Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 56
Tổng truy cập: 1371056
TỪ TRỜI XUỐNG
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Mở đầu bài Tin Mừng Chúa nhật XIX/TN-B (Ga 6,41-51), thánh sử Gio-an trinh thuật sự kiện “Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Sở dĩ đám người Do-thái thắc mắc rồi xầm xì phản đối, bởi họ thấy Đức Giê-su là một con người rất bình thường, vì Người xuất thân từ một gia đình nghèo khó tại một miền quê hẻo lánh. Đối với họ, thật khó mà chấp nhận Người là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện công nhận Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống. Lý do khiến họ không chấp nhận là bởi họ nhìn vấn đề theo nhãn quan trần thế. Họ đã hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: Một người từ trời xuống có nghĩa là một người phải thật sự bay “từ trời xuống” như kiểu “mưa man-na” trong Cựu Ước, chớ không phải là một người sinh ra từ trong bụng một người mẹ ở trần gian như bao người khác. Từ cách hiểu trần tục đó, họ không chấp nhận được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ “từ trời xuống” một chút nào.
Người Do-thái tin vào lời các ngôn sứ lưu truyền về hiện tượng Đức Chúa “khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ” (Tv 78, 24); “Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết, để bắt anh em phải cùng cực và thử thách anh em, hầu làm cho anh em được hạnh phúc trong tương lai.” (Đnl 8,15-16). Man-na thực sự là vật chất (“Man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương” – Ds 11,7; “Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.” – Xh 16,31), nên đã đổ từ trời xuống như mưa. Nhưng khi Đức Ki-tô nói “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41) thì họ không thể tin nổi vì Đức Ki-tô là một con người bình thường như bao người khác, không phải và không thể là vật chất như man-na, đồng thời Người do bà Maria sinh ra chớ đâu có rơi từ trời xuống như man-na.
Với con người thì lúc nào cũng đòi được “thực mục sở thị” mới tin, nhưng đến khi được nghe thấy, trông thấy nhãn tiền thì lại chỉ hiểu theo những thành kiến, định kiến của loài người. Cũng vì sự non kém, bất toàn đó, nên Thiên Chúa phải mạc khải cho con người hiểu được những công trình kỳ diệu của Người. Mà muốn hiểu được những mạc khải, thì điều tiên quyết là phải có đức tin. Đám nguời Do-thái ngày xưa cũng như không ít con người ngày nay vì cứng lòng không tin, nên chỉ hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen và nghe Lời Chúa bằng đôi tai nghễnh ngãng. Chính vì thế nên không lạ khi thấy họ cho rằng chỉ có đồ điên mới đại ngôn: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51).
Nhưng nếu họ hiểu rằng Lời Chúa phải lắng nghe bằng tâm linh, chớ không thể nghe bằng hai lỗ tai của cái vỏ bằng đất là xác thịt nặng nề (“cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” – Kn 9,15). Với Lời Đức Ki-tô Thiên Chúa, lại càng cần phải lắng nghe bằng nội tâm kết hợp với lời cầu nguyện xin ơn soi sáng, thì mới hy vọng hiểu được, vì Người luôn dùng dụ ngôn với “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời), thậm chí có nhiều lúc Người còn dùng sự tương phản trong cách nói ẩn dụ để nhấn mạnh ý chủ đạo (Vd: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” – Mt 10,34-35; “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” – Lc 9,60; “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.” – Lc 17,33).
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, với đám người Do-thái thì quả là phi lý khi một con người bằng xương bằng thịt bình thường lại dám nói mình là bánh hằng sống từ trời xuống, rồi còn khẳng định “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ được sống đời đời”; bởi đây là lần đầu họ nghe nói và cũng vì những sự kiện minh hoạ cho lời nói đó chưa xảy ra. Họ không tin cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, khi minh chứng hùng hồn đã thực sự xảy ra là chính Người nói câu nói kỳ dị ấy đích thị là Thiên Chúa từ trời xuống thế, chịu khổ hình thập giá và sống lại hiển vinh, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin; thì sau đó cả hàng ngàn năm cũng vẫn còn nhan nhản những kẻ cứng lòng, vẫn cho Lời nói ấy là chướng tai, là phi lý. Ấy cũng chỉ vì họ cũng không hơn gì đám người Do-thái, chỉ hiểu Lời Chúa bằng nghĩa đen, nghĩa vật chất, không chịu loại suy để tìm đến chiều kích vũ trụ của Lời (“Truyền thống tư duy Ki-tô Giáo vốn khai triển yếu tố chủ chốt trong bản hòa tấu lời này. Như Thánh Bonaventura, chẳng hạn, người vốn theo truyền thống các Giáo Phụ Hy Lạp mà nhìn ra mọi khả thể sáng thế trong Logos, đã nói rằng “mọi tạo vật đều là lời Chúa, vì nó công bố Người”. Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” đã tổng hợp các dữ kiện ấy khi cho rằng “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và duy trì mọi vật bằng chính lời của Người (Ga 1:3), đã cho ta chứng cớ mãi mãi về chính Người ngay trong các thực tại tạo dựng.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 7).
Tấm màn đã được vén lên (mạc khải), mọi sự đã rõ ràng: Để hiểu được Lời Chúa thì điều kiện tiên quyết là phải có đức tin (“Đức tin đến từ điều nghe được, và điều nghe được đến từ lời Chúa Ki-tô” – Rm 10,17). Lời Chúa Ki-tô đích thị là Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể (“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống, là Ngôi Lời.” – 1Ga 1,1-3; “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa… Và Ngôi Lời trở nên xác phàm” – Ga 1,1-14). Rõ ràng Ngôi Lời đã từ trời xuống mặc lấy xác phàm để cứu độ nhân loại bằng chính thân thể Người bị bầm giập vì đòn roi, chết treo trên thập giá còn bị lưỡi đòng của sự dữ đâm thâu trái tim khiến máu chảy ra đến giọt cuốí cùng. Thân xác ấy, dòng máu ấy há chẳng phải là nguồn ơn cứu độ đem lại sự sống vĩnh hằng cho những kẻ tin đó sao? Và như vậy, Lời dạy “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51) đã là hiện thực 100%.
Liên tục 2 Chúa nhật XVIII và XIX, bài Tin Mừng đều được trích trong “Bài giảng tai hội đường Ca-phac-na-um” (Ga 6,21-66) trình thuật về Bánh Hằng Sống. Đó cũng chính là phép Thánh Thể được Ngôi Lời thiết lập vào bữa Tiệc Ly trước ngày khổ nạn, và cũng chính vì thế mới gọi là Bí tích Thánh Thể (dấu tích bí nhiệm ẩn tàng Lời Chúa). Bí tích nhiệm mầu này được tái hiện hàng ngày hàng giờ trên bàn thánh ở khắp năm châu bốn biển để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Muốn được Lời Chúa dưỡng nuôi trên hành trình đức tin tiến về quê trời, không gì bằng chạy đến với MẸ CỦA LỜI, “vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể… Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” (Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20).
Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin ban Thánh Thần gia tăng lòng tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh Thể và để mỗi lần chúng con tham dự thánh lễ, mỗi lần chúng con rước Chúa vào lòng, là chúng con được nhận lãnh bánh trường sinh ban sự sống đời đời. Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của Lời Hằng Sống, Mẹ Đức Tin, xin Mẹ cho chúng con được ở trong cung lòng của Mẹ, để chúng con được “nhờ Mẹ, đến với Chúa” và tin vào sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong Bí tích Thánh Thể, bây giờ và mãi mãi. Amen.
26. Hình ảnh tự hiến trọn vẹn
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Vâng, thưa quý vị, các bạn, không một thứ lương thực nào tồn tại vĩnh cửu ngoài “Thần lương“ từ Thiên Chúa. Nhưng, thứ “Thần Lương” ấy là bánh từ trời “manna”, cũng không tồn tại. Vì con người trần gian phải ra công làm việc để có cái ăn nuôi thân xác. Vì thân xác con người được Thiên Chúa tạo dựng vốn vĩnh hằng cùng với linh hồn siêu nhiên. Nhưng, từ khi con người nghe theo quỷ chống lại Thiên Chúa, mang sự phản nghịch, bất trung. Vì thế, thân xác con người phải chịu nô lệ cho sự “phản nghịch” ấy.
Vì vậy, tuy manna là lương thực từ trời, nhưng cũng chỉ là thứ lương thực nuôi sống “tạm thời” thân xác của con người trong thời hữu hạn. Không phải là “thần lương” nuôi lấy sự sống tạm bợ nơi thân xác đã chịu sự nô lệ của tội phản nghich, bất trung.
Vì thế, khi con người chứng kiến Con Thiên Chúa từ Trời đến, con người vốn dửng dưng không thể thấu hiểu “ân ban” ơn cứu độ trọng đại là “Lương Thực” nuôi linh hồn. Vâng, một “Thần Lương” đích thực, một nhu cầu cao cả, mục đích tái tạo lại sự sống vĩnh hằng nơi loài thọ tạo bất trung.
Như vậy, khi Chúa Giêsu nói: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,35). Người ta thật sự ngỡ ngàng, khó hiểu, đầy sự nghi ngờ, bán tín, bán nghi. Vì sự khác biệt giữa thân xác và linh hồn, cũng như lương thực của thân xác và Thần Lương nuôi linh hồn, con người thật không thể hiểu một cách đơn thuần được.
Từ đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không bác bỏ sự sống nơi thân xác, nhưng Người kiện toàn ý nghĩa siêu nhiên nơi thân xác con người. Vâng, đây đích thị là ân sũng “Thần Lương”, là Lời của Ngôi lời Thiên Chúa, cũng là một thứ “Thần Lương” đích thực nơi Đấng Tạo Thành ban cho loài thụ tạo. Vì, Thiên Chúa chính là nguồn của sự sống, ngoài Thiên Chúa không có sự sống đích thực nào khác. Vì vậy, lương thực nuôi thân xác hằng ngày, mà người ta gọi là đồ ăn, cái ăn, miếng ăn nhằm chỉ để nuôi sự tạm bợ. Nên chi, Chúa Giêsu nói: việc làm lụng hằng ngày để kiếm cái ăn nuôi thân xác. Nhưng, cái ăn nuôi thân xác ấy để hướng đến sự sống viên mãn, chứ không phải dừng lại cái ăn nuôi thân xác.
Vâng, tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, nếu chỉ có cái ăn nơi thân xác mà thôi, thì mãi maĩ không có sự sống, hay nói cách khác, sự sống nơi thân xác không tồn tại. Vì, nguyên lý của sự sống không dừng lại nơi miếng ăn. Chỉ có chân lý và tình yêu mới là nguồn của sự sống, sự sống viên mãn, đích thực. Vì, chân lý đó, Thiên Chúa luôn ân ban sự sống cho con người. Sự sống đích thực, đó là sự “trao ban” trọn vẹn sự sống từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu – Kitô, Đấng Cứu Độ con người. Bởi vì, sự sống đích thực chính là “Lương Thực Thần Linh”, mà chỉ có từ nơi Thiên Chúa mà thôi.
Khi chúng ta nghiền ngẫm Lời Chúa hằng ngày chính là khi linh hồn chúng ta được no thỏa nhu cầu công chính là sự sống đích thực.
Để dễ chấp nhận chân lý trên, chúng ta cùng nhau đưa ra một dẫn chứng cụ thể vể lương thực cho thân xác và lương thực cho linh hồn.
Người ta thường tin rằng lương thực cho thân xác là nhu cầu của sự sống, nhưng, khi chúng ta ăn uống no say từ ngày này qua ngày khác, thì sự sống của chúng ta không còn là sự sống đích thực nữa, mà là “sự chết”. Bởi vì, không ai sống trên đời mà cứ nằm rồi ăn, ăn rồi nằm. Nếu thực sự sự sống chỉ có thế thì không còn là sự sống, đó chính là sự chết, một sự chết đích thực.
Thứ đến, nếu sự sống chỉ có vậy, thì không mang một ý nghĩa siêu nhiên, tháp nhập vào Thiên Chúa được. Vì vậy, Chúa Giêsu đã hướng con người đến một một đích tối thượng đó là được tháp nhập vào sự sống vĩnh cửu nơi nguồn sống Thiên Chúa. Đó là của ăn, lương thực bất tử, sự sống siêu phàm từ Đấng vô biên.
Như vậy, lương thực là thức ăn cho sự sống nơi con người không phải duy nhất là cơm bánh, mà chính là Chúa Giêsu, vì khi con người không có Thiên Chúa, thì không bao giờ họ có được sự sống đích thực. Vì, khi con người chỉ có của ăn nuôi thân xác mà thôi, thì sự chết sẽ tiêu diệt họ. Cứ kẻ mạnh giết kẻ yếu và cuối cùng sự chết ngự trị, vì kẻ mạnh cuối cùng cũng phải chết.
Theo đó sự sống nuôi sống đích thực là chính Thiên Chúa, từ đó cho thấy sự giáo huấn của Chúa Giêsu chính là lương thực cho sự sống vĩnh hằng. một sự sống mà nơi đó Người đã tự hiến trọn vẹn cho con người.
Qua ba tuần lễ liên tiếp, chủ đề lời Chúa Chúa Nhật hôm nay minh họa cho chúng ta một sự tự hiến trọn vẹn của Chúa Giêsu, Đấng đã đến vì con người, trao ban trọn vẹn Thiên Tính và Nhân tính và chỉ có Người mới thực sự là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống từ Thiên Chúa được trao ban cho con người mà thôi.
Chúa Giêsu không hứa hẹn trao ban của cải vật chất cho những kẻ đi theo Người, vì của cải của thế gian vốn có sẵn, nhưng không mang lại sự sống đích thực là chính Thiên Chúa. Theo đó, Thiên Chúa muốn ban cho con người chính Ngài, vì vậy, Người đã từ trời xuống thế…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian để chỉ cho nhân loại một con Đường của sự Sống, một Con Đường Hằng Sống, đó là Lương Thực trường sinh, thứ Thần Lương vĩnh cửu là chính Người. Xin thương ban cho nhân loại nhận ra tình Chúa yêu thương, và trọn vẹn dâng hiến, hầu bước theo và được nhận lãnh./. Amen.
27. Niềm vui được Chúa viếng thăm
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Tại giáo xứ Bùi Phát, cha xứ luôn luôn thấy một ông già râu tóc bạc phơ, ngày nào cũng vào khoảng 12 giờ trưa, ông vào nhà thờ cầu nguyện, rồi vài phút sau ông ra về. Thấy ông ra vào rất nhanh, cha thắc mắc hỏi ông thì ông trả lời:
“Con không thể cầu nguyện lâu giờ được, nhưng mỗi ngày vaò lúc nghỉ trưa, con vào nhà thờ đề thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, Con đây!”, xong tôi nán lại đôi ba phút, rồi ra về”.
Bẵng đi một thời gian không thấy ông già đâu, vì ông bị tai nạn nên được đưa vào bệnh viện. Vì không thân nhân, không họ hàng đưa về, nên phải chạy chữa ngay ở trong nhà thương, và ở đây ngày nào cũng vậy ông được Chúa đến thăm. Ông cũng chỉ nói những lời giống như ông thường đến thăm Chúa trong nhà thờ: “Lay Chúa Giêsu, con đây!”
Các nữ tu coi sóc bệnh nhân, thấy từ ngày ông già vào đây thì hoàn cảnh vật đều đổi thay, vì ông thường đi thăm hỏi và nói chuyện tếu táo với mọi người, khiến các soeurs cũng cảm thấy thay đổi. Các soeurs hỏi ông thì ông thưa lại:”Có người đến thăm con hàng ngày, sao con lại không vui được?”. Hỏi mãi ông mới gạn trả lời:”Chúa Giêsu đến thăm con.” Bởi thấy Chúa là nguồn vui dến thăm, khiến ông đã không quàn ngại chia sớt cái niềm vui ông được cho các bệnh nhân đang cùng điều trị chung phòng với ông.
Câu chuyện “Niềm vui đuợc Chúa viếng thăm” là niềm vui mà ông già đã lãnh nhận, ông đã chia sẻ với mọi người. Niềm vui được Chúa đến với mình lúc tham dự thánh lễ, và nhất là khi rước lễ, cũng phải là niềm vui thúc đẩy chúng ta thực hiện tất cả những gì Đức Giêsu đã làm! Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nói: “Chúa Giêsu vẫn hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong việc cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người Linh Mục… Nhất là trong Phép Thánh Thể, trong các Bí Tích Thánh. Ngài còn hiện diện qua Phúc Âm, qua Lời Chúa….” (Constitutin on the Sacred Liturgy). Điều này được giải thích cách rõ ràng trong bài Phúc Âm: “Ta là bánh hằng sống… Bánh từ trởi xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Như thế, chính là Chúa phục sinh ngự đến với ông già.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa hiện diện nơi người anh em chúng con.
28. “Bí Quyết Trường Sinh”
(Suy niệm của Lm. Gioan Vượng, CRM)
Tần Thủy Hoàng là một ông vua giầu có, nắm trong tay quyền uy muốn làm gì cũng được, nhưng ông lại rất sợ chết. Ông tìm mọi cách để cho mình được sống trường sinh bất tử. Ngày kia các nhà chiêm tinh và thầy pháp thưa ông rằng ở Biển đông có một hòn đảo địa đàng, dân cư ở đấy đã khám phá ra được bí thuật trường sinh. Nghe thế Tần Thủy Hoàng truyền lấy mấy chiếc tầu chở trân châu ngọc qúi và cho người đi tìm hòn đảo đó để đổi lấy cái bí thuật sống trường sinh bất tử. Truyện kể rằng đoàn tầu thám hiểm đó đã tìm thấy hòn đảo, nhưng dân cư ở đấy nhất định không chịu đổi bí thuật trường sinh bất tử bằng những món đồ qúi gía, nhưng dưới mắt họ lại chỉ là tầm thường rẻ mạt so với cuộc sống đời đời. Thực ra hòn đảo địa đàng kia làm gì có. Chẳng qua là do trí tưởng tượng, hoặc mưu kế của các nhà chiêm tinh và thầy pháp bày ra để trấn an sự sợ chết, để làm dịu bớt cái khát vọng sống bất tử của Tần Thuỷ Hoàng.
Nhưng cái bí thuật trường sinh bất tử mà dân cư trên hòn đảo trong câu chuyện không muốn đổi cho Tần Thủy Hoàng thì Chúa Giêsu lại ban tặng cho ta nhưng không (free gift). Chính Ngài giới thiệu và mời gọi ta đến lãnh nhận sự sống đời đời. Ngài tuyên bố thật rõ ràng: “Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6:51). Như vậy, để đạt được sự sống đời đời thì phải tin Ngài là bánh ban sự sống bởi trời xuống. Phải lấy lòng tin mà ăn thịt và uống máu Ngài. Điều này không phải là dễ đối với những người Dothái thời Chúa Giêsu vì thế có một số người xầm xì: “Lời nói đó chói tai quá! Ai mà nghe được?” (Ga 6:60), nên họ đã rút lui không theo Ngài nữa. Họ bảo Chúa Giêsu chỉ là con bác phó mộc Giuse, mẹ Ngài là Maria và anh em Ngài đang sống giữa họ. Cũng vậy, ngày nay có nhiều người cũng sống hoàn toàn theo lý trí tự nhiên. Họ nhìn Thánh Thể chỉ là một tấm bánh thường, làm bằng chút bột miến có thế thôi. Và số đó có cả một số người Công giáo nữa mới đáng buồn!
Vì thế Chúa Giêsu nói rõ ai được Chúa Cha ban cho thì mới có thể đến với Ngài: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy” (Ga 6:44). Cần phải được Chúa ban ơn cho, ta mới có thể nhận ra Chúa Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Cần phải có đức tin mới có thể nhận ra dưới hình bánh nhỏ mọn có thật Chúa Giêsu hiện diện, một Chúa Giêsu với trót cả bản tính Thiên Chúa và nhân loại.
Nếu rước lễ nên ta được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Chúa đã phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6:56). Như giọt nước hòa tan với rượu nho trong chén thánh, ta cũng được tan hòa với Chúa Kitô như vậy. Rước lễ còn chuẩn bị thân xác ta sẵn sàng đón nhận cuộc phục sinh vinh hiển: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6:55). Khi kết hiệp với ta trong lúc rước lễ, Chúa Giêsu đặt trong ta mầm sự sống vinh quang, như mầm sống trong hạt giống nằm sẵn đó chờ ngày đâm chồi phát triển thành cây xanh tươi mang đầy hoa trái.
Vậy, để đáng Chúa ban ơn trường sinh bất tử, ta hãy dọn mình xứng đáng và kính cẩn đến rước Chúa với lòng tin yêu mạnh mẽ. Sau khi rước lễ, ta hãy cầm trí cám ơn Chúa tử tế. Nhưng rất tiếc, nhiều lần ta đã rước Chúa một cách máy móc, và vừa mới rước Chúa ngự vào lòng đã chia trí lo ra, chẳng nói với Chúa được một lời, chẳng biết bày tỏ với Người những nhu cầu, những ước vọng, chẳng biết thưa với Người những nỗi băn khoăn lo lắng trong cuộc sống xin Người hướng dẫn để ta biết sống đẹp ý Chúa.
Nói tóm lại, để việc rước Chúa sinh công hiệu tốt, ta phải gắng cất những ngăn trở: những tội lỗi, những dịp tội, những hành vi, cử chỉ, lời nói bất xứng. Trong khi rước lễ, ta lại phải giục lòng tin cậy, t ô n t hờ, yêu mến Chúa cách mạnh mẽ. Nhưng tự sức ta, ta khó có thể làm được cách hẳn hoi. Vậy ta hãy cậy nhờ Mẹ Maria và thánh Giuse đón tiếp Chúa và cám ơn Chúa với ta và thay cho ta.
29. “Đây Là Màu Nhiệm Đức Tin”
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh)
Giáo lý của Chúa Kitô, nói chung, được nhiều người chấp nhận vì tính cách “hợp tình hợp lý” của nó. Nhưng khi mặc khải về nguồn gốc thần linh của mình và về Bí tích Thánh Thể, Ngài đã gặp những phản ứng hoàn toàn bất lợi. Thánh Gioan ghi lại rằng khi Ngài nói: “Ta là bánh bởi trời”, thính giả đã xì xèo: “Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Chúng ta biết rõ cha mẹ của ông. Vậy tại sao ông ta lại nói: Ta là bánh bởi trời xuống?”
Trước những phản ứng tiêu cực đó, Chúa Giêu đã không rút lại lời tuyên bố, trái lại, tiếp tục giải thích: “Tôi là bánh từ trời. Cha ông anh em đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Chính tôi đây mới là bánh từ trời để ai ăn thì không phải chết. Bánh đó chính là thịt tôi để nhân loại ăn mà được sống.” Những lời giải thích đã không đủ sức thuyết phục người nghe, trái lại còn gây thêm rắc rối, đến mức độ họ phải kêu lên: “Lời gì mà nghe thật chói tai. Làm sao ông ta có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn đươc?” Và họ bỏ đi. (Xem Gioan 6:60,66)…
Quả thực, Bí tích Thánh Thể là một điều khó tin, khó chấp nhận, vì đây là một việc vượt xa lý luận và khả năng con người. Nói cách khác, đây là một phép lạ, một sự việc hoàn toàn nằm trong lãnh vực đức tin. Chính vì thế, mỗi khi đọc xong lời truyền phép, linh mục chủ tế lớn tiếng tuyên bố với chúng ta: “Đây là màu nhiệm đức tin”. Cũng vậy, trước mỗi lần lãnh phép lành Mình Thánh Chúa, chúng ta nói với nhau “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì” (Ca khúc Pange lingua, đoạn cuối).
Đúng thế, Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, nên con người không thể dùng lý trí để suy luận, cũng không thể dùng giác quan mà cảm nhận. Vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao chúng ta chấp nhận Bí tích Thánh Thể? Chúng ta tin rằng Đức Kitô chính là Thiên Chúa tòan năng và chân thật. Là Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điếu gì Ngài muốn. Là Thiên Chúa chân thật, Ngài không bao giờ dối trá và sai lầm. Lời Ngài là chân lý; Ngài nói là phải có, phải đúng. Căn cứ vào hai ưu điểm này của Ngài, chúng ta xác tín rằng:
– Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể.
– Bánh hằng sống từ trời ban xuống chính là thịt Ngài.
– Muốn có sự sống đời đời, con người phải ăn thịt Ngài.
Chính qua niềm tin đó,và tuân theo lệnh truyền của Chúa “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Giáo Hội Công Giáo luôn cử hành Thánh Thể, đồng thời khuyến khích chúng ta rước lễ và chầu Mình Thánh Chúa khi có thể. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II năm ngoái đã gởi đến chúng ta một thông điệp về Bí tích Thánh Thể, mang tên “Ecclesia de Eucharistica” (Giáo Hội từ Thánh Thể Chúa) và đặt năm 2005 là Năm Thánh Thể. Với thông điệp này và năm Thánh Thể, Đức Thánh Cha cống hiến cho chúng ta một cơ hội thuận tiện để đào sâu ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể, đồng thời khơi lên tâm tình yêu mến Thánh Thể nơi tâm hồn chúng ta. Năm Thánh Thể đã chấm dứt, nhưng niềm tin và tâm tình đối với Thánh Thể cần phải được tiếp tục trong suốt cuộc sống của mỗi người.
Vững tin vào lời quả quyết của Chúa Giêsu và sự khích lệ của Giáo Hội, ước gì chúng ta luôn đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm cuộc sống của mình, bằng cách lợi dụng mọi cơ hội, đặc biệt ngày Chúa Nhật, để đến với Thánh Thể, nhờ đó, chúng ta được nuôi dưỡng và thêm sức mạnh.
30. Còn hơn manna nữa – Jean Yves Garneau.
Thật dễ quên đi những điều đẹp đẽ nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất… và làm cho chúng trở nên tầm thường! Tình yêu được sống ngày này qua ngày nọ, không ồn ào. Người ta ít nhận ra nó, người ta không quý trọng nó đúng mức. Sức khỏe của chúng ta được xem như một điều quá bình thường… Vậy nói về nó làm gì? Những gì tuyệt vời trong thiên nhiên, người ta không còn nhìn thấy nữa. Có nhiều món trên bàn ăn, ba lần mỗi ngày, có gì tự nhiên hơn đâu? Tại sao phải tạ ơn vì những món ăn đó?
Người ta cũng quen với những thực tại thiêng liêng, thần thiêng và chẳng thiếu gì những lúc người ta còn xem những thực tại ấy là tầm thường nữa. Ta hãy nêu một ví dụ, đó là việc rước lễ. Một Chúa Nhật, hay có lẽ nhiều hơn nữa, chúng ta được đón tiếp tại bàn tiệc của Thiên Chúa. Bánh Thánh được trao cho chúng ta, chúng ta rước Mình Thánh Chúa. Sự sống của Con Một Thiên Chúa tràn vào tâm hồn chúng ta, thật không tầm thường chút nào!
Nhưng chúng ta rước lễ ra sao? Chúng ta quý trọng Thánh Thể như thế nào? Thánh Thể dùng để làm gì cho chúng ta? Thực sự, nguy cơ trở nên quen thuộc với Bánh Thánh thật là lớn, cũng như người ta quen thuộc với bánh người ta đặt trên bàn ăn gia đình mỗi ngày. Vậy phải phản ứng: Phải mở mắt ra. Hôm nay là dịp tốt để làm điều này, vì Tin Mừng nói với chúng ta về Bánh Thánh, cũng như hôm Chúa Nhật vừa rồi.
Bánh trong sa mạc: Tiền vị của Thánh Thể.
Để cho người ta hiểu giá trị của nó, Chúa Giêsu nhắc đến manna được ban cho dân Chúa trong sa mạc, Ngài nói: Bánh Thánh Thể vượt xa hơn manna nữa. Nó còn phong phú vô cùng hơn nữa.
Tuy nhiên manna đã là một cái gì lạ lùng rồi. Mỗi ngày khi thức dậy, người ta có thể đi nhặt bánh đó đầy giỏ. Vui thích biết bao được nuôi dưỡng bằng thứ bánh ấy! Không có nó không thể nào tiếp tục bước đi giữa sa mạc, ngày này qua ngày nọ, tiến về đất hứa được. Chính manna đã cứu dân Chúa trong sa mạc. Manna đã là một thứ bánh làm cho sống, một thứ bánh giải phóng.
Manna đối với người Do Thái như thế nào, thì bánh Thánh Thể đối với chúng ta cũng thế ấy. Và còn hơn nữa! Như Manna, Thánh Thể sẵn có cho chúng ta mỗi ngày. Được ban nhưng không. Được ban dư dật. Tuy có điều này đặc biệt: Sự sống mà bánh Thánh Thể ban không chỉ là thể lý, sẽ chấm dứt bởi cái chết, nhưng là sự sống vĩnh cửu. “Trong sa mạc, cha ông anh em đã ăn manna, và họ đã chết, nhưng bánh này từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không chết… Họ sẽ sống đời đời”.
Lời khẳng định tuyệt vời. Chúng ta có sẵn một lương thực cho phép chúng ta sống mãi. Khi chúng ta tự nuôi dưỡng mình bằng Thánh Thể, chính là lúc chúng ta tháp mầm sống vĩnh cửu vào xác thịt của chúng ta.
Lý do được diễn tả cách rõ ràng. Bánh Thánh Thể không phải là một thứ bánh của trần thế. Đó là bánh từ trời xuống. Chứa đựng Đấng phát xuất từ thế giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.
Qua trung gian bánh Thánh Thể, Chúa Kitô hiển thắng và Phục Sinh được ban cho chúng ta. Mình và Máu Ngài, được Chúa Thánh Thần biến đổi, đã được ban cho chúng ta. Những gì của Thiên Chúa đi vào lòng chúng ta, sự sống của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta. Vậy nên nhờ bánh này, chúng ta đạt được khả năng sống đời đời.
Sự giàu sang lạ lùng! Sự phong phú lạ lùng của bánh Thánh Thể! Chúng ta phải coi chừng, đừng tầm thường hóa thứ bánh cao cả dường ấy.
31. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của An Phong, OP)
Người Do thái đã phản đối Chúa Giêsu khi Người nói mình là Bánh Hằng Sống bởi trời, vì họ chỉ nhìn thấy nơi Đức Giêsu là con ông Giuse, một con người như biết bao nhiêu người khác. Đức Giêsu hiểu được sự cứng lòng ấy; Người khẳng định người ta cần phải được Thiên Chúa giáo huấn, dạy dỗ để có thể đón nhận “Đấng Chúa Cha sai đến” vì “không ai đến được với Tôi nếu Cha là Đấng sai Tôi không lôi kéo họ”; và ai được lãnh nhận Bánh Chúa Giêsu ban là chính Thịt của Người thì mới có thể được sống muôn đời.
Đức Giêsu Đấng Thiên Sai từ trời xuống để trở nên Ơn Cứu độ cho con người. Người là Lời Thiên Chúa gửi đến để giáo huấn nhân loại; “phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi” và Người là Bánh để nuôi dưỡng sự sống của Thiên Chúa trong nhân loại, “Bánh Tôi ban chính là Thịt Tôi để cho thế gian được sống”.
Khi tham dự thánh lễ, chúng ta được mời gọi tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.
Đối với những người tin, tức là những người gắn bó với Đức Giêsu, thì Lời của Người hướng dẫn họ trong cuộc sống trần gian, giúp họ đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Cuộc sống trần gian có biết bao điều mờ tối, lừa gạt, cám dỗ; nên Thiên Chúa muốn ban Lời của Người để “hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Khi mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, để cho Lời Chúa chỉ dẫn những khi rối rắm. Gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu, thì chúng ta bước theo đường lối của Thiên Chúa và tìm thấy bình an, hạnh phúc.
Đối với những người đón nhận Thánh Thể, Bánh mang lại sự sống đời đời, thì chính Đức Giêsu đến và biến đổi họ. Thánh Thể là nguồn nghị lực để chiến thắng cám dỗ của ích kỷ, là nguồn tình yêu để vuợt qua những gian nan trên hành trình sa mạc cuộc đời.
Dường như chúng ta vẫn chưa cởi mở và sẵn sàng đủ để lắng nghe Lời giáo huấn của Thiên Chúa? Dường như chúng ta chưa đón nhận Thánh Thể như một quà tặng của Tình yêu Thiên Chúa?
Lạy Chúa,
Trên con đường trần gian,
biết bao lần chúng con bị lầm lạc
vì chạy theo những loại “bánh hay hư nát”.
Trên con đường trần gian;
biết bao lần chúng con cảm thấy mệt mỏi và chán nản
vì những trò đời.
Lạy Chúa,
xin cho chúng con biết tìm đến Chúa,
là Lời Giáo huấn khôn ngoan
và là Bánh Hằng Sống đời đời.
32. Bánh Trường Sinh
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Con người hay lầm lẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết. Có những điều không biết mà nghĩ là biết. Trái lại có những điều biết mà nghĩ là không biết. Chính những ‘nghĩ là’ tạo nên nhiều trăn trở trong cuộc sống. Nguy hiểm hơn cả khi trăn trở đó liên quan đến vấn đề tâm linh, đức tin.
Nguy hiểm vì niềm tin tôn giáo định hướng cuộc đời. Định hướng liên quan đến tương lai, liên quan đến cách xử thế trong xã hội, liên quan đến việc cá nhân thực thi đức ái và lối sống đạo.
Từ chối nhận
Đám đông theo Đức Kitô, nghe Ngài nói về bánh trường sinh, họ vui mừng đón nhận và xin thêm bánh đó. Đức Kitô dẫn họ tiến thêm một bước nữa Ngài nói,
‘Tôi là bánh từ trời xuống’
Đám đông đặt vấn đề, viện lí lẽ từ chối. Làm sao ông này có thể làm được điều đó. Định kiến ngăn cản họ mở rộng tầm mắt.
Định kiến thứ nhất phát sinh do tư tưởng. Theo họ Thiên Chúa ở tận trời cao, mây thẳm, con người không thể vươn tới.
Thứ hai Chúa là Thần Linh. Thần linh không thể trông giống và sống chung với người phàm. Định kiến này chối bỏ Chúa Giáng Sinh nơi hang đá Belem. Đồng thời phản bác hình ảnh Chúa đồng hành với dân Người trong vườn địa đàng trước khi tội vào thế gian. Định kiến thứ hai ảnh hưởng bởi tội lỗi, ngăn cản con người nhận biết Chúa.
Đám đông nhận biết Đức Kitô làm bánh hoá ra nhiều nhưng không công nhận Ngài là Thiên Chúa giáng trần. Dùng sức mạnh tập thể thế quyền lấn át thần quyền. Ngày nay nó xuất hiện dưới hình thức không công nhận linh mục này, phản đối linh mục nọ. Dù nhận hay không thiên chức vẫn là thiên chức. Thiên chức không do con người ban mà do ơn thánh, ơn thiên triệu. Từ chối ơn thánh là chấp nhận sống như kẻ vô thần.
Kiến thức, hiểu biết xóm làng là định kiến thứ ba dẫn đến phán đoán sai lầm về Thiên Chúa. Đám đông đơn thuần lập luận biết rõ gia đình, thân thích. Làm sao có thể nói ông là Thiên Chúa.
Căn bệnh tự mãn
Chúa Kitô gặp rắc rối không phải với những người xa lạ. Ngài gặp rắc rối với những người tự nhận là biết Ngài, rõ gia đình dòng tộc, xuất xứ, gốc gác con cái nhà ai, sanh tại đâu. Cha mẹ làm nghề gì. Chính những hiểu biết trần thế này làm mờ con mắt đức tin, ngăn cảm việc nhận ra Đấng ban bánh trường sinh. Sai lầm do tự mãn gây ra. Bởi tin điều đã biết là chính xác, không tìm hiểu thêm, không chấp nhận thay đổi. Tự mãn trở thành định kiến như đã phân tích trên.
Dùng hiểu biết, kiến thức trần thế để giải thích sự kiện trên trời là một cạm bẫy kẻ sĩ thường mắc phải. Kiến thức sâu rộng trần thế không bảo đảm người đó có kiến thức, hiểu biết nước trời. Kiến thức nước trời không thể đo bằng hiểu biết trần thế.
Nhìn bằng con mắt đức tin sẽ giúp nhìn rõ hơn. Để có con mắt đức tin thì cần phải có lòng tin, dù là rất nhỏ. Thiếu lòng tin, không thể bắt đầu việc tìm hiểu lẽ đạo. Có nghe Chúa giảng cũng không hiểu. Ăn bánh phép lạ xong vẫn còn đói. Đọc Phúc Âm mong có thêm kiến thức hơn là giúp ích cho lòng tin. Đức tin là bước đầu tiên, quan trọng, nền tảng chính trong việc nhận biết thế giới thần thiêng.
Cửa tâm hồn
Kiến thức được ví như cánh cửa sổ của tâm hồn, giúp nhìn vào khung trời bao la. Điều trớ trêu là nếu không biết mở sẽ xảy ra tình trạng mở khung trời này, cùng lúc lại đóng, che lấp khung trời khác.
Cả cánh cửa lẫn mắt nhìn đều có giới hạn riêng, tầm nhìn thu hẹp của người nhìn. Ngăn trở lớn là cùng xem nhưng kết luận khác nhau. Cùng nhìn vào khung trời có kẻ nhìn sót, kẻ nhìn không rõ. Kẻ chú trọng điều này, người quan tâm đến vật nọ. Kết quả cùng nhìn một bức tranh, đọc chung sự kiện mà nhiều ý khác nhau. Tương tự như bức tranh thiên nhiên. Cùng nhìn vào thiên nhiên vũ trụ mà có kẻ chối bỏ Thiên Chúa, kẻ tin thờ Thiên Chúa.
Cường điệu
Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa hay xác định biết rõ Thiên Chúa. Cả hai cách nói đều cường điệu. Thực tế cho thấy kiến thức hạn hẹp; trí khôn nông cạn; nhìn sự việc phiếm diện, ngăn cản, hoàn toàn chối bỏ hay biết rõ về Thiên Chúa. Chưa biết rõ chính ta sao có thể biết rõ Đấng tạo dựng nên ta. Không hiểu ta và bạn thân sao có thể hiểu rõ Đấng dựng nên ta. Vì thế mọi khẳng định biết rõ hay hoàn toàn chối bỏ Chúa đều giả dối, cường điệu. Chối bỏ Thiên Chúa chính là chối bỏ tình yêu. Không có tình yêu, không có sự sống. Khi tạo dựng con người, Chúa đặt vào tâm luật biết lành dữ. Tội làm cho việc phán đoán này ra lu mờ.
Tin vào Chúa được Lời Ngài hướng dẫn, dẫn đưa ta tiến trên con đường lành, đường nhân đức, đường dẫn đến sự sống trường sinh.
Chối bỏ Chúa ta tự chọn đi con đường ác, dẫn đến diệt vong. Chối bỏ Chúa vừa là mây mù ngăn cản nhận ra Chúa, là chướng ngại ngăn cản người khác đến cùng Chúa, vừa cản trở việc Chúa muốn thực hiện.
Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi… Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh (c.43).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam