Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 77
Tổng truy cập: 1366448
TRUYỀN GIÁO BẰNG CÁCH SỐNG
TRUYỀN GIÁO BẰNG CÁCH SỐNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cách chung con người ngày hôm nay thường nóng vội, hấp tấp, làm đại. Nghịch lý ở chỗ thích hoành tránh nhưng lại đòi phải nhanh, phải gọn. Họ chỉ thích làm những chuyện lớn mà bỏ qua chuyện nhỏ. Họ luôn xem việc nhỏ là tầm thường mà quên rằng việc lớn là do tích tiểu thành đại. Không kiên nhẫn trong việc nhỏ thế nên, họ cũng bỏ lỡ cơ hội làm những chuyện lớn lao.
Điển hình là xã hội hôm nay không có những công trình thế kỷ mà chỉ có những kiến thiết hợp thời, model nhưng mau qua. Về sự học dường như học sinh không thể ngồi yên để thuộc một câu thơ hay một bài lịch sử mà chỉ học trên net, trên Iphone…
Người ta kể rằng: Thời Đông hán có một thiếu niên tên Trần Phiên. Hắn cho mình bất phàm nên chỉ làm chuyện lớn mà thôi. Một hôm người bạn tới thăm thấy nhà hắn bẩn thỉu liền nói: Nho tử sao không quét nhà để tiếp đón khách?
Trần Phiên trả lời: Đại trượng phu xử thế. Nên quét thiên hạ sao lo một nhà?
Người bạn đáp lại: Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ.
Trần Phiên ngộ ra không nói được lời nào.
Xem ra muốn xây dựng giang sơn thì phải xây dựng từ gia đình mình. Muốn làm những điều cống hiến cho đời thì phải rèn luyện mình thành người tốt. Phải khởi đi từ việc nhỏ mới mong làm chuyện đại sự to tát hơn. Muốn canh tân xã hội phải có một kế sách lâu dài và phải khởi đi từ những việc nhỏ nhất mới mong thành đại sự.
Phải chăng Giáo hội hôm nay cũng bị cuốn vào trào lưu thích hoành tráng, rầm rộ? Thích phô trương đánh trống hơn là sống đạo mến yêu? Các lễ nghi, lễ hội thật nhiều nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ra đi đến với người nghèo, người già yếu, bệnh tật…?
Giáo hội luôn nói mình có sứ mạng truyền giáo và mời gọi các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng xem ra chẳng có kết quả, bởi vì ai cũng muốn làm việc lớn nhưng những việc bình thường là canh tân đời sống bản thân, là sống công bình bác ái, là phục vụ yêu thương khởi đi từ gia đình lại bị xem thường.
Thực vậy, làm sao có thể truyền giáo khi chưa tề gia để mang lại cho gia đạo êm ấm thuận hòa?
Làm sao có thể truyền giáo khi bản thân còn nhiều tính hư nết xấu, đôi khi còn trở thành gương mù gương xấu cho tha nhân?
Truyền giáo không phải là một lễ hội để đánh trống khua chiêng. Truyền giáo là đem đạo vào đời qua muôn nẻo đường trần thế. Thế nên, truyền giáo đòi hỏi từng người phải biết sống trở thành nhân chứng cho Chúa, phải mang tin mừng thẩm thấu vào trong trái tim và trao tặng cho anh em, cho bạn bè. Truyền giáo phải như chút muối làm cho thế gian nồng thắm Tin mừng. Truyền giáo phải như chút men làm cho Tin mừng hòa vào thế gian.
Trong bài hát “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những điều thật đơn giản ấy.
Một chút những viên đá nhỏ hợp thành ngọn núi lớn
Một chút những bước chân đi xa về muôn lối
Một chút những phút ủi an dịu xoa ngàn nỗi sầu
Chỉ một chút khởi đầu tương lai sẽ đẹp màu
ĐK – Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi
Nhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới
Một chút trong đời trở thành một chút thật tuyệt vời.
Chắt chiu từng chút ấy cho đời này thêm sáng tươi.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi. Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO- B
TRUYỀN GIÁO BẰNG CHỨNG TÁ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh Phanxicô Xaviê,… chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu, bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo, thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng “nói” cho người khác biết về đạo bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó là gì?
– Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh
Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài nói: “Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn”.
Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh hồn.
– Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương
Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta về sự hiệp nhất yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau”. Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời giờ, sức khoẻ, của cải,…
Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:
Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: “Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào”. Tìm hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.
Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.
– Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh
Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh. Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu “khu phố văn hoá”, “thôn văn hoá, ấp văn hoá”…, lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.
Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán… với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO-B
RAO GIẢNG TIN MỪNG VỚI TÌNH BÁC AI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tháng 10 còn là tháng truyền giáo
Bước vào tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời Kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cầu cho nền hoà bình trong thế giới. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Đức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Gn 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Đây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gởi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc khỏi tội lỗi và trở nên con cái Thiên Chúa.
“Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con” (Mt 28,19-20).
“Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16, 15-16).
“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em” (Ga 20,21). “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Rao giảng Tin Mừng là phần cơ bản của các môn đệ Đức Kitô và là một sự dấn thân liên tục giúp sinh động hoá đời sống của Hội Thánh” (Sứ điệp truyền giáo 2013, số 1)
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của “toàn thể Giáo hội”, vốn “bởi bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Đức Bác Ái như là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.
Thánh Phaolô viết:”Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (x. 2 Co 5, 14). Đức Kitô thúc bách chúng ta những người đã chịu phép Rửa tội nam phục cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu và những người nghèo, khi đã đón nhận Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng Tình yêu ấy và mang đến cho tất cả mọi người Tình yêu ấy, bằng lời nói và bằng chứng tá cụ thể của đức bác ái. Truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng đã khuyến khích mọi thành phần Giáo hội, hãy can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo Hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo Hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô”(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay trong khi chuẩn bị bế mạc Năm Đức Tin. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp của mình rằng: ” Đức tin là hồng ân của Chúa. Tuy nhiên đức tin cần được đón nhận. Vì Đức tin là một ân huệ mà không ai được giữ cho riêng mình, nhưng phải được chia sẻ” (số 1)…Nếu chúng ta chỉ muốn giữ lấy nó cho riêng mình, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu bị cô lập, khô cằn và ốm yếu.
Kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc Công đồng Vaticanô II, Năm Đức Tin thúc đẩy toàn thể Hội Thánh hướng tới một ý thức mới về sự hiện diện của mình trong thế giới hôm nay và sứ mạng của mình giữa các dân tộc và các quốc gia. Công đồng Vaticanô II đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ truyền giáo là thế nào: mở rộng các ranh giới của đức tin, và là nhiệm vụ của mọi người đã rửa tội và của mọi cộng đoàn Kitô, bởi vì “dân Thiên Chúa sống trong các cộng đoàn, đặc biệt trong các giáo phận và giáo xứ, và một cách nào đó trở nên hữu hình ở đó. Chính các cộng đoàn này có nhiệm vụ làm chứng về Đức Kitô trước các dân tộc” (Ad gentes, 37). Vì vậy mỗi cộng đoàn được chất vấn và được mời gọi lấy làm của mình sứ mạng đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho các Tông đồ, là trở thành “những chứng nhân của Người tại Giêrusalem, trên khắp xứ Giuđêa và Samaria và tới tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Đây là khía cạnh cơ bản của đời sống Kitô hữu: tất cả chúng ta được mời gọi cùng với anh chị em mình đi trên các nẻo đường của thế giới để rao giảng và làm chứng cho đức tin của chúng ta vào Đức Kitô và trở nên những sứ giả Tin Mừng của Người (số 2).
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, cầu thay nguyện giúp chúng ta chu toàn sứ mạng của người kitô hữu. Amen.
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO- B
XIN HÃY SAI CON- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ”. Nếu ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là tông đồ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thanh tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).
Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo bằng chia sẻ tình thương
Phải truyền giáo cách nào?
Đối với Mẹ Têrêxa Calcutta, truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân Đức Kitô, mà chỉ có một Chúa Giêsu thôi. Người đó phải là người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người khắp nơi trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả.
Giáo Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ đây là phương thức truyền giáo rất hiệu quả mà mỗi tín hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO-B
ĐƯỢC LÔI CUỐN VÀ ĐƯỢC SAI ĐI- Lm. Giuse Đỗ văn Thụy
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay nói với chúng ta rằng: Các con đừng sợ Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài! Vì ở đó chúng ta tìm thấy kho tàng vốn lấp đầy cuộc sống bằng niềm vui. Cha có thể nói với các con từ kinh nghiệm riêng của Cha: nhờ Niềm Tin, Cha đã tìm thấy một nền tảng chắc chắn cho những giấc mơ của Cha và sức mạnh để thực tại hoá chúng. Niềm Tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên thập giá và đã sống lại vì chúng ta. Sự thật này mời gọi sự tự do của chúng ta và thách đố chúng ta hãy tìm kiếm, khám phá và loan báo. Cha muốn suy tư với các con về sứ mạng mà chúng ta đã nhận lãnh từ Đức Kitô. Trong khi nói với các con, Cha cũng nói với hết mọi Kitô hữu đang sống hành trình đời mình trong Giáo Hội với vai trò là con cái của Thiên Chúa. Điều dẫn Cha đến việc nói với mọi người qua cuộc trò chuyện này với các con là là sự chắc chắn rằng Niềm Tin Kitô Giáo vẫn hằng luôn trẻ khi nó mở ra cho việc truyền giáo mà Đức Kitô ủy thác cho chúng ta:“Truyền Giáo làm sống động Niềm Tin”,[1] nghĩa là “loan truyền Đức Tin chính là tái tạo sinh lực mới cho Đức Tin”[2]
1.1.Vậy Niềm Tin đó như thế nào
1.1.1.Niềm Tin trong đời thường
Trong cuộc sống, không ít lần ta gặp khó khăn, khiến bản thân ta cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, mất phương hướng và không còn tin tưởng vào ai cũng như vào bất cứ điều gì. “Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất Niềm Tin”. Khi gặp khó khăn, trắc trở, chúng ta cần phải đối mặt, cần phải tin rằng ngày mai tươi đẹp sẽ đến. Đó chính là phương pháp giúp ta thoát khỏi những khó khăn, hụt hẫng hoặc thực tại quá cay đắng, phũ phàng. Chúng ta phải tìm lại Niềm Tin vì Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.
Niềm Tin chính là nguồn năng lực mạnh mẽ nhất trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Niềm Tin giúp cho chúng ta khơi nguồn những năng lực vốn có, ẩn sâu trong mỗi con người. Vì thế trong cuộc sống, chúng ta cần phải tin tưởng nhau và Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn. Vì ta tin tưởng vào một người nào đó, tức là ta thấy được giá trị đích thực của họ, cho dù giá trị đó đã bộc lộ ra bên ngoài hay vẫn đang tiềm ẩn bên trong. Từ Niềm Tin tự nhiên, chúng ta tiến tới Niềm Tin tôn giáo.
1.1.2.Niềm Tin Tôn Giáo
– Niềm Tin tôn giáo là một dạng nhận thức đặc biệt, dựa trên trực giác, tạo cho con người một Niềm Tin có tính thiêng liêng, giúp người ta có thể nhận thức được những sự vật mà người thường không thấy được, cho ta một sức mạnh đặc biệt mang tính “thăng hoa” để tác động đến cuộc sống trần tục.
– Niềm Tin tôn giáo phải là một niềm tin siêu lý, không dựa vào lý tính, thực nghiệm, một Niềm Tin được cảm nhận hoặc theo truyền thống kinh nghiệm, hoặc do tu luyện dần để khẳng định vững chắc. Đó là một Niềm Tin không cần chứng minh. Người ta tin để rồi tin. Tin vào những điều vĩnh hằng, tuyệt đối, một cuộc sống như ý muốn, cuộc sống bất diệt. Vì lý do đó mà nội dung Niềm Tin tôn giáo phụ thuộc vào những tín điều, giáo lý của từng tôn giáo khác nhau.
1.2.Sự khác biệt giữa Niềm Tin và Đức Tin
Sống trên đời ai ai cũng có Niềm Tin. Nếu không có Niềm Tin, con người chúng ta dễ rơi vào tình trạng lập dị và có khi đi đến chỗ tuyệt vọng, không còn tin tưởng vào ai cũng như bất cứ điều gì. Là người Kitô hữu, chúng ta lại còn có Đức Tin, tin vào một Thiên Chúa cao cả và quyền năng. Nhưng nhiều khi chúng ta lẫn lộn hai từ Niềm Tin
(la confiance – confidence) và Đức Tin (la Foi – Belef).
1.2.1.Niềm Tin (la confiance – confidence)
Ở đây, Niềm Tin là lòng tin, sự tin tưởng vào một người, một sự việc nào đó. Mất Niềm Tin là mất hết tin tưởng, không còn tín nhiệm nữa. Một lần bất tín, vạn lần không tin. Con người lỡ một lần không trung thực, bội tín, sẽ dễ làm cho người khác không còn tin mình nữa.
1.2.2.Đức Tin (La Foi – Belef)
Đức Tin là Niềm Tin vào một tôn giáo, vào một Đấng Siêu Việt và toàn Năng, thậm chí còn dám hy sinh mạng sống vì Đức Tin, vì Đấng họ yêu mến. Cho nên Đức Tin là chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng.[3] Chính vì vậy, Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa ban tặng.[4]
- “Được lôi cuốn và được sai đi”[5]
Mỗi người nam nữ là một sứ mạng; đó là lý do cho cuộc sống của chúng ta trên mặt đất này. Sứ mạng này gồm “được lôi cuốn và được sai đi”. Đây là hai chuyển động được người trẻ cảm nhận như tình yêu trong tâm hồn họ. Hai chuyển động này còn mang lại cho người trẻ một tương lai đầy hứa hẹn và giúp họ định hướng cuộc đời.
2.1. “Được lôi cuốn và được sai đi” qua vụ nổ trái bom nguyên tử
Ngày 9 tháng 8 năm 1945, lúc 11 giơ 02 phứt.
Một tia chóp lóa mắt lóe lên. Nhiệt độ: 9000 độ bách phân. Dưới một luồng gió với vận tốc 2km/giây, Urakami, khu phố phía tây bắc của Nagasaki bị hủy diệt và bốc cháy. Cơ thể của những người đi đường nằm rạp trên đường và hóa thành than. Những cư dân khác bị biến thành tro bên dưới căn nhà bị thiêu rụi. 30.000 người chết, 100.000 người bị thương. Trong số 10.000 người Công Giáo ở Urakami, có 8.500 người đã chết. Tại ngôi trường có 1.800 em học sinh, thì chỉ còn lại 200 em sống sót.
Đại Học y khoa nằm cách trung tâm vụ nổ 700 mét và được xây dựng bằng bê tông cốt thép đã thoát khỏi cuộc tàn phá lúc ban đầu sớm bị hỏa hoạn. Nagai đang sắp xếp các phim chụp tia X vào lúc diễn ra vụ nổ, ông bị ném xuống nền nhà, bên phải bị mảnh vỡ cửa kính đâm thủng lỗ chỗ. Máu chảy xối xả từ bên thái dương phải của ông. Ông lần mò thoát ra khỏi đống kính vỡ vụn và đi xuống cầu thang. Từ phòng khám và hành lang nơi các bệnh nhân đang ngồi chờ, người ta nghe vọng lên tiếng kêu cứu. “Được, chúng tôi đến đây!” Nagai hét to và đưa bàn tay ép mạnh vào thái dương chảy máu.
Việc săn sóc bắt đầu. Những chiếc áo sơ mi rách nát được sử dụng làm băng quấn. Bác sĩ Nagai, tay phải siết chặt thái dương phải làm việc bằng tay trái. Đôi khi mải mê săn sóc người bị thương, ông bỏ tay ra và máu lại phun ra nhuộm đồ trang phục của cô y tá đứng bên cạnh.
“Vì những mạch máu ở thái dương hẹp, nên tôi có thế cầm cự trong ba tiếng đồng hồ. Điều đó cũng đủ để tiến hành công cuộc sơ cứu,” ông nhận xét. Ông vừa làm việc vừa thỉnh thoảng bắt mạch để xem mình còn đủ sức lực hay không.
Thung lũng Urakami nhanh chóng biến thành biển lửa. Ở cửa bệnh viện, những dòng người bị thương chạy đến không dứt: những bóng dáng đẫm máu, áo quần tơi tả, tóc cháy xém. Trẻ con kéo lê các tử thi của cha mẹ chúng, những bà mẹ trẻ ẵm thi thể mất đầu của những đứa bé còn bú. Một cảnh tượng như hỏa ngục.
Phần lớn các loại thuốc men không còn sử dụng được nữa. Chỉ còn một chút ít dụng cụ để sơ cứu…và hàng ngàn người bị thương đang chờ đợi. Nagai chỉ có một vài người phụ tá. “Mặc kệ! Chúng ta sẽ săn sóc cho đến khi sức cùng lực kiệt!”[6]
Takashi Nagai là người chứng kiến và cũng là nạn nhân của trái bom nguyên tử. Còn Leonard Cheschire người ném trái bom nguyên tử thì như thế nào?
2.2.“Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật Léonard Cheshire
Léonard Cheshire là viên đại úy trẻ tuổi nhất của nhóm R.A.F… Lúc này anh là vị sĩ quan trẻ nhất nhận được đặc ân hiếm có này, huân chương thập giá Victoria.
Một ngày đẹp trời tháng 8/1945, hai pháo đài bay của Mỹ bay về phía Nagasaki trên bầu trời Thái Bình Dương xanh thăm thẳm, ở khoang lái của một trong hai chiếc phi cơ B.29 có đại úy Cheshire. Anh vừa được thủ tướng Winston Churchill bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc bên cạnh không lực Mỹ ở Viễn Đông.
Một chiếc B. 29 khác vừa bay đến mục tiêu. Khoang hầm phi cơ được mở ra, một quả bom nguyên tử đang đâm bổ xuống thành phố. Một vài giây sau, toàn bộ hải cảng Nagasaki bị hủy diệt.
Báo chí Anh đã hết lời ca ngợi Cheshire. Họ nói về “con người có sức hủy diệt nhất của chiến tranh”, “viên sĩ quan được tuyên dương nhất trong chiến tranh”, “một trong số những nhà chiến lược hàng không tài giỏi nhất”. Cảnh tượng hủy diệt Nagasaki cũng vừa khiến cho người đàn ông này quay lưng lại hoàn toàn. Lúc quay về từ cuộc không tập, Cheshire liền xin từ nhiệm chức vụ sĩ quan của R.A.F.
Sau khi rời khỏi hỏa ngục này, anh quay về với Thiên Chúa xa lạ để cầu xin sự giúp đỡ của Người. Khi trở về Anh quốc, anh luôn nghĩ về việc thực hiện bi thảm của ngành kỹ thuật nhân loại, vấn đề căn bản ám ảnh anh hơn bao giờ hết: vai trò của Thiên Chúa trong cuộc sống của nhân loại là gì? Anh ý thức rằng không những bản thân anh nhưng còn tất cả mọi người phải hướng đến một điều gì cao trọng hơn là một nền vật lý nguyên tử thuần túy.[7]
Ngày lễ Giáng Sinh năm 1948, đại úy Cheshire gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Ngay sau đó, anh xây dựng ba ngôi nhà dành để săn sóc cho những bệnh nhân bị bỏ rơi không thể chữa trị. Vào lúc này, anh là người trở lại Công Giáo nổi tiếng nhất của nước Anh và hơn thế nữa, một vị tông đồ đáng chú ý.
Từ thập giá Victoria, anh đã đến với thập giá đích thực của Đức Kitô.[8]
2.3. “Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật bác sĩ Takashi Nagai
2.3.1.Tín đồ của chủ nghĩa duy vật
Takashi Nagai sinh năm 1908 tại Izumo, mãnh đất huyền thoại của Nhật Bản. Chẳng biết chút gì về đạo Công Giáo và đến 1928 anh bị ảnh hưởng chủ nghĩa duy vật khoa học rất thịnh hành tại Nhật Bản lúc bấy giờ. Sau đây là những gì bác sĩ Nagai viết khi nhớ lại những năm tháng này:
“Từ những năm tháng tràn đầy lòng nhân đạo, tôi đã trở thành tù nhân của chủ nghĩa duy vật. Vừa chân ướt chân ráo bước vào ngành y, tôi buộc phải mổ xẻ các tử thi. Theo người ta cho tôi biết, đó là tất cả những gì tồn tại trong con người. Tôi dễ dàng kết luận là con người không là gì khác ngoài vật chất.
Cơ cấu tuyệt vời của toàn bộ cơ thế, tổ chức tỷ mỷ của những phần nhỏ nhất của nó, tất cả làm cho tôi thán phục. Nhưng cái thứ mà tôi đang sử dụng ở đây, đó không chỉ là vật chất đơn thuần.”
Các cơ quan phức tạp của cơ thể con người, các chức năng tương ứng, mọi thứ đều được giải thích. Vì cớ gì anh có thể chấp nhận sự hiện hữu của một thực tại lờ mờ như “linh hồn” kia chứ! Không phải cơ thể chỉ là sự tổng hợp của những vật đơn giản như ôxy, azốt, canxi… hay sao? Linh hồn ư? Một hồn ma do những kẻ lừa bịp nghĩ ra để đánh lừa những người đơn sơ thôi!
Tuy nhiên, vấn đề cuộc sống con người luôn luôn dầy vò anh. Đôi khi anh cũng quyết tâm tìm kiếm chân lý trong khoa học thực nghiệm. Anh tuyệt đối tách ra khỏi tâm trí bất cứ ý tưởng nào về tâm linh hoặc tôn giáo.
Cái chết bất ngờ của mẹ anh vào năm 1930 đã bứt anh ra khỏi những ảo tưởng đó.[9]
Tháng 6/1934, anh chịu Phép Rửa Tội với tên thánh Phaolô.
2.3.2.Những vinh dự sau cùng
Năm 1949, bộ trưởng “bộ phúc lợi xã hội” trao tặng bằng khen cho Nagai về quyển sách “để lại cho các trẻ em”. Cùng năm đó, ông đề nghị với hội đồng chính phủ tuyên dương bác sĩ theo chương trình nghị sự quốc gia.
Ngày 28/6/1949, hoàng đế Nhật đến thăm ông. Cuộc gặp gỡ rất đơn giản đã để lại trong lòng ông đầy sự thán phục đối với tính cách minh bạch khoa học của hoàng đế, với tư cách là một nhà sinh vật học nổi tiếng.
Ngày 30/6, đến lượt Đức Hồng Y Gilroy, đại diện của Đức Giáo Hòang, đến thăm ông nhân dịp lễ kỷ niệm 400 năm ngày thánh Phanxicô Xaviê đến nước Nhật truyền giáo.
Ngày 1/6/1950, qua sự biểu quyết của Quốc Hội, hoàng đế trao tặng cho ông một chiếc cúp bằng bạc, trong khi thủ tướng gửi đến ông một bức thư có nội dung như sau:
Gửi bác sĩ Nagai,
Khen tặng theo chương trình nghị sự
“Giữa muôn vàn nguy hiểm triền miền, ngài đã cống hiến bằng cả tâm hồn và thể xác cho việc nghiên cứu khoa y học quang tuyến X. Rốt cuộc ngài mắc bệnh bạch cầu. Luôn luôn miệt mài hăng say trong công việc, ngài đã góp phần vào sự tiến bộ của khoa học và được xem như tấm gương cho tất cả mọi người. Bị tổn thương vì bom nguyên tử và bắt buộc phải nằm liệt giường, ngài đã cống hiến toàn bộ sức lực cho việc biên soạn nhiều tác phẩm, nổi bật nhất là tác phẩm “những quả chuông ở Nagasaki” và “để lại cho các trẻ em”. Ngài đã đóng góp tích cực vào việc giáo dục xã hội cho những người đồng hương. Trong niềm tin đó, chúng tôi khen ngợi ngài.”
Thủ tướng
Shigeru Yoshida
Và sau đây là bức thư phúc đáp của bác sĩ Nagai:
“Chiếc cúp và bức thư mà ngài gửi đến cho tôi là một niềm vui dành cho Thiên Chúa, những người thân và các con của tôi. Mặc dù bản thân tôi không xứng đáng, tôi cũng xin vui mừng đón nhận.
Nếu như công việc của tôi có góp phần vào việc tái thiết nước Nhật, điều đó có được là nhờ sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nhờ sự giúp đỡ của những người đồng loại và nhờ lòng hiếu thảo của các con tôi. Tôi chỉ là một tôi tớ vô dụng, mọi vinh quang đều thuộc về Thiên Chúa.
Về niềm vinh dự dành cho tôi, tôi nghĩ đúng hơn nó nên dành cho những người đồng hương của tôi ở Nagasaki. Trên cánh hoang tàn đổ nát do bom nguyên tử để lại, chính họ là những người xây dựng một trung tâm của nền văn minh có ánh hưởng sâu rộng trên thế giới.
Sự khích lệ mà ngài ban cho tôi đồng thời cũng ban cho tôi sức mạnh mới để làm việc với tất cả khả năng của tôi trong việc xây dựng hòa bình đế đáp lại lòng mong đợi của ngài.”
Takashi Nagai.
Biết được quyết định của hội đồng chinh phủ, Đức Thánh Cha Piô XII cũng san sẻ niềm vui với bác sĩ và gửi đến ông Phép Lành Tòa Thánh.[10]
2.3.3. Những giờ phút sau cùng
Tháng 3/1951, tình trạng sức khỏe của bác sĩ Nagai trở nên nghiêm trọng. Ngoài sự suy nhược cực độ, lá lách sưng to làm bụng phình to đến mức không cho phép ông trở mình trên giường, nếu không có sự giúp đỡ. Bạch cầu với số lượng 7.000 nơi người bình thường, đã đạt đên 330.000. Nagai, người đã nghiên cứu kỹ sự phát triển của căn bệnh trên chính cơ thể của mình, không thể không cảm thấy giờ ra đi của ông sắp đến.
Điều đó không ngăn cấm ông tha hồ biểu lộ óc khôi hài quen thuộc, đến mức những người đến thăm ông khó mà hình dung họ đang đứng trước một người đang hấp hối.
Tháng 4, ông viết quyển sách cuối cùng. Sau khi quyển sách vừa hoàn tất, một cơn xuất huyết lại bộc phát làm tê liệt toàn bộ cánh tay.
Ngày 28/4, lại xảy ra đợt xuất huyết lần thứ hai. Bị dằn vặt đau đớn, bác sĩ đề nghị chích một mũi móc phin. Mũi đầu tiên cho đến giờ phút này.
Người ta quyết định cho ông nhập viện. Buổi sáng vào bệnh viện, ngày 30, ông lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Dù rất khát, suốt cả đêm, ông không muốn uống gì, mặc dù ông được phép uống vì là bệnh nhân.
Ở bệnh viện, cơn đau của ông càng trầm trọng thêm, rồi Nagai đi vào hôn mê. Lúc tỉnh lại, ông kêu lên thật to:
“Giêsu, Maria, Giuse”, rồi với giọng nói khe khẽ “con xin phó dâng linh hồn con trong tay các Ngài”. Một nữ y tá đưa một cây Thánh Giá cho Makoto để anh trao lại cho cha. Vừa đưa bàn tay trái còn cử động cầm lấy Thánh Giá, Nagai vừa thì thào: “con hãy cầu nguyện… ” ông tắt thở.
Ông cầm trong tay tràng chuỗi Mân Côi được kết bằng những hạt ngọc đen do Đức Thánh Cha trao tặng và cây Thánh Giá Makoto vừa trao.
Trên gương mặt người chết còn phảng phất một nụ cười nhẹ nhàng. Ông hưởng dương 43 tuổi. Nguyên nhân trực tiếp của cái chết: suy tim do bệnh bạch cầu. Trái tim mà Nagai đã bắt nó dâng hiến cho đến hơi thở cuối cùng đã ngừng đập.[11]
- Lời khích lệ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo
Cha cám ơn tất cả các nhóm trong Hội Thánh giúp cho các con có thể gặp gỡ Đức Kitô sống động trong Hội Thánh: các giáo xứ, các hiệp hội, các phong trào, các dòng tu, và nhiều hình thức phục vụ truyền giáo khác nhau.
Có biết bao nhiêu người trẻ coi hoạt động truyền giáo tự nguyện là một cách để phục vụ những anh chị em “bé mọn nhất” của chúng ta (xem Mt 25,40), thăng tiến phẩm giá con người và làm chứng cho niềm vui của tình yêu và của tư cách là Kitô hữu! Các kinh nghiệm này của Hội Thánh không chỉ giáo dục và đào tạo những người trẻ để họ thành công trong nghề nghiệp, mà còn để họ phát triển và nuôi dưỡng những ân huệ Chúa ban hầu phục vụ tha nhân tốt hơn. Các hình thức rất đáng khen ngợi của việc phục vụ truyền giáo nhất thời này là một sự khởi đầu hiệu quả, và nhờ việc phân định ơn gọi, chúng có thể giúp các con quyết định hiến mình hoàn toàn cho công việc truyền giáo.[12]
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam