Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 51
Tổng truy cập: 1371136
TUYỆT VỌNG TRONG HY VỌNG
“… ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Phật giáo có câu: “đời là bể khổ” nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời chỉ gặp toàn là đau khổ, tội lỗi, chết chốc… Đây là một trong những ưu tư mà con người phải mang lấy. Đặc biệt hơn khi đối diện với cái chết, con người dù tài giỏi đến đâu cũng đành bó tay và cúi đầu im lặng. Không khéo sẽ dẫn con người đến chổ tuyệt vọng. Nhưng là con người thì ai cũng mong cho mình một cuộc sống an vui, một gia đình ấm no và hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là mộng ước, còn thực tế thử hỏi có mấy ai được như vậy?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn tích cực, mang đầy ý nghĩa và niềm hy vọng từ những đau khổ, tội lỗi và chết chốc trong cuộc sống. Như thánh Phaolô dạy, “Niềm hy vọng của tôi là Thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Với tôi, sống là chiến đấu; chết là chiến thắng. Tôi hoàn toàn tin tưởng ký thác vào lòng từ bi nhân hậu cho tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và phục sinh vinh hiển ngay trong trần gian này. Đây là đích điểm mà tôi tin tưởng khi phải trực diện với biết bao nghiệt ngã của đau thương, biết bao sóng gió vùi dập lên cuộc đời, và nhất là mai đây phải ngậm ngùi trong tuyệt vọng của cái chết. Và lời hứa của Ngài là chìa khoá mở ra một chân trời hy vọng: “…ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chìa khoá này, giúp tôi xác tín một cách chắc chắn rằng: không có sự chết và càng không có sự chết trong khi chỉ có những người đang sống trên thế giới này và thế giới bên kia. Mặc dầu sự chết là một thực tại, nhưng chết chỉ trong chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi. Bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Bước đi từ hữu hạn sang vô hạn.
Và cũng chính lời hứa ấy đã âm thầm len lỏi và lấn sâu vào lòng của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đến nỗi Ngài phải thốt lên trên giường hấp hối: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Hơn thế nữa Thánh Phanxicô đã xác tín niềm tin về cái chết của mình rằng: “Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi, lúc con người nằm yên giấc ngủ, mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai”. Quả thế, với những người không có niềm tin thì chết là tuyệt vọng. Ngược lại, với tôi chết là chiến thắng là khởi điểm cho một cuộc sống mới: sống với Chúa, sống bên Chúa, sống trong Chúa và sống như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua tình yêu, Ngài đã chiến thắng sự chết trong đau khổ, trong thất vọng trên giường thập giá. Xin cho con ý thức rằng: Chấp nhận mọi nghịch cảnh đau thương trong cuộc đời mà trên giường hấp hối, trước khi chết con chưa làm được. Nói lời yêu thương mà trong cơn nguy tử con không thể nói được. Hiến thân cho anh em khi còn sống mà trong nấm mồ con đang bất lực. Xin cho con tin tưởng vững vàng trong giay phút hiện tại, để rồi mai đây con không tuyệt vọng mà mãi mãi ra đi trong hy vọng và trong vinh quang bất diệt.
26. Chuyện thưởng phạt
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Chúa hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh, đặc biệt là Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.
Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,15).
1. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì dễ vái tứ phương”. Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” (Ep 2,8-9)
2. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương. Có thể nói đây là ý chính của phần Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” (Tv 136), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14,5). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,4).
Thiên Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ… không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu (x.Rm 8,39). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.
27. Tin Chúa – Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống có niềm tin là cuộc sống hạnh phúc. Không phải hạnh phúc lúc nào cũng giống nhau. Có lúc ta vui nhiều, lại có lúc ít vui. Có niềm vui dạt dào lại có niềm vui nhè nhẹ, thoang thoảng. Vui dù ít, dù nhiều đều là hạnh phúc, kết quả của niềm tin. Niềm tin nơi mỗi người lại khác nhau. Có người đặt niềm tin trên thành công, kẻ khác trên vật chất, kẻ khác nữa trên danh vọng, kẻ khác dựa vào tôn giáo. Bởi đặt niềm tin khác nhau nên niềm vui cũng đến rồi đi khác nhau. Niềm vui qua mau bởi chính nguồn gốc của niềm tin không vững chắc. Gốc không vững, chắc chắn ảnh hưởng đến ngọn, hoa lá cành. Như thế cần đi tìm một nguồn gốc vững chắc cho niềm tin vì niềm tin bảo vệ hạnh phúc. Niềm tin vạch đường, vẽ ra viễn tượng cho cuộc sống tương lai. Người ta sống thực hiện, mong đạt được giấc mơ của niềm tin. Đạt được ước mơ của niềm tin mang lại hạnh phúc, nguồn vui. Hạnh phúc bền lâu nếu gốc của niềm tin vững chắc. Hạnh phúc mau tàn, chóng qua nếu gốc của niềm tin biến chuyển ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội.
Niềm tin vững chắc là niềm tin tôn giáo bởi niềm tin này cao hơn vật chất nên vật chất dù biến đổi cũng tác hại rất ít đến niềm tin tôn giáo. Có nhiều tôn giáo khác nhau. Về phương diện đạo đức tôn giáo thường có những điểm giống nhau nhưng niềm tin tôn giáo không giống nhau. Căn bản là niềm tin mà niềm tin khác nhau tạo thành tôn giáo khác nhau. Bởi khác biệt về niềm tin nên mới có tôn giáo này, tôn giáo kia. Chính vì khác biệt mà cần chọn lựa, không phải chọn lựa tôn giáo thích hợp cho mình mà chọn lựa tôn giáo có nguồn gốc vĩnh cửu bởi ai cũng đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
Nicodemus sanh ra trong gia đình quí tộc, giầu có, thành công trên đời. Ông chan chứa danh vọng, đầy quyền chức thuộc hàng lãnh đạo. Bao kẻ ước mơ mong sống thử một ngày như ông nhưng không được trong khi đó Micodemusvui với những gì mình có nhưng vẫn thấy thiếu hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc sống đạo đức không thoả mãn ước mơ tâm hồn. Có lẽ ông có cảm tình với Đức Kitô khi Ngài thanh tẩy đền thờ, dùng giây thừng đuổi kẻ buôn bán.
Ba lần ông đến gặp Đức Kitô mong tìm nơi Ngài điều đang thiếu. Lần đầu có lẽ vì sợ tai tiếng, giữa đêm ông gõ cửa xin gặp Đức Kitô. Trong cuộc đối thoại ông không hiểu làm sao người lớn lại có thể tái sanh trong nước hằng sống. Đức Kitô đã mở trí ông. Có thể nói ông được thanh tẩy không phải bằng nước mà chính Lời Chúa soi sáng tâm hồn. Lần thứ hai trước toà ông công khai lên tiếng phản đối cách phán xét, xử án bất công với Đức Kitô. Kêu gọi họ phải tuân thủ luật lệ hiện hành. Lần thứ ba là kinh nghiệm đau đớn nhất. Ông cùng với bạn mình hiện diện tháo đinh Đức Kitô.
Nicodemus hy vọng gì nơi người bị đóng đinh, chết trên thập giá?
Qua cái chết của Đức Kitô mắt ông nhìn thấy ánh sáng chân lí và bắt gặp niềm vui bất diệt nơi Ngài. Tình thương Đức Kitô dành cho những phụ nữ đứng bên đường than khóc làm mềm tim ông. Lòng nhân ái Đức Kitô dành cho kẻ trộm biết thống hối tăng thêm đức tin cho ông. Lòng mến Đức Kitô dành cho bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt thôi thúc tâm hồn ông tin Chúa. Chính ông rủ người bạn quí tộc Joseph of Arimathia đến chôn cất Đức Kitô. Người bạn này dành phần mộ riêng mình cho Đức Kitô. Nocodemus tặng Đức Kitô đủ số lượng mộc dược cho việc an táng.
Nicodemus có được niềm tin không phải lúc Đức Kitô đang lừng danh nhưng lúc Đức Kitô chết đau thương trên thập giá. Chính đau khổ của thập giá mở mắt đức tin ông.
28. Đón nhận ánh sáng – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thiên Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu của Ngài” (Ga 3,16)
Có một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích dẫn trong bài Tin mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị về ánh sáng: “Ánh sáng đã đến trong thế gian” (3,19).
Ngài còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm sao Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong đáp án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: “Như Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời”. Sau này, như được nhắc đến trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu” (8,28), và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng cứu thế của Ngài: “Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là “Giờ” và “Vinh quang” của Ngài” (Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ trao ban chính con một của Ngài”. Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho con người. Ánh sáng và vinh quang ở đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình ra hư không. Ngài trở nên quà tặng vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Nhưng chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết “Đức Giêsu là Chúa”. Nhưng đây không phải là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê 2,19). Đức tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó là “Tin Vào” (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình tiến sâu vào trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho Ngài: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26)”.
Trong Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và “ Yêu”. Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (15,9). Ngài còn dặn dò các môn sinh: “Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau” (13,34).
Bạn đã từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật chất, nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến bạn, bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ trong đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến độ quên đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá, Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.
29. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực tại tốt. Từ cuộc đổ vỡ trong công cuộc tạo dựng nhân loại, Thiên Chúa lại tái tạo nó đẹp đẽ hơn theo hình ảnh Con Một Người là Chúa Kitô. Tái tạo hay phục hồi là một đề tài lớn của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh. Nhưng động lực tình yêu khiến Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo này mới là cao điểm suy niệm. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua biến cố lịch sử Người giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ, nhưng đó chỉ là hình bóng tiên báo tuyệt đỉnh tình yêu qua hành động Thiên Chúa “sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
1. Lịch sử Israel: yêu cho roi cho vọt (bài đọc Cựu Ước – 2 Sb 36:14-16.19-23)
Một đoạn sách Sử biên niên tiêu biểu như bài đọc Cựu Ước hôm nay cũng đủ để phác họa tất cả lịch sử dân Chúa với ba nét chính: Israel bất trung với Thiên Chúa và không chịu hối cải – Thiên Chúa trừng phạt họ, thường là họ bị phát lưu hoặc bị lân bang đánh phá – Thiên Chúa thương xót tha thứ và tái thiết Israel. Lịch sử dân Chúa không chủ yếu xây dựng trên những cột mốc năm tháng, nhưng trên mối quan hệ yêu thương thăng trầm và đổi thay giữa Thiên Chúa và dân Israel. Lịch sử khởi đầu bằng một sự tuyển chọn từ phía Thiên Chúa. Người đã kêu gọi Áp-ra-ham làm tổ phụ của một dân riêng với hy vọng dân này sẽ luôn luôn nhìn nhận Người là Đức Chúa của họ và phụng thờ Người, đồng thời tuân giữ luật pháp Người ban cho họ là Mười điều răn. Mà đã tuyển chọn và kêu gọi thì cần phải có sự đáp lại của Israel. Do đó, mỗi khi dân Chúa quay mặt về phía các tà thần và không đáp lời gọi sống theo luật Chúa là họ đã lỗi phạm sự trung thành đối với Người. Với thân phận làm Cha, Thiên Chúa muốn con cái Người luôn luôn ngoan ngoãn nên mới sửa dạy, sửa dạy bằng những hình phạt nhằm đánh thức lương tâm và giúp họ sống theo đường lối của Người. Việc sửa dạy này đòi hỏi kiên nhẫn và đầy lòng bao dung khoan thứ. Ta có cảm tưởng Thiên Chúa chạy đua với lỗi phạm của loài người. Tội lỗi loài người càng nhiều thì lòng nhân từ thứ tha của Chúa càng tăng gấp bội. Điều này thánh Phao-lô đã phát biểu trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5:20).
Tuy nhiên ta cũng đọc thấy trong lịch sử dân Chúa không biết bao lần Người đã trừng phạt Israel. Phải chăng Thiên Chúa ghét bỏ Israel? Không bao giờ. Trái lại những trừng phạt ấy luôn luôn nhằm hai mục đích. Về phía Thiên Chúa, chúng là dấu chỉ biểu lộ lòng thương xót của người Cha nhân từ không bao giờ nỡ hủy diệt hay loại bỏ những gì Người đã tuyển chọn. Về phía loài người, trừng phạt của Chúa nhắm mục đích nhắc nhở kêu gọi họ hãy bỏ đường tà mà trở về sống theo luật pháp Chúa. Cha mẹ nuông chiều con cái, chúng sẽ dễ hư mất. Trái lại, răn bảo, la mắng hoặc đôi khi đánh đòn sẽ là những phương tiện nhắc nhở chúng sống cho đúng theo ý tốt của cha mẹ. Cũng vậy, những lần dân Chúa bị ngoại bang xâm chiếm và bắt đi làm nô lệ là những lần giúp họ nhìn lại lỗi lầm bất trung của họ và lối sống đi ngược với Lề Luật. Những khổ đau nhục nhằn của kiếp sống lưu đày là những ngọn roi tuy làm cho người ta đau đớn nhưng lại đầy yêu thương và nhân từ của vòng tay người Cha hoang đàng về tình thương yêu con cái.
Để hiểu rõ hơn mục đích của những trừng phạt này, ta cứ đọc kỹ ba đoạn Kinh Thánh trong bài đọc Cựu Ước hôm nay. Đoạn thứ nhất (2 Sb 36:14-16) cho thấy lỗi lầm to lớn của dân Israel làm cho Thiên Chúa “bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa”. Đoạn tiếp theo (2 Sb 36:19-21) cho thấy mức độ vô phương cứu chữa. Làm sao có thể tái thiết Giê-ru-sa-lem và nhất là thoát ách nô lệ của vương quốc Ba-tư! Đoạn thứ ba (2 Sb 36:22-23) ghi lại sự kỳ diệu của việc Thiên Chúa can thiệp. Ai có thể ngờ được Thiên Chúa dùng chính bàn tay của kẻ thù Israel để tạo điều kiện và hô hào dân Israel xây dựng Nhà Chúa tại Giê-ru-sa-lem? Nhất là lời động viên dân Chúa trong sắc chỉ của vua Ky-rô càng khiến ta suy nghĩ: “Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” Rõ ràng là Thiên Chúa không “quá giận mất khôn” như ta nghĩ. Nhưng Đấng thấu suốt lòng dạ con người biết con cái mình sẽ hối lỗi ở mức độ nào của sự trừng phạt. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói đến cái biết này của Thiên Chúa: “Cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:21). Đất có được nghỉ một thời gian thì sau đó mới có thể trồng trọt phì nhiêu. Cũng vậy, những năm tháng lưu đày sẽ là thời gian để Israel tăng triển lòng tin và trung thành với Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều thường xảy ra trong cuộc đời tín hữu. Gian nan cuộc đời thường là những nhắc nhở hoặc chuẩn bị ta thêm lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3:14-21)
Con người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu là ban tặng. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Thiên Chúa yêu thương Israel nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang, như bài đọc I hôm nay đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái chết đời đời ấy. Với dân Israel, Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là Chúa Kitô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả. Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
“Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự”, đó là một luận đề chính trong giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Kitô đã khởi đầu công cuộc phục hồi cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta. Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta còn được cùng đồng hành với Chúa Kitô để sống tình con cái với Thiên Chúa là Cha của Chúa Kitô và của ta nữa. Chúa Kitô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta. Ánh sáng ấy là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong Thiên Chúa.
3. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người dành cho ta (bài đọc Tân Ước – Ep 2:4-10)
Thánh Gio-an diễn tả tình yêu của Thiên Chúa là việc trao ban Con Một, còn thánh Phao-lô lại muốn nói cách thức Thiên Chúa yêu thương ta qua cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô. Hai nhà thần học tiên khởi của Kitô giáo cùng nhìn một vấn đề, nhưng dưới khía cạnh khác nhau. Nhưng cả hai đều muốn nói lên một điểm chung: Thiên Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng thương xót. Tuy nhiên thánh Phao-lô muốn khai triển về phía con người được lãnh nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã cho ta là những kẻ đã chết vì sa ngã của tổ tông lại “được cùng sống với Đức Kitô”. Đây chính là điều ta cần phải suy nghĩ để biết cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu ta nên Thiên Chúa mới tạo điều kiện cho ta “được cùng sống với Đức Kitô”, nghĩa là cùng với Chúa Kitô làm một cuộc biến đổi, một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã khai mào cho một cuộc Tạo dựng Mới. Trong cuộc Tạo dựng Mới này, “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Như vậy là thánh Phao-lô đã cho ta thấy rõ ra phải làm gì rồi, nghĩa là ta phải “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp” của Thiên Chúa, tức công trình cứu độ của Người. Mỗi ngày sống của ta là một ngày ta thực hiện một chút công trình cứu độ của Chúa nơi ta. Cứ thế, sau khi ta đi hết những ngày trên trần gian này, ta sẽ đạt tới đích là “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2:6).
4. Sống Lời Chúa
Càng gần lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng cho ta thấy rõ hơn vai trò cứu độ của Chúa Giê-su Kitô. Người đã lấy tất cả cuộc đời Người để nói cho ta biết Thiên Chúa yêu mến và muốn cứu độ ta. Người mời gọi ta đến với Người để bắt đầu một hành trình sức sống mới, sống như “tác phẩm Thiên Chúa đã dựng nên trong Đức Kitô”. Mời gọi này quả thực là một thách đố cho ta nếu ta muốn thành tâm đáp lại. Tuy nhiên ta cũng phải ý thức rằng được mời gọi làm cuộc hành trình sức sống mới này còn là một “ân sủng” Thiên Chúa ban cho ta vì Người yêu thương ta. Ân sủng là do Thiên Chúa, nhưng lòng tin là đáp lại từ phía chúng ta vậy.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi đã sống niềm tin này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động, để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Chay).
30. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Lịch phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng, màu của niềm vui và hạnh phúc. Sở dĩ gọi làChúa nhật màu hồng là bởi vì trong ngày hôm nay, đồng thời với phẩm phục của chủ tế được thay đổi từ màu tím u buồn sang màu hồng trong sáng, thì những bài Thánh Kinh được chọn để đọc trong thánh lễ cũng loan báo một tin mừng trọng đại cho tất cả mọi người: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một mình, để tất cả những ai tin vào con Ngài thì được sống đời đời”.
Bởi vì Thiên Chúa không sai con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ”. Tin vui trọng đại này mặc dù được chính Đức Kitô làm cho trở nên hiện thực, nhưng nó đã được chuẩn bị từ thời Cựu ước, mà chúng ta đã có dịp nghe nhắc lại một cách sơ lược trong những ngày Chúa nhật vừa qua. Đúng vậy! Từ thời xa xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều phương cách, nhiều trung gian để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện một cách rỏ ràng và dứt khoát nơi con một của mình là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng ấy được bảo đảm bằng một giao ước long trọng với gia tộc Noe, một gia đình nhân loại mới được tái sinh, là sẽ không bao giờ có hình phạt Đại Hồng thủy như vậy nữa; Một sự kiện mà chúng ta đã nghe nhắc lại trong ngày Chúa nhật thứ nhất mùa chay.
Lợi dụng sự trung thành của Thiên Chúa, dân tộc mới này dần dần biến giao ước đó trở thành pháo đài của sự chống đối Người, mà tháp Ba-ben là một biểu tượng hữu hình. Thế nhưng không vì sự phản bội đó mà thiên Chúa hủy bỏ kế hoạch yêu thương của mình. Lời Chúa trong ngày chúa nhật thứ hai đã cho thấy rằng: Để bày tỏ sự trung thành của mình, Thiên Chúa đã nhẫn nại chọn trong đám nhận loại hư hỏng đó một người thật sự là biết trung thành và tin tưởng nơi Người, để hình thành một dân riêng của Chúa, đó là ông Ab-ra-ham.
Bước vào chúa nhật thứ ba, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một sự quan tâm đặc biệt mà Thiên Chúa đã dành cho dân này: Người ân cần ban bố những huấn lệnh, những lời chỉ dạy tốt lành nhất, để cho họ thật sự trở thành một dân tộc được Chúa chúc phúc. Thế nhưng một lần nữa, tình thương của Thiên Chúa bị con người lợi dụng.
Bài đọc một của ngày hôm nay cho thấy rằng: Không phải chỉ có dân chúng, mà còn cả hàng tư tế, cũng tỏ ra gàng bướng bất trung. Bao nhiêu thói hư tật xấu, bao nhiêu tội ác khủng khiếp mà dân ngoại đã làm, thì bây giờ nó lại xảy ra trong chính đền thờ; làm cho đền thờ trở nên dơ bẩn hổn tạp, mở đường cho ngoại bang xăm chiếm. Và rồi cũng thêm một lần nữa, chúng ta nhìn thấy được lòng trung thành yêu thương của Thiên Chúa: Người đã dùng triều đại Vua Cyrô để xây dựng lại đền thờ và khôi phục vương quốc Israel.
Đúng như tác giả của bức thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng đến thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Noe, Abraham hay Cyrô đều là hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu mang ơn cứu rỗi đến cho nhân loại. Và để chứng tỏ rằng: “thời kỳ đã mãn”; nghĩa là ơn cứu rỗi do Đức Giêsu mang đến là vĩnh viễn và dứt khoát, thì trong bài phúc âm hôm nay, khi trả lời với Nicôđêmô, Người quả quyết rằng: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, lịch sữ dân tộc Do thái sẽ không bao giờ quên được câu chuyện rắn đồng trong sa mạc. Lúc đó họ nổi loạn đòi giết chết cả ông Môisen. Lập tức Chúa để cho rắn lửa bò ra khắp nơi và cắn chết nhiều người. Khi ấy họ hoãng sợ tìm đến cầu cứu Môisen, và Chúa bảo Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Bất cứ người nào bị rắn cắn mà biết nhìn lên con rắn đồng ấy thì sẽ được cứu thoát. Nếu như năm xưa con rắn đồng được treo lên cao đó như là một dấu chỉ của lòng yêu thương tha thứ, để rồi cho dù con người có năm lần bảy lượt xúc phạm đến Chúa, nhưng nếu biết tỏ lòng hối cải và nhìn lên đó thì sẽ được cứu thoát; thì hôm nay cũng vậy, việc Đức Giêsu chấp nhận bị treo trên cây thập giá, cũng chính là một sáng kiến nói lên lòng tha thứ, để rồi bất cứ một ai nhìn lên đó và tin vào Người thì sẽ được cứu thoát.
Chính vì thế mà liền sau đó Đức Giêsu khẳng định rằng: “Thiên Chúa sai con một của Ngài đến thế gian không phải là để kết án luận phạt, nhưng là để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ”.
Tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm ở trần gian này, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả thì kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng phần rỗi của chúng ta, những con người tội lỗi và bất toàn vẫn được Lời Chúa bảo đảm: “Ai tin thì sẽ không bị lên án, còn ai không tin sẽ bị kết án.” Những người không tin không phải là bị kết án bởi Thiên Chúa, mà là tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố của mình, giống như ngày xưa chỉ có những ai nhất định cúi mặt xuống đất mà không chịu nhìn lên con rắn đồng, thì kẻ ấy mới chết.
Nhưng rồi chúng ta phải thể hiện lòng tin của mình như thế nào? Thánh Giacôbê tông đồ quả quyết rằng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải là một đức tin được hòa quyện giữa lý trí và việc làm. Dĩ nhiên là có nhiều phương cách thể hiện lòng tin của mình. Thế nhưng chủ đề chung mà các bài đọc Thánh kinh của ngày hôm nay muốn thể hiện đã gợi lên cho chúng ta một bài học lớn.
Một bài học mà suốt cuộc đời này, chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thực hiện nó; đó là mang tình thương của Chúa đến cho anh chị em mình bằng chính cuộc sống hàng ngày, qua những cung cách ứng xử thắm đượm lòng bác ái của chúng ta. Khi kết thúc cuộc sống đời này, Chúa sẽ không hỏi về số quần áo mà chúng ta đang có trong tủ của mình, nhưng sẽ hỏi rằng chúng ta đã giúp cho bao nhiêu người có quần áo để mặc?
Chúa sẽ không hỏi mức lương cao nhất của chúng ta là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi là chúng ta có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không? Chúa sẽ không hỏi chúng ta là đã nhận được bao nhiêu lời động viên khuyến khích, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã sẵn lòng khích lệ người khác như thế nào? Chúa sẽ không hỏi là chúng ta đã làm gì để lo cho bản thân, mà sẽ hỏi là chúng ta đã làm gì để giúp đỡ anh chi em của mình? Chúa cũng sẽ không hỏi chúng ta đã sống bên cạnh những ai, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã đối xử như thế nào với những người láng giềng của mình? Và nếu như ngay bây giờ, từng người trong chúng ta đang vui mừng hãnh diện với lòng mình về những điều đó khi mà chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa, là chúng ta đang thể hiện niềm tin của mình vào Chúa cách đúng đắn.
Còn ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy âu lo ngại ngùng trước những câu hỏi ấy, thì nhất định chúng ta hãy mau mắn sửa chữa, đặc biệt là trong mùa chay thánh này; đó chính là lý do mà ngay trong ngày khai mạc, Thánh Phaolô đã tuyên bố: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”.
Chúng ta nên nhớ rằng: không có một sự sửa chữa hay một sự đổi mới nào gọi là quá trể cả. Xin Chúa qua lời cầu bàu của Thánh cả Giuse, Người Công Chính, ban cho mỗi người chúng ta có được sự Công chính của Chúa để sống cuộc đời Kitô hữu của mình. Nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta được trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn với tình thương và ơn cứu độ của Chúa dành cho chúng ta.
31. Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
(Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên)
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
– Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
– Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
– Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
– Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
– Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
– Thiên Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
– Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
– Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
– Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
– Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
– Hoàn toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
– Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
– Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
– Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
– Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
– Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
– Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
– Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
– Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
– Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
– Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
– Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
– Cần nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam