa Cha cho nên Người bảo Phêrô dừng lại và xỏ gươm vào bao (Mt 26:52). Hãy tưởng tượng xem những đau khổ về thân xác và tâm hồn mà Chúa phải chịu vào những ngày cuối đời. Một tông đồ thân tín phản bội bằng một nụ hôn, tông đồ khác chối Thầy. Số còn lại thì lẩn trốn như trạch, không dám xuất đầu lộ diện để khỏi bị liên lụy. Có một chàng trai đi theo Đức Giêsu, thấy nguy cơ, liền trút tấm vải che thân, tẩu thoát, mình trần như nhộng (Mc 14:51-52). Những nhà chú giải Thánh kinh đưa ra nhận định: chàng trai đó chính là thánh sử Mác-cô. Nếu theo nhận định của những nhà chú giải Thánh kinh về căn tính của chàng thanh niên tẩu thoát, mình trần trụi, thì tình tiết trần truồng có thể được giải thích như sau. Đức Giêsu và các tông đồ có lẽ ăn bữa Vượt qua tại nhà thân mẫu ông Mác-cô, trong một căn lầu, rộng rãi, có trường kỉ như Người đã chỉ bảo (c. 12). Khi Chúa Giêsu và các tông đồ xuống lầu đi ra vườn Gét-sê-ma-ni, Mác-cô ở dưới lầu nghe hay nhìn thấy – có lẽ vữa tắm xong – cũng đi theo, vội lấy khăn bằng vải gai khoác vào người cho đỡ lạnh – lạnh vì ông Phêrô phải ngồi gần lửa mà sưởi (c. 54).

Philatô thấy Đức Giêsu không làm chi đáng tội cho nên muốn tha cho Người, nhưng lại nể dân. Còn dân chúng thì nhạo báng, vu oan, khinh rể và xúc phạm đến Chúa. Họ cứ khăng khăng đòi đóng đinh Chúa. Vì áp lực, Philatô đã phải nhượng bộ cho đóng đinh Chúa.

Trên thập giá, chỉ có ba cái đinh giữ xác Chúa lại, chứ người ta không cột chân tay Chúa vào thập giá, và không có bệ đỡ chân Chúa đâu. Đa số những cây thập giá mà người ta làm để tôn kính thì thấy có bệ dốc. Mà bệ dốc bốn mươi lăm độ như vậy thì cũng không đỡ được chân Chúa khỏi trụt xuống. Đóng đinh ai trên thập giá là một hình phạt của tội nhân. Với hình phạt xưa kia khi chưa có phong trào nhân quyền bảo vệ phạm nhân, người ta đâu có quan tâm đến việc làm cho tội nhân đỡ đau đớn bằng cách đặt bệ chân đâu? Cho nên thân xác kéo ghì xuống, làm vết thương ở hai cổ tay và hai chân toạc ra, đau nhức, và xương sườn bị giãn ra. Máu cùng nước trào ra từ tay chân và cạnh sườn. Đau đớn, nhức nhối, kiệt sức và ngộp thở mà chết!

Đừng tưởng rằng những đau khổ mà Chúa phải chịu không là gì vì Người là Thiên Chúa. Không phải vậy đâu. Chúa Giêsu cũng là người. Và Chúa chịu đau khổ và chịu chết với tư cách là người. Đức Giêsu không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người cộng lại. Nơi Đức Giêsu có 100% Chúa và 100% người. Ai chủ trương nơi Đức Giêsu chỉ có 50% thiên tính và 50% nhân tính cộng lại là rối đạo. Đức Giêsu là Chúa hoàn toàn và trọn vẹn. Đức Giêsu cũng là người hoàn toàn và trọn vẹn, ngoại trừ tội lỗi. Với tư cách là Chúa, Đức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết được. Còn với tư cách là người, Đức Giêsu cũng sợ đau khổ và sợ chết. Vì thế mà Đức Giêsu đã xin với Thiên Chúa Cha – nếu có thể được – cho Người khỏi uống chén đắng, nghĩa là khỏi chịu đau khổ và chịu chết, nhưng Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (Mc 14:36). Và Đức Giêsu đã chịu đau khổ tột bậc.

Phúc âm hôm nay ghi lại, vào giờ sầu khổ trong vườn cây dầu: Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến (Mc 14:33). Rồi Người nói với các môn đệ: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được (Mc 14:34). Phúc âm thánh Luca ghi thêm: Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44). Sầu khổ hay khổ nạn theo nguyên tự Hy ngữ mà La ngữ gọi là agonia. Theo Ronald Rolheiser thì vào thời Đức Giêsu, agonia là từ ngữ mà giới thể tháo gia dùng để làm ấm hay làm nóng thân thể cho ra mồ hôi để tranh giải ô lim pích. Theo nghĩa này thì thánh sử Luca muốn nói trong giờ khổ nạn Chúa cũng cầu nguyện, chiến đấu với nội tâm đến toát mồ hôi ra để sửa soạn cho bản án đóng đinh trên thập giá (1).

Đức Giêsu xin với Thiên Chúa Cha cho Người khỏi phải uống chén đắng, nghĩa là khỏi phải chịu khổ và chịu chết. Tuy nhiên Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đức Giêsu đã phải đồng hoá mình với người tôi tớ chịu đau khổ của Giavê Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6). Còn thánh Phaolô thì ghi lại về Đức Giêsu như sau: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá (Pl 2:8).

Nếu việc suy niệm về cuộc thương khó và khổ hình của Đức Giêsu không khơi dậy được tâm tình sám hối về tội lỗi mình và khóc thương Chúa, thì nên đi coi phim: The Passion of the Christ của Mel Gibson. Những học giả Thánh kinh cho rằng đó là cảnh diễn tả khá trung thực việc quân lính đánh đòn Chúa. Đó là hình phạt mà các thể chế có pháp lý thời Chúa Giêsu tại miền Trung Đông dùng để phạt phạm nhân. Hình phạt phạm nhân của những thể chế chịu ảnh hưởng Hồi giáo đời nay, xuất phát từ Trung Đông, vẫn dùng roi da để cho lí hình có vai u thịt bắp quật vào phạm nhân.

Trong rạp coi phim The Passion of the Christ, mà nhậy cảm, ta sẽ thấy nước mắt mình tuôn trào ra làm ướt đẵm hai gò má. Ta sẽ nhận ra chính tội lỗi mình đã khiến Chúa bị đóng đinh. Rồi sẽ thấy mình ngậm ngùi khóc thương Chúa trên đường ra về. Kín đáo hơn thì có thể khóc thầm từ rạp hát tới lúc mở cửa vào xe. Rồi cũng sẽ thấy mình bớt phạm tội.

Chúa Giêsu đã chịu chết không phải chỉ cho nhân loại tội lỗi xa xưa. Chúa còn chịu khổ hình và chịu chết cho tội lỗi mỗi người để ta được sống. Vậy thì trong Mùa chay ta đã làm gì để đền bù tội lỗi? Ta đã làm gì để nhổ gai nhọn nhận vào đầu Chúa hay ta đã đóng thêm gai nhọn và đinh sắt vào đầu và mình Chúa? Ta đã làm gì để an ủi Chúa và an ủi những người xấu số là hình ảnh và là hiện thân của Thân thể Màu nhiệm của Chúa: đói khát, rách rưới, đau yếu, bệnh tật, tù đầy, vô gia cư, vô nghề nghiệp? Hay ta chỉ phàn nàn, than thân trách phận và còn kêu trách Chúa?

Lời cầu nguyện của kẻ sám hối:

Lạy Ngôi Hai Thiên Chúa làm người!

Vì tội lỗi nhân loại và cả tội riêng con,

mà Chúa phải chịu khổ hình và chịu chết,

đau đớn và ô nhục trên thập giá.

Con xin sám hối ăn năn tội lỗi con:

những tội con đã xúc phạm đến Chúa,

và những tội xúc phạm đến anh chị em

là thân thể Mầu nhiệm của Chúa.

Xin Chúa thương xót thứ tha

để con được sống lại về phần linh hồn.

Với Chúa PHỤC SINH. Amen.

——————————–

(1) Dựa theo Ronald Rolheiser trong Catholic Update. Cincinnati, Ohio: St Anthony Messenger Press, February 2008

 

 

 

 

 

89. Tuần lễ mang lại ơn Cứu độ – Lm Trần Bình Trọng

 

Cùng với Giáo Hội, hôm nay người tín hữu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh bắt đầu từ Chúa nhật Thương Khó đến Chúa nhật Phục sinh, là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ. Đó là tuần lễ ghi lại nhiều biến cố nhất trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian. Trong Tuần thánh, Giáo hội cử hành những màu nhiệm cứu độ mà Chúa Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuoi cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày Lễ Lá, đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.

Chúa Nhật Thương Khó, ta được nghe và suy niệm Bài Thương khó của Chúa (Mc 14:1-15:47) khiến ta cảm động, khóc thương Chúa. Đi ngắm 15 Sự Thương Khó Chúa, không phải để nghe ai ngắm giọng Bắc, ai giọng Trung, ai giọng Nam, ai ngâm cung triều, ai ngâm cung dòng. Việc suy niệm về cuộc khải hoàn của Chúa vào thành Giêrusalem, về cuộc khổ nạn trong vườn câu dầu, về cuộc khổ hình thập giá, về cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, chỉ mang lại ý nghĩa, nếu ta biết đem ra áp dụng vào đời sống.

Phúc Âm Thứ Hai Tuần thánh kể lại câu chuyện Chúa đến dùng bữa tại nhà ba chị em Marta, Maria và Lazarô. Giuđa phản đối việc Maria làm khi bà đem một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng mà xức chân Chúa, rồi lấy tóc mà lau (Ga 1:3). Giu-đa nại cớ để dành tiền cho người nghèo, nhưng thực sự Giu-đa không quan tâm gì đến người nghèo (Ga 1:4-5). Việc Maria làm Chúa bảo cứ để bà làm công việc ám chỉ về ngày táng xác Chúa. Hôm nay là thời giờ giúp ta suy niệm cái kinh nghiệm sống đức tin của mỗi người, để tìm ra những yếu điểm của mình và để xem ta có sống trung thực với lòng mình không?

Phúc Âm Thứ Ba Tuần thánh tiên đoán cái tội bán Thầy của Giuđa và cái tội chối Thầy của Phêrô. Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa, có lúc giống Phêrô. Ta giống Giuđa khi ta khước từ ơn Chúa, rồi đóng thêm đinh vào mình Chúa bằng cách sa phạm tội. Ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức tin, không dám tỏ ra mình là người công giáo.

Phúc Âm Thứ Tư Tuần thánh nêu đích danh Giuđa là người sẽ nộp Chúa và cảnh cáo về cái hậu quả trầm luân của kẻ nộp Chúa khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ ấy đừng sinh ra thì hơn (Mt 26:24). Tuy nhiên Giuđa vẫn một mực theo đuổi tội phản bội. Ta thấy tội của Giuđa và tội của Phêrô không khác nhau bao nhiêu. Tuy nhiên lòng thống hối của Phêrô – ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26:75) – tạo ra một trời khác biệt.

Thứ Năm Tuần thánh kỷ niệm việc Chúa rửa chân cho các tông đồ để dạy họ bài học khiêm tốn. Chúa còn bảo các tông đồ rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Hôm nay Chúa còn thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Và để tiếp tục Bí Tích Thánh Thể, Chúa còn lập Chức linh mục. Như vậy ta thấy Bí Tích Thánh Thể và Chức linh mục đi liền với nhau vì không thể có Bí Tích Thánh thể nếu không có linh mục.

Thứ Sáu Tuần thánh kỷ niệm cuộc tử nạn của Chúa tren thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Hôm nay là ngày ăn chay kiêng thịt. Chúa đã chết cho tội lỗi loài người. Còn ta có cùng với Chúa chết đi cho tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu không?

Vẻ trầm lặng của Thứ Bảy Tuần Thánh giúp ta tiếp tục suy niệm về cuộc tử nạn của Chúa và mong được sống lại về phần linh hồn cùng với Chúa sống lại vào CHÚA NHẬT PHỤC SINH.

 

 

 

 

 

90. Đừng phản bội Chúa bằng tội lỗi.

(Suy niệm của Lm. Thanh Minh)

 

Hành trình 40 ngày Mùa Chay đã kết thúc với ngày thứ 7 của Chúa Nhật V Mùa Chay hôm qua. Hôm nay là Chúa Nhật Lễ Lá: Khai mạc Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của năm phụng vụ, Hội Thánh hiền mẫu chúng ta tưởng niệm và kính nhớ biến cố Chúa Kitô, bạn trăm năm chí thánh, long trọng tiến vào thanh Giêrusalem hoàn tất mầu nhiệm cứu thế, tức là tưởng niệm cuộc thương khó hồng phúc của Người bằng những nghi lễ rất long trọng của Lễ Vượt Qua.

Thánh lễ hôm nay trong phẩm phục màu đỏ, với cuộc rước kiệu lá và các bài thánh ca chúc tụng, tung hô Con vua Đavít, Đấng nhân danh Chúa ngự đến… ở phần đầu thánh lễ, diễn tả một khung cảnh huy hoàng lộng lẫy của một vị vua chiến thắng cỡi lừa tiến vào thành đô Salem. Tuy nhiên, khi thánh lễ khởi đầu, bầu khí hân hoan đó đã biến đổi và phảng phất một bầu khí ảm đạm thê lương cuộc tử nạn của Chúa Kitô và bóng thánh giá đã chập chờn xuất hiện ở cuối chân trời! Bài đọc I diễn tả hình ảnh của Người Toi Tớ Giavê hiền từ khiêm hạ như con chiên hiền lành bị đem đi sát tế. Bài đọc II trích từ thư thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê ca ngợi gương khiêm nhường tự hạ của Chúa Kitô, đến nỗi từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để chịu chết một cách nhục nhã trên cây Thánh Giá, chính vì thế, Đức Chúa Cha đã tôn vinh Ngài. Và cuối cùng là bài thương khó theo thánh Marcô tường thuật cho ta thấy rõ cuộc khổ nạn của Đức Kitô Con Thiên Chúa.

Chúng ta xót xa, bĩu môi, nguyền rủa dân Do Thái thuở xưa vì thái độ bất trung, thất tín, lòng dạ thay trắng đổi đen như trở bàn tay: mới hôm nay reo hò tung hô Con vua Đavít, thứ 6 tuần thánh lại đả đảo hô to: “Đóng đinh nó đi! Đong đinh nó vào thập giá!” Ôi, tệ bạc quá! Chúng ta cũng chê trách sự hèn nhát của các thánh tông đồ, đều âm thầm cút hết chỉ còn 3 vị Phêrô, Gioan và Giacôbê trong vườn Cây Dầu với Chúa, nhưng cuối cùng Phêrô cũng nhát đảm chối Chúa 3 lần!

Thế nhưng: “Thấy người lại nhớ đến ta,

Nghĩ mình, mình lại thương mình xót xa!”

Vì tuy chúng ta không ra mặt công khai phản bội, tố cáo đòi đóng đinh Chúa như dân Do Thái, hoặc không chối Chúa như thánh Phêrô, nhưng trong cuộc đời, biết bao lần ta đã phạm tội trong, bỏ bê Chúa và viêc đạo để chạy theo những ham mê xác thịt chóng qua, những của cải hoặc danh vọng phù vân giả trá, đó đều là những lần chúng ta phản boi Chúa, quay lưng lại với Người, đóng đinh Chúa vào thánh giá!

Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ, mỗi giờ khắc trôi qua đều thiêng thánh mà chóp đỉnh là Tam Nhật thánh Vượt qua khởi đầu từ thánh lễ Tiec Ly chiều thứ Năm tuần thánh đến tối thứ Bảy Vọng Phục Sinh, đó là 3 ngày cực thánh.

Sốt sắng tham dự các nghi lễ Tuần thánh, chúng ta hãy để lòng mình đắm chìm trong sự suy gẫm mầu nhiệm thương khó của Chúa Kitô. Chúng ta quyết tâm cùng chết với Người cho tội lỗi, cho con người cũ để cùng được phục sinh vinh hiển với Người trong con người mới, cuộc sống mới vào đêm thánh vọng Phục Sinh.

 

 

 

 

 

91. Thông phần đau khổ với Chúa trên Thập Giá

(Suy niệm của Lm. Thái Nguyên)

 

“Eli! Eli! Lamma sabacthani?” (Mt 27,46)

Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của đời sống chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.

Cần nhìn ngắm Thập giá Chúa Giêsu để cảm nghiệm được cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Ngài trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Qua đó, ta cũng hiểu được sâu xa hơn mầu nhiệm thập giá của đời mình và của mọi người, đồng thời khám phá ra ý hướng và cách thức mà Chúa đã chịu đau khổ, để nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau hầu được thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.

Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình chìm lặng xuống, hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Ngài đốt cháy tâm hồn giá lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của ta.

Chúa Giêsu bị bỏ rơi.

Trong giây phút đau khổ tột cùng trên Thập giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mc 15,34; Mt 27,46). Sau khi chịu những nhục mạ và những cực hình tàn bạo của con người, Chúa Giêsu cảm thấy bị bỏ rơi đến mức tột cùng, cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông: hoàn toàn vắng bóng Thiên Chúa, không còn cảm giác về sự hiện diện của Cha, Đấng mà Ngài gọi bằng Abba.

“Eli! Eli! Lamma sabacthani?”. Tiếng kêu than này trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn là Thiên Chúa nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô đơn: bị loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như cũng bị chính Thiên Chúa chối từ. Thánh Gioan Thánh Giá cho biết: “Đó là tình trạng bỏ rơi thê thảm nhất mà Chúa Giêsu cảm nghiệm trong cuộc sống trần thế của Ngài… Theo thể thức ấy, Chúa Kitô bị hủy diệt và hầu như trở nên hư không”.

Chúa Giêsu đã từng chịu những nỗi đau khổ ê chề nhất mà cuộc đời có thể mang lại. Cho tới lúc đó Ngài đã trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống, nhưng kinh nghiệm về hậu quả của tội lỗi thì Ngài chưa từng nếm mùi, vì là Đấng không hề biết đến tội. Chính lúc trải qua những giây phút cuối cùng như hoàn toàn xa rời Thiên Chúa, Ngài mới trải nghiệm thế nào là sự hủy hoại và độc hại của tội lỗi gây ra. Trong giây phút kinh hoàng, đen tối và rùng rợn đó, Ngài đã xem như mình bị đồng hóa mình với loài người tội lỗi, vì “Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5,21). Đó là ý nghĩa việc Chúa chịu đóng đinh giữa hai người trộm. Bảy trăm năm trước, Isaia đã nói tiên tri về việc Chúa bị liệt vào số những kẻ bất lương (x. Is 53,12). Thánh sử Luca cho biết lời tiên tri đó đã ứng nghiệm: “Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác” (Lc 22,37).

“Vị xứng kỳ đức”: người công chính mà còn bị như thế thì sống đạo đức có ý nghĩa gì? Vậy mà Chúa Giêsu lại sẵn sàng chịu những bất công, Ngài phải chịu đồng cảnh ngộ với những tên gian ác, và phải lãnh lấy nhục hình và cách đối xử tệ bạc nhất của con người dành cho Ngài. Kinh nghiệm chết gần như một người tội lỗi gây nên đau đớn vô vàn, vì Ngài cảm thấy dường như bị xa lìa khỏi Chúa Cha.

Thật ra, Thiên Chúa vẫn có đó như mặt trời vẫn soi sáng mỗi ngày, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân loại đã che kín sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Dù Chúa Giêsu vẫn còn những người thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần nào sự cảm nhận trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn. Điều đó cho ta hiểu rằng, khi con người đánh mất Thiên Chúa là niềm ủi an duy nhất của đời mình, thì tình trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào?

Trong nỗi đớn đau và cô đơn khủng khiếp, Chúa Giêsu đã đền tội cho ba hạng người: hạng người từ chối Thiên Chúa; hạng người nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa; hạng người lãnh đạm với Thiên Chúa. Cả ba hạng người này đều hiển hiện ít nhiều một cách nào đó trong lối sống của nhân loại chúng ta, và hậu quả bi thảm của nó thật khôn lường:

– Khi từ chối Thiên Chúa, đời sống của con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời đáng nôn mửa” (Jean Paul Sartre).

– Khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, con người trở nên nghi ngờ chính mình. Không thể thiết lập tương quan với Thiên Chúa thì tương quan với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá trị cuộc sống bị lung lay; bản thân con người dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành.

– Khi đã lãnh đạm với Thiên Chúa thì cuộc sống và mọi cái trong đó đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu không thể phát sinh, nên hạnh phúc cũng không thể hình thành. Trong tâm trạng đó mọi cái đều trở nên vô hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối cùng, con người là sự bế tắc cho chính mình.

Quả thật, tiếng than thở của Chúa Giêsu đã vang lên từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người và vì con người. Trong mức tột đỉnh đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu đã mở rộng trước mắt tột đỉnh tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Trong một kinh nghiệm nồng nhiệt, Chị Chiara Lubich đã nói:

” Để chúng con được ánh sáng, Chúa đã trở nên mù lòa.

Để chúng con được hiệp nhất, Chúa đã chịu xa cách Chúa Cha.

Để chúng con được khôn ngoan, Chúa đã trở nên “dốt nát”.

Để chúng con được trở nên vô tội, Chúa đã trở thành người “tội lỗi”.

Để chúng con hy vọng, Chúa đã hầu như tuyệt vọng.

Để Thiên Chúa ở trong chúng con, Chúa đã cảm nghiệm tình trạng bị bỏ rơi.

Để chúng con chiếm hữu Thiên đàng, Chúa đã cảm nghiệm hỏa ngục.”

Hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu để ta sống những biến cố đau thương trong cuộc đời mình. Nếu chúng ta cứ bám chặt lấy Chúa, dù có những lúc dường như không có Chúa, dù khi đức tin đã hao mòn và sức lực hầu như dần tàn, thì chính vào lúc cao điểm của mọi gian khó là lúc bình minh ló rạng, là lúc ta vượt thắng.

– Người chiến thắng là người tin rằng Thiên Chúa vẫn ở với mình ngay lúc mình cảm thấy như Thiên Chúa hoàn toàn vắng bóng.

– Kẻ chiến thắng là kẻ trải qua những kinh nghiệm cùng cực nhưng vẫn xác tín rằng mình vẫn đang nằm trong vòng tay đầy yêu thương của Thiên Chúa.

Đó là điều mà Chúa Giêsu đã sống cách trọn vẹn khi thốt lên: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Chúa Giêsu đã qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và cuối cùng dâng trong tay Cha chính sự sống của mình, và qua đó cũng chính là sự sống của mỗi người chúng ta. Rồi “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30).

Tâm tình hiếu thảo của Chúa Giêsu đã đạt đến mức độ tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa thiết thật cao dày khôn sánh! Đẹp quá tình nghĩa Cha-Con thật thắm thiết đậm đà: Cha được rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình Yêu kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, muốn hiệp nhất mọi người nên một trong sự sống của Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.

2. Chúa Giêsu hoàn tất mọi sự

Sau cùng, trên Thập giá, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng lớn rồi trút linh hồn. Tiếng kêu đó in đậm trong trí mọi người và nó được bốn sách Phúc Âm ghi lại. Gioan không dùng những từ đó, nhưng cho biết trước khi chết, Chúa Giêsu đã cất lời: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30). Câu này trong tiếng Hy Lạp chỉ có một chữ “tetelestai”, đó là tiếng reo vui của một người chiến thắng sau trận chiến đấu; là tiếng hân hoan của một người đã hoàn tất công việc sau bao gian khổ; là tiếng ca vang của một người đã vượt ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng. Tiếng kêu cuối cùng Chúa Giêsu trên Thập giá cho thấy Ngài đã chết như một người chiến thắng sự chết, mở ra vinh quang sự sống cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài.

Thánh Gioan Thánh Giá quả quyết rằng: “Chính trong lúc cùng cực nhất, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình kỳ diệu nhất… Công trình kỳ diệu ấy chính là sự hòa giải và kết hiệp nhân loại với Thiên Chúa bằng ơn thánh” [1]. Thật vậy, cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại dự kiện chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta mà thôi.

Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần phải làm của một trái tim yêu thương đến tận cùng. Ngài đã hoàn tất để chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống mới. Tuy nhiên một cách thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là một đồi Canvê hành hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa não nề.

3. Thập giá trong đời sống của chúng ta

Trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, cho chúng ta xác tín rằng, trong giờ cùng cực Chúa Con cảm thấy bị bỏ rơi, cũng là lúc Chúa Cha cùng sống cuộc khổ nạn với Con mình: vì Chúa Cha và Chúa Con luôn là một với nhau và trong nhau ở mọi tình trạng. Chính Cha đau khổ trong Con vì tình trạng vong thân cực độ của loài người do tội lỗi gây nên. Biến cố thập giá thảm sầu là điều mà Cha muốn để biểu lộ tình yêu vô biên nơi Con mình trong Chúa Thánh Thần, để cứu chuộc và hiệp nhất chúng ta lại trong Ngài.

Như thế, một cách huyền nhiệm nhưng rất thực tế, kinh nghiệm bị xa cách Chúa cũng bao gồm kinh nghiệm về sự hiệp nhất với Chúa cách rất trọn vẹn. Cũng chính trong huyền nhiệm này, mọi đau khổ của chúng ta được đón nhận và biến đổi, mọi trống rỗng được lấp đầy, và mọi tội lỗi được cứu chuộc.

Tình yêu tột độ của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta sống mọi đau khổ như Ngài và trong Ngài. Chúng ta làm được điều này, nếu biết nhìn nhận trong mọi đau khổ của bản thân và tha nhân là một bóng dáng đau khổ vô cùng của Chúa. Mỗi khi đau khổ xuất hiện, chúng ta không xua đuổi và tránh né, nhưng tiếp nhận nó trong thâm tâm, như thể chúng ta đón nhận Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta quên mình để đáp ứng đầy yêu thương những gì Thiên Chúa đòi hỏi trong giây phút hiện tại. Chỉ như vậy, tình trạng tâm hồn mới thật sự thông thoáng, và rồi mọi đau thương cũng sẽ tan dần trong ánh sáng của tình yêu, để lại một sức sống mới mà Chúa muốn làm nên.

Đau khổ nhất thiết cần phải có để phong phú hóa đời sống bản thân ta và tha nhân. Sở dĩ Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ cũng chỉ vì những điều tốt đẹp có thể phát xuất từ chính những đau khổ đó. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Ngài hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Ngài, và là một cách Chúa cho chúng ta được hiệp thông trong chương trình cứu độ của Ngài. Bởi vậy, từ chối đau khổ là từ chối chính Chúa, Đấng đang hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho dù chúng ta không chấp nhận đi nữa thì đau khổ vẫn xảy ra theo qui luật tự nhiên, như một phương thế để làm triển nở đời sống. Chính vì không muốn đón nhận đau khổ nên ta mới thật sự đau khổ. Nhưng nếu chỉ đón nhận nó cách bất đắc dĩ, thì trái ngang và oan khiên vẫn còn đó. Khi không đón nhận nó với lòng yêu mến Chúa, đời sống chúng ta mới thật sự là nghiệt ngã và bế tắc.

“Khi nêu cao giá trị của mỗi đau khổ như thể chúng là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và khi kết hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta ta mới bước vào sức năng động của đau khổ-yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ và sung mãn hơn của Thiên Chúa”. [2]

Chính trong kinh nhiệm đó mà ta không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi người, không bao giờ loại trừ một ai khỏi tâm hồn ta, cho dù ta bị đối xử một cách bất công và tệ bạc. Tất cả cũng chỉ là mặt trái của một tình yêu không được đáp trả mà thôi. Khi tình yêu lên tiếng thì mọi sự cũng bắt đầu chuyển biến khác đi theo hướng tích cực của nó. Người khác chỉ mềm lòng khi đứng trước một con người mang khuôn mặt và tâm tình của Đức Kitô, nhất là tới mức đồng hóa với Đức Giêsu trên Thập giá, đến độ có thể nói được như Thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24). Chính trong ý hướng đó mà ta có thể kết hiệp mọi đau khổ của mình với đau khổ của Chúa trên Thập giá để trở nên dụng cụ của ơn cứu độ.

Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong cuộc sống nhân loại. Ngày nào con người còn, là Thập giá còn. Con người không thể coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên. Con người và Thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc tương sinh theo cách thức của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã rời khỏi Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù, nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là Thập giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được hiến thân cho người mình yêu.

Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có no thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi tin rằng mình được Chúa yêu thương.

Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả chúng ta. “Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài” (2Cr 1,5).

Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm tạ đến muôn đời. Amen.

—————————-

[1] Gioan Thánh Giá, Salita del Monte Carmelo, in: Opere, Roma, 1979, pp. 92-93.

[2] Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, 2000, tr. 152.

 

 

 

 

 

92. Suy niệm của Lm. Jude Sicilano.

 

Phụng vụ tuần này rất phong phú về nghi lễ và các bài đọc Kinh thánh, vì thế, cũng rất khó lựa chọn đề tài rao giảng: Bỏ chi, giảng gì? Chọn tất cả thì loãng, tập trung vào chi tiết thì thiếu xót, phiếm diện trong khi nhu cầu phụng vụ cần khá nhiều suy tư và diễn giải. Tôi xin phép chọn đề tài theo sách các bài đọc: Chúa nhật lễ lá, tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa. Xem ra có hai tên, hai tâm trạng khác nhau. Một vui mừng hoan hỷ, một buồn thảm đau thương. Người rao giảng hẳn là gặp khó khăn. Vui mừng vì Chúa vào thành thánh Giêrusalem vinh hiển. Buồn thảm vì Chúa chịu khổ nạn. Mặc cho lễ nghi hôm nay khá dài, nhưng chẳng vì thế mà bỏ bài giáo huấn, cho dù chỉ nên giảng ngắn.

Trước hết xin bàn một chút về vai trò của phụng vụ trong các bài đọc. Bơi vì tuần này Giáo hội có rất nhiều nghi lễ đặc biệt. Chúng ta phải hiểu để có thể nắm bắt được nội dung của chúng. Thường thường thánh Marcô viết rất ngắn và gọn gàng, nhưng trình thuật của Ngài hôm nay về cuộc thương khó của Chúa Giêsu lại kéo dài khác thường. Có lẽ thánh nhân muốn nhấn mạnh cuộc khổ nạn của Chúa trong tác phẩm ông viết. Ông coi điều đó là quan trọng, nếu không tại sao ông lại vượt ra khỏi thói thường? Trong sach các bài đọc được phép chọn phần ngắn hơn. Nhưng tôi không thích cắt ngắn những gì tác giả đã viết. Theo truyền thống thì có 3 người đọc bài thương khó, phân công mỗi người một vai. Người thứ nhất giữ vai Chúa Giêsu. Người thứ hai dân chúng Do thái, các thượng tế và quan Philatô. Người thứ ba giữ vai kể truyện. Ba người này nên được lựa chọn kỹ, tập dượt thành thạo, kẻo làm cho cộng đoàn chia trí. Tôi không thích in những tờ rời. Chúng chẳng ích lợi gì ở đây. Nghe là tốt hơn cả. Bởi Phúc âm là để nghe, chứ không phải để xem. Một bất tiện khác là người theo dõi cứ vùi đầu vào sách vở rồi mở trang soàn soạt, mất hết vẻ trang nghiêm, trịnh trọng. Cộng đoàn có thể hát tung hô các lúc thích hợp của câu truyện. Khi ấy tờ rời không mấy gây phiền hà. Nhưng phải tập dượt kỹ càng ngay từ ban đầu.

Tin mừng mở màn cuộc rước kiệu, tưởng nhớ Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem hôm nay, trích từ sách Marcô 11,1-10. Đoạn Phúc âm này chứa đựng đầy hy vọng thiên sai của người Do thái, và nay được ứng nghiệm. Nó có rất nhiều ám chỉ đến những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavit. Thí dụ: Chúa Giêsu dùng đặc quyền hoàng gia truyền thống cưỡi lừa con vào thành (Za 9,9). Trước đó, khi mượn lừa Ngài đã dặn các môn đệ trả lời: “Thầy cần đến nó, và người sẽ gởi lại đây ngay.” Câu này làm yên tâm mấy người đứng gần. Họ hỏi: “Các anh cởi con lừa ra làm gì vậy?” Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu hoàn toàn làm chủ được tình thế. Ngài biết trước mọi điều sẽ xảy ra và quyền uy vương giả của Ngài được khẳng định. Khi nghe đọc bài Tin mừng hẳn chúng ta liên tưởng tức thời đến sự kiện Chúa Giêsu là con vua Đavit đích thực, Đấng Thiên Sai, các ngôn sứ đã tiên báo.

Không ai bảo ai, dân chúng theo Ngài trải áo khoác và cành lá ngoài đồng trên lối đi và hô lớn “Hosanna” (2V 9,13). Từ này nghĩa gốc là xin cứu vớt chúng tôi. Nay nó trở nên tiếng ngợi khen, tung hô. Như vậy sự hoan hô của dân chúng lúc đó có hai ý nghĩa: ngợi khen và kêu cứu. Ngày nay chúng ta co hai tước hiệu để tung hô Chúa Giêsu trong Thánh lễ. Ngài là Đấng Cứu Thế và là Vua hiển vinh. Dân chúng thời ấy đã nếm trước Triều Đại Nước Trời đang đến. Họ nhìn nơi Chúa Giêsu giây phút vinh hiển của con vua Đavit, trước mắt mình. Ngài phải xuất hiện để trị vì muôn dân muôn nước trong an bình và yêu thương. Lúc khởi đầu nghi lễ phụng vụ là như vậy, nhưng khi nghe đọc trình thuật về khổ nạn thì cũng chính đám đông hô lớn trước quan Philato: “Đóng đanh Nó, đóng đanh Nó vào cây thập tự”. Phải hiểu thế nào và phải rao giảng làm sao về thái độ thay đổi nhanh chóng của đám đông? Lúc này thì ủng hộ Chúa Giêsu, khi khác lại mau mắn đả đảo? Âu đó cũng là chuyện thường tình, xưa nay vẫn vậy. Chỉ nhìn và định giá theo dáng vẻ bề ngoài, ít ai thấy được sự thật bên trong. Suy nghĩ cẩn thận về hiện tượng này, tôi có nhận xét là đám đông tung hô Chúa ở ngoài thành thánh Giêrusalem (11,1). Nhưng khi vào trong thành thì thánh Marcô cho biết: “Ngài vào một mình. Đức Giêsu vào Giêrusalem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bêtania cùng với nhóm Mười hai.” (11,11). Cho nên sự kích động là bởi những ai ở ngoài Giêrusalem, còn chức sắc bên trong thì không. Chúa Giêsu vào thành và Ngài đã gặp chống đối quyết liệt, dẫn đến cái chết thê thảm.

Do đó tôi có suy nghĩ chỉ những phần tử ngoài lề (xã hội, giáo hội) mới thấy phấn khởi về Chúa Giêsu. Xin hãy tưởng tượng tới những nỗi tuyệt vọng của họ trong suốt cuộc đời! Phải chăng họ là những người được Tin mừng viết cho mình? Những người mà chẳng bao giờ được đặc ân ngồi chỗ nhất trong các bàn tiệc, chỗ vinh dự trong các nhà thờ, nơi hội họp? Sứ vụ của Chúa Giêsu là để phục vụ họ chăng? Lúc này họ nghe thấy, cảm nghiệm rằng số phận của Ngài cũng là số phận của mình! Cuối cùng thì Thiên Chúa đã nói với họ qua Chúa Giêsu rằng Ngài không bỏ quên họ, trái lại tìm kiếm và yêu thương họ. Với quyền năng của một thượng đế, Chúa Giêsu đã nhận ra họ, chữa lành các bệnh tật cho ho, hàn gắn những nỗi đau của họ và thứ tha các lỗi lầm cho họ! Họ cũng biết rằng Đức Giêsu, người Nazareth, cũng là một kẻ ngoài lề (Giêrusalem), đồng hội đồng thuyền với mình. Như tiên tri Zacharia loan báo trước, Thiên Chúa đã gây dựng Ngài lên và sai đến Giêrusalem trên lưng lừa con.

Chúa Nhật thứ 3 thường niên vừa qua, khi khởi sự đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta được nghe Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng tại miền Galilê, sau khi Gioan Tẩy Giả bị tống ngục: “Thời đã mãn, triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc âm” (1,15). Lúc này gần kết thúc cũng một Tin mừng đó. Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem và chỉ trong khoảnh khắc tình thế thay đổi ngược hẳn: Ngài bị trao nộp, bị bắt, chịu khổ hình và chết nhục nhã trên thập giá. Vậy thì lời hứa ban đầu của Ngài có ý nghĩa ra sao? Điều chi đã xảy đến cho lời hứa ấy? Phải chăng sụp đổ hoàn toàn là “thời giờ đã mãn”? Nếu đúng như vậy thì quả là ngược đời. Một lời hứa tươi sáng lúc khai mào, kết thúc bằng thất bại thê thảm! Tuy nhiên nếu chịu cực theo dõi và suy ngắm giai đoạn Ngài thi hành sứ vụ, học hỏi về căn tính của Chúa, bản chất triều đại Ngài và những điều kiện để theo Ngài, thì chúng ta sẽ hiểu được “thời gian đã mãn” là thế nào (sau Phục sinh, phụng vụ sẽ trở lại đọc Phúc âm Marcô). Thời gian đã mãn, trên thực tế, đã mặc lấy xác thịt nơi Đức Kitô. Ngài chính là kết thúc của mọi điều các ngôn sứ hứa trong Cựu ước. Ngài thể hiện Nước Đức Chúa Trời trong chính bản thân mình. Mọi điều Thiên Chúa hứa đã được làm tròn nơi Ngài. Không như các kinh sư, lãnh đạo tôn giáo Do thái mong đợi.

Suốt cuộc đời Ngài đã bày tỏ quyền năng của mình trên bệnh tật, quỷ dữ và các đối thủ. Ngài cũng hoàn toàn làm chủ được cuộc tiến vào thành thánh cách vinh hiển. Lúc này, khi chịu khổ nạn, Ngài vẫn thi hành quyền năng đó, nhưng không theo đường lối thế gian, mà để phục vụ nhân loại hết tấm lòng nhân ái của Ngài. Ngài tự nguyện hy sinh sự sống để mưu lợi ích cho moi người. Như vậy Ngài hành quyền theo kiểu cách mới, khác hẳn thế gian, tức trên tội lỗi và sự dữ, mà không áp bức bất cứ một ai. Chiến thắng của Ngài không phải là đè bẹp kẻ khác, nhưng là tự nguyện hy sinh vì lợi ích tha nhân. Quyền bính Ngài thi hành không phải là ép buộc kẻ khác, nhưng để chúng ta noi gương lựa chọn con đường Ngài đã đi, qua cái chết đến sự sống muôn đời. Hiện thời, thế gian thực hiện quyền bính của mình bằng tien tài và sức mạnh quân sự. Ngược lại, Chúa Kitô bằng con đường khiêm hạ, tự biến mình ra không trước mặt Thiên Chúa và loài người. Thánh Phaolô đã chỉ rõ rằng Chúa Giêsu sẵn lòng ban cho chúng ta tất cả bản thân Ngài, không giữ lại điều gì. Chẳng có hy sinh nào quá lớn đối với Ngài, miễn là nhân loại được trở về với Thiên Chúa, bước đi trên con đường thánh thiện. Đó cũng là tình yêu Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta! Hội thánh Philip đang chịu một lúc hai cuộc khổ nạn, bất hoà bên trong và bách hại bên ngoài (1,28-29). Những tín hữu gốc Do thái bó buộc các tân tòng dân ngoại tuân giữ luật Môisen. Thánh Phaolô nhắc nhớ họ rằng Chúa Kitô đã hy sinh mọi sự cho họ, ngay cả quyền ngang hàng với Thiên Chúa! Đó là một hy sinh rất lớn, cộng đoàn nên suy gẫm, từ đó có thể bỏ đi những khác biệt về nguồn gốc và tranh cãi thần học.

Cộng đoàn thánh Marcô cũng vậy, chẳng nên ngạc nhiên về thế lực đền thờ khước từ, hành hạ và đóng đanh Ngài vào thập giá. Chuyện đó phải xảy ra do tư duy, lối sống của họ và tội lỗi của chúng ta. Chúa Giêsu chết để tố cáo nhân loại phản bội, bày tỏ tình thương của Đức Chúa Trời và chỉ dạy phải trung thành với Thiên Chúa ra sao để được cứu rỗi, nghia là đến hơi thở cuối cùng, bất chấp mọi khổ đau, kể cả cái chết. Nội dung chính yếu của câu truyện tuần này là cuộc khổ nan của Chúa Giêsu. Nó phải là niềm an ủi cho cộng đoàn thánh Marcô ngày xưa, và mọi giáo dân khắp hoàn cầu hôm nay. Đức tin và sự liên kết với Chúa đòi hỏi phải trả giá bằng hy sinh cá nhân. Làm khác đi là một hành trình dối trá không thể chấp nhận.

Khi nghe đọc bài thương khó, chúng ta nhận ra ngay có sự thay đổi lớn trong Tin mừng. Chúa Giêsu đầy uy quyền và vinh hiển phút chốc trở nên tội phạm nhục nhã! Ngài hứng chịu mọi gian ác của con người: Âm mưu, gian dối, chối từ, phản bội, bắt bớ, tra tấn, hành xích, kết án, đóng đinh, chết và mai táng. Còn đau khổ nào của nhân loại mà Ngài không kinh qua? Như vậy Ngài kết hợp với mọi linh hồn đang chịu trà đạp trên trần gian. Chúng ta gọi Chúa nhật này là cuộc thương khó của Chúa (Dominica in passione Domini). Từ passio có nghĩa gốc là “đau khổ”, chịu đựng người ta hành hạ. Lúc này trên thế giới, hàng tỷ người đang gánh chịu đau thương. Họ không có lựa chọn nào khác: Chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói, áp bức, bóc lột, tuổi già… họ chịu áp lực của hoàn cảnh mà chẳng thể nào thay đổi được số phận, cho nên họ đồng hoá với Chúa Giêsu, nhận sức mạnh từ Ngài trong cuộc thương khó. Xin hãy cầu nguyện để đừng ai phản bội đau khổ của mình. Từ passio cũng còn có nghĩa là đam mê. Trong ý nghĩa này Chúa Giêsu là người khai sáng. Ngài đam mê Thiên Chúa và đam mê nhân loại. Ngài cảm nhận một lực đẩy mạnh mẽ thi hành ý muốn của Thiên Chúa, để mưu ích cho loài người. Ngài đã “chai mặt trơ như đá” để đi con đường Thiên Chúa, rao giảng Tin mừng cho những kẻ ngoài lề. Chẳng chi ngăn cản được Ngài hoàn thành sứ vụ trong chiều hướng đó, dù phải hy sinh cả mạng sống. Amen.

 

 

home Mục lục Lưu trữ