Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 83

Tổng truy cập: 1364628

VÀI NGUYÊN TẮC TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚA GIÊSU

Vài nguyên tắc truyền giáo của Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)

Vào tháng 10 năm 1987, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người sẽ được Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên thánh vào tháng 08 sắp tới, đã triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới để cùng nhau nghiên cứu vấn đề “ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay”. Từ Thượng Hội Đồng này, một tông huấn mang tựa đề: “Người Kitô hữu giáo dân” đã được công bố. Trong đó, Đức Thánh Cha nói: “Giáo dân, vì là thành phần của Giáo Hội, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng. Các bí tích khai tâm kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng và thúc giục họ thi hành sứ vụ của mình” (số 33). Đức Thánh Cha còn nói: “Chắc chắn rằng: mệnh lệnh của Chúa Giêsu ‘Hãy đi loan báo Tin Mừng’ vẫn mang giá trị trường tồn và đặt ra một cách cấp bách. Tuy nhiên, tình trạng hiện nay trong thế giới, đang đòi hỏi tuyệt đối phải thực thi mệnh lệnh của Chúa một cách khẩn trương và quảng đại hơn. Một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời đáp trả của riêng mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Cho hay, cái mới mẻ trong việc thực thi cuộc loan báo Tin Mừng là tất cả toàn dân Chúa, không phân biệt nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, mạnh yếu. Tất cả đều được sung vào việc tông đồ truyền giáo”.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta thấy nguyên tắc hoạt động của người môn đệ Chúa. Nguyên tắc này do chính Chúa Giêsu, người khởi sự công tác truyền giáo và cũng là linh hồn của việc truyền giáo chỉ dạy.

  1. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
  2. Bài đọc I: (Is 66, 10-14c)

Bối cảnh của bài đọc I là khi vua Cyrus của nước Ba Tư vừa tiêu diệt được đế quốc Babylon và ký sắc lệnh hồi hương cho người Do Thái. Họ rất phấn khởi vì cuối cùng họ cũng được giải thoát. Trong bối cảnh đó, tiên tri Isaia đã nói tiên tri về phúc lành mà Thiên Chúa sẽ tuôn đổ xuống dân chúng. Điều quan trọng nhất trong phúc lành này là ơn bình an: “Này Ta tuôn đổ xuống thành đô, ơn bình an như dòng sông cả” (Is 66, 12).

  1. Bài Đọc II: (Gl 6, 14-18)

Thánh Phaolô tự hào về cây thập giá của Đức Kitô: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6, 14). Nhờ quy tắc đó mà thánh nhân được bình an. Để rồi thánh nhân cầu chúc cho mỗi người chúng ta: “được bình an và lòng thương xót của Thiên Chúa” (Gl 6, 16) nhờ biết yêu mến và rao giảng cây thập giá.

  1. Tin Mừng: (Lc 10, 1-12. 17-20)

Đây là bài sai truyền giáo chính thức của Chúa Giêsu. Chúng ta phải phân biệt các Tông Đồ, tức nhóm 12 là những người được Chúa Giêsu chọn gọi một cách đặc biệt, ở sát bên Chúa Giêsu; và các Môn đệ, tức nhóm 72, không theo sát Chúa Giêsu, họ vẫn còn gia đình, vợ con, công việc riêng… nhưng khi nào mùa màng rãnh rỗi, hoặc được Chúa Giêsu triệu tập thì họ đến.

Trong Tin Mừng Matthêu và Maccô, Chúa Giêsu chỉ sai các Tông Đồ thôi, nhưng Luca thì sai cả các Môn đệ nữa, để chúng ta thấy tính phổ quát của công việc truyền giáo. Ai cũng phải truyền giáo chứ không phải chỉ những người được tuyển chọn. Trong bài sai truyền, Chúa Giêsu đã đưa ra những nguyên tắc hoạt động cho những cán bộ truyền giáo. Nguyên tắc đó không phải chỉ áp dụng cho các Môn Đệ của Chúa thời đó, mà còn là nguyên tắc cho mọi thời trong công cuộc truyền giáo.

  1. NGUYÊN TẮC TRUYỀN GIÁO

Mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng lãnh nhận sứ mạng truyền giáo, vì “truyền giáo là bản chất của Giáo Hội”. Vì vậy chúng ta cũng phải nắm vững những nguyên tắc này.

  1. Cầu nguyện:

Trước hết, Chúa Giêsu nói: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10, 2). Vì vậy cầu nguyện chính là linh hồn của việc truyền giáo. Sở dĩ Chúa muốn chúng ta phải cầu nguyện trong truyền giáo là vì đây là công việc thuộc lãnh vực siêu nhiên. Sức tự nhiên của con người không thể nào làm được điều này. Cán bộ truyền giáo phải là con người của cầu nguyện. Vì khi cầu nguyện chúng ta mới tiếp xúc với lãnh vực siêu nhiên để từ đó mới có thể thi hành đúng theo những hoạch định thần thiêng. Qua bài đọc I và bài đọc II, chúng ta thấy ơn ban quan trọng nhất của Chúa là ơn bình an. Người cán bộ của Chúa chỉ có được bình an trong cầu nguyện.

Tôi thích và nhớ mãi hình ảnh ông Jim mà vị tôi tớ Chúa, Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận kể. Khi còn khỏe, mỗi ngày ông đến nhà thờ lúc 12 giờ trưa không quá 2 phút. Ông từ rất thắc mắc nên theo dõi. Một hôm ông chận Jim lại và hỏi: “Tại sao bác vào đây mỗi ngày?”. “Tôi vào để cầu nguyện”. “Quái lạ, kinh gì mà đọc trong vòng 2 phút?” Jim trả lời: “Tôi vừa già, vừa dốt nên đọc kinh theo kiểu của tôi. Tôi chỉ nói: “Lạy Chúa, Jim đây!”. Thời gian trôi qua, Jim già cả, bệnh tật, phải vào bệnh viện để điều trị. Sau đó Jim yếu liệt và chuẩn bị ra đi. Một Linh mục và một nữ tu đến hỏi thăm: “Jim ơi, hãy nói cho chúng tôi biết, tại sao từ ngày ông vào đây, bệnh viện có nhiều thay đổi, bệnh nhân vui vẻ, chấp nhận thuốc thang, sống có tình nghĩa hơn?” Jim trả lời: “Đơn giản thôi, lúc còn khỏe, Jim đi thăm mọi người, lúc đi không nổi, Jim nhớ và gọi tên mọi người, với Jim ai cũng vui hết”. “Thế tại sao Jim vui, Jim hạnh phúc?”. Jim trả lời vì ngày nào Jim cũng có người đến thăm hết. Mọi người thắc mắc, có thấy ai đâu? Jim bảo: “Lúc trước 12 giờ trưa, Jim đi thăm Chúa Giêsu, còn bây giờ trưa nào Chúa Giêsu cũng đến thăm Jim”? “Ngài nói gì với Jim”? Ngài nói: “Jim ơi, Giêsu đây!” Cầu nguyện làm cho chúng ta có Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu làm cho chúng ta được bình an. Bình an làm cho chúng ta trở thành người nhiệt tâm lo việc truyền giáo hơn.

  1. Phó thác:

Điều thứ hai, Chúa Giêsu nói: “Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (LC 10, 3). Có phải là Chúa “đem con bỏ chợ không?” Có phải là Chúa đẩy chúng ta tới chỗ nguy hiểm không? Thưa không, nhưng Chúa muốn người cán bộ truyền giáo phải biết phó thác. Bản thân mình luôn luôn gặp nguy hiểm, không gì che chở bảo, không có gì bảo đảm cho, ngoài Chúa. Nhân đức phó thác là nhân đức tối cần nơi người cán bộ truyền giáo.

Tôi có ông cha bạn làm cha phó ở họ đạo Kinh Nước Lên dưới Cà Mau, phụ trách thêm những họ lẻ xung quanh. Có những họ phải vượt qua những con sông lớn hàng giờ mới tới. Trong đợt áp thấp nhiệt đới vừa rồi, ông đi làm lễ về, sóng to, gió lớn, máy chạy tới không được, quay lại không xong, cứ lòng vòng lòng vòng giữa sông lớn. Ổng sợ quá sức, ổng nói chẳng lẽ mình hưởng dương ít vậy ta!? Người môn đệ Chúa luôn ở trong tư thế nguy hiểm, nên phải biết phó thác.

  1. Ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng:

Chúa Giêsu nói: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10, 4). Nếu nói như vậy, có phải Chúa dạy cán bộ truyền giáo trở thành những con người bất lịch sự, gặp người quen cũng không chào luôn? Những người khó tính, nhất là những người lớn tuổi người ta nói mình khó ưa, mất dạy, không biết chào hỏi ai hết, vì người xưa nói: “Lời chào cao hơn mâm cỗ”… Không phải, Chúa Giêsu nói vậy vì nghi thức chào hỏi của người phương đông rất rườm rà, mất thời giờ. Chúa dạy cho cán bộ của Chúa đừng mất giờ vô ích vì việc loan báo tin mừng là việc gấp rút: “Lúa chín đầy đồng mà thờ gặt thì ít”, phải biết tận dụng thời giờ đi gặt lúa, kẻo chim chuột ăn hết.

III. BỔN PHẬN CẤP BÁCH CỦA MỌI KITÔ HỮU

Truyền giáo không là việc của riêng ai, nhưng là bổn phận cấp bách của mọi kitô hữu. Mọi người phải truyền giáo ngay chính trong môi trường, hoàn cảnh của mình. Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới năm 1987 đã định nghĩa vị thế độc đáo của người giáo dân giữa lòng Giáo Hội và giữa thế giới bằng hai mệnh đề như sau: “Giáo dân là ‘ người của Giáo Hội’ trong lòng thế giới”. “Giáo dân là ‘người của thế giới’ trong lòng Giáo Hội”. Là người của Giáo Hội, người giáo dân phải đem Giáo Hội và Chúa Giêsu vào trong thế giới. Và là người của thế giới, giáo dân phải đem thế giới đến cùng Giáo Hội và Chúa Kitô”.

Vì vậy mỗi người chúng ta dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân đều phải nắm vững một vài nguyên tắc mà Chúa Giêsu đã dạy để chúng ta trở thành những cán bộ truyền giáo lành nghề và nhiệt thành, đó là: Cầu nguyện, phó thác và ưu tiên truyền giáo, để chúng ta có thể đem tin mừng bình an đến cho anh chị em xung quanh mình.

Cầu nguyện để có được sức mạnh của Chúa. Chính vì vậy kinh hôm, kinh mai, lần chuỗi mân côi, xưng tội, viếng Thánh Thể, tham dự thánh lễ, nhất là ngày Chúa nhật… là những việc không thể thiếu của một người giáo dân Tông Đồ.

Phó thác để dấn thân trong đời sống đức tin. Chính vì vậy người Tông Đồ của Chúa không được sợ hãi trong bất cứ cảnh ngộ nào của cuộc sống, nhưng phải biết vươn lên, vươn lên mỗi ngày vì có bàn tay Chúa nâng đỡ.

Ưu tiên truyền giáo để khỏi lạc hướng. Ai? Ở đâu? Làm gì? Thế nào?… cũng phải nghĩ đến việc làm sao cho Nước Chúa trị đến.

Nói tóm lại, Phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta ý thức lại sứ mạng truyền giáo của mình, vì chính Chúa Giêsu đã sai mỗi người và từng người chúng ta vào cuộc đời này để sống và loan báo Tin Mừng. Muốn trở thành một cán bộ truyền giáo của Chúa, chúng ta phải thực hành những nguyên tắc mà Chúa Giêsu đã đưa ra, trong đó có việc cầu nguyện, phó thác và ưu tiên truyền giáo. Xin ơn Chúa giúp qua lời bầu cử của Mẹ Maria, người nữ truyền giáo đầu tiên; của thánh cả Giuse, người trợ tác đắc lực của Chúa; và cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, người luôn quan tâm đến dân ngoại, cho chúng ta có một nhiệt tình truyền giáo cùng với lòng đạo đức và sự phó thác, để chúng ta thực sự trở thành một cán bộ truyền giáo của Chúa.

 

52. Sứ giả hoà bình

Giả như có một gia đình hay một cộng đoàn vì lý do nào đó phải sống trong tình trạng bất hoà. Các thành viên chống đối và tìm nhiều cách để hại nhau. Lúc ấy chắc chắn những người trong cuộc không còn sáng suốt nữa. Từ đó họ trở nên những người gây mất bình an cho nhau. Bởi lẽ, họ đang có xung đột nội tâm. Trường hợp như thế rất cần một hay nhiều người ngoài cuộc đến giúp kiến tạo hoà bình.

Con người dường như sống trong bất cứ thời đại nào cũng đều có khuynh hướng gây bất hoà cho nhau. Ngay từ những trang đầu của Bộ Kinh Thánh đã cho thấy ông Ađam đã hớn hở reo lên khi Thiên Chúa dẫn đến cho ông bà Eva: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (St 2, 23). Tuy nhiên, sau khi phạm tội thì ông lại trở mặt với bà. Chúa hiện đến hỏi, ông đã vội vàng đổ lỗi cho bà cách không thương tiếc: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (St 3, 12). Con người trở nên bất hoà nhau kể từ đấy. Vì ghen tỵ mà Cain đã không ngần ngại giết chính em ruột của mình là Abel (St 4, 1-16).

Các Tông đồ theo Chúa Giêsu cũng không tránh khỏi khuynh hướng ấy. Các ông đã tranh giành địa vị lẫn nhau (Mc 10,35 – 40). Càng sống trong tình trạng như vậy chúng ta sẽ càng trở thành những người mất bình an. Hiểu được tình trạng đó nên Thiên Chúa đã dùng mọi cách đem lại bình an cho con người chúng ta. Chính Chúa Giêsu là hiện thân, là sứ giả hoà bình hoàn hảo của Thiên Chúa. Ngày Chúa Giêsu sinh ra các sứ thần đã tung hô: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14).

Chúa Giêsu cũng muốn cho có nhiều người chia sẻ sứ mạng ấy với Người. Vì thế, hôm nay Người chỉ định thêm 72 môn đệ nữa. Con số 72 là con số hoàn hảo theo quan niệm của người Do thái. Nghĩa là Người muốn cho mọi người được hưởng sự bình an. Đồng thời, Người cũng muốn cho mọi người biết đem đến sự bình an cho nhau.

Người ta thường nói: “An cư thì mới lập nghiệp” hay “Người ta không thể cho cái gì họ không có”. Do đó, làm sao chúng ta có thể là sứ giả hoà bình khi trong chính tâm hồn của mình còn sự xung đột. Để tránh sự xung đột ấy Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cũng như cho chúng ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này” và “Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia”. Điều quan trọng là hãy loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.

Chúng ta đang sống trong thế giới mà phần đông người ta chỉ biết đổ xô nhau tìm kiếm những tiện nghi vật chất đời này. Họ tưởng rằng tiện nghi vật chất đời này sẽ đem lại bình an. Nhưng thật ra tiền bạc vật chất chỉ là phương tiện cho cuộc sống. Nếu chúng ta xem nó như cứu cánh đời mình thì nó chỉ đem lại sự bình an giả tạo. Bởi vì để có nhiều tiền của, người ta có thể bất chấp tất cả. Thậm chí anh chị em ruột cũng sẵn sàng hại nhau.

Chỉ khi nào sống theo Lời Chúa dạy và những chỉ dẫn của Giáo hội chúng ta mới có được bình an đích thực. Khi đó tự nhiên những ý muốn và những cách sống ghen tỵ, ganh ghét, chia rẻ…sẽ tự nhiên biến mất khỏi ta. Và khi ấy chúng ta đang là sứ giả hoà bình đích thực của Thiên Chúa cho những anh chị em xung quanh.

 

53. Khí cụ bình an – Lm Vũ Minh Nghiễm

Năm 1980, một tờ báo nọ có đăng một câu truyện lạ.

Một người đi chợ đậu xe trước cửa nhà hàng. Mua đồ xong trở ra xe, thì thấy một tấm giấy để trên chỗ ngồi với hàng chữ như sau:

“Thưa bác, tôi định ăn cắp xe của bác. Khi đang nổ máy, sắp trộm xe lái đi, tôi nhận thấy một tấm giấy gắn trên cửa xe, với hàng chữ: Bình an cho bạn. Tôi dùng tay lại, và suy nghĩ. Tôi lý luận rằng: Nếu tôi ăn cắp xe của bác, chắc chắn bác sẽ mất bình an. Và tôi cũng sẽ cảm thấy giao động. Nếu ăn cắp xe của bạn thì đây sẽ là lần đầu tiên tôi đi làm cái nghề này. Vậy, bình an cho bạn và bình an cho tôi. Lần sau khi đi chợ, bác nhớ khóa xe cẩn thận.

Ký tên: Người dự tính ăn trộm

Câu chuyện lạ trên đây giúp chúng ta hiểu lời Chúa phán hôm nay trong Phúc âm: “Khi vào nhà nào, trước tiên các con hãy chúc bình an cho nhà đó. Nếu nhà nầy có con cái của sự bình an, thì sự bình an của các con chúc sẽ đậu trên người ấy, bằng không, sự bình an sẽ trở về với các con.”

Người định ăn trộm kia phải là con cái của sự bình an, là một người có tâm hồn đoan chính, nên tấm bảng: “Bình an cho bạn”, đã mang lại sự bình an cho anh ta.

Nhưng sự bình an của Đức Kitô mà Ngài dạy các môn đệ hãy chúc cho người khác, là thứ bình an nào? Đức Kitô muốn nói gì, khi Ngài nói “Bình an cho các con?”

Thưa: Khi Kinh thánh dùng chữ bình an, thì sự bình an nầy có thể có 4 nghĩa.

Bình an theo nghĩa thứ nhứt, là nghĩa quân sự, tức là không có chiến tranh. Trên bình diện quốc gia, không có cuộc huynh đệ tương tàn. Trên bình diện quốc tế, không có việc nước nầy sát phạt nước kia. Bình an quân sự là nghĩa thứ nhứt.

Nghĩa thứ hai là nghĩa cá nhân. Khi chúng ta nói: “Hôm nay tôi cảm thấy tâm hồn thoải mái an hòa, đó là sự bình an cá nhân.

Nghĩa thứ ba là nghĩa tôn giáo. Kinh thánh dùng tiếng bình an, theo nghĩa tôn giáo nầy để chỉ một sự liên hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta. Khi nói: “Tôi được bình an với Chúa”, chúng ta chỉ sự bình an theo nghĩa thứ ba.

Sau hết, Kinh thánh dùng tiếng bình an để chỉ một trạng thái của thiên hạ trong đó mọi người được an hòa với Thiên Chúa, với những người chung quanh và với chính mình.

Đó là sự bình an của Đức Kitô. Đó là sự bình an mà Đức Kitô muốn nói khi Ngài phán:

“Thầy để lại sự bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” (Ga 14:27)

Trong thánh lễ, linh mục nhắc lại sự bình an đó trước khi rước lễ. Sự bình an nầy chính là sự thể hiện Nước Chúa trên trần gian, mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.. dưới đất cũng như trên trời”.

Đó chính là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đem đến cho mọi người trong thiên hạ đời bấy giờ. Đó là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta mang đến cho mọi người trong thiên hạ hôm nay.

Ví dụ sau đây làm cho chúng ta hiểu được sứ điệp của Chúa hôm nay hơn chăng? Khi có cơn gió lớn miền nhiệt đới thổi trên Thái Bình Dương, người ta gọi là cơn tố (Typhon), nếu là thổi trên Đại Tây Dương, người ta gọi đó cơn Bão (hurricane).

Trong một cơn bão như vậy, thì có một trung tâm. Chính giữa trung tâm đó, có một nơi mà người Mỹ gọi là con mắt của cơn bão (eye of the hurricane). Trong khi ở chung quanh, cơn bão thổi lên ầm ầm, thì vùng trung tâm, tức là vùng con mắt, hoàn toàn yên lặng. Người đứng giữa trung tâm, ngước mắt lên, sẽ thấy trời quang mây tạnh, thấy mặt trời chói sáng, cảnh vật yên tĩnh như chẳng có việc gì xảy ra.

Con mắt hay là trung tâm của cơn bão là một hình ảnh Chúa muốn mặc cho mỗi thánh lễ, chẳng hạn thánh lễ Chúa nhựt hôm nay. Trong khi thế giới chung quanh chúng ta, biết bao những cơn bão tố xảy ra. Nào là cướp bóc, nào là nổi loạn, nào là chém giết lẫn nhau… thì trong thánh lễ giờ này, chúng ta được vui hưởng sự bình an của Đức Kitô, trong tình yêu thương của những người đồng đạo, đồng cảnh đồng thuyền…

Nhưng Chúa không muốn chúng ta ở lại giữa trung tâm của cơn bão tố. Sau khi thánhlễ hoàn tất, Chúa muốn cho chúng ta dấn thân vào trong giông tố, chia sẻ sự bình an của Chúa trong gia đình, trong cộng đoàn, trong toàn thế giới.

Chúng ta hãy thưa với Chúa như lời kinh Hòa bình rằng:

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

“Vào nhà nào, các con hãy chúc bình an cho nhà đó.”

 

54. Tại trung tâm bão biển – Lm. Mark Link.

Chủ đề“Sứ vụ của chúng ta là đem bình an của Đức Kitô đến cho thế gian”

Trong năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn quốc có đăng một câu chuyện khác thường. Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:

“Thưa ông/bà;

Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ ‘Peace-Be-to-You’ (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe. Nó làm tôi do dự và suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an, vì đây là ‘chuyến ăn hàng’ đầu tiên của tôi.Do đó, ‘bình an cho bạn’ và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa.”

Ký tên: “Người Muốn Ăn Cắp Xe.”

Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay: “Vào bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, ‘Bình an cho nhà này.’ Nếu một người yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy lại lời chúc bình an.”

Áp dụng điều này vào câu chuyện nói trên, chúng ta thấy câu “Bình An-Cho-Bạn” đã nới rộng sự bình an của Đức Kitô đến cho người muốn ăn cắp xe. Tên trộm này là người bình an trong tâm hồn, và bình an của Đức Kitô đã ngự trên hắn ta.

Điều đó nêu lên một câu hỏi: Chúng ta muốn nói gì về “bình an của Đức Kitô”? Bình an đó được cấu tạo bởi những gì? Khi Kinh Thánh dùng chữ bình an, nó có bốn ý nghĩa khác nhau.

Thứ nhất, nó được dùng trong ý nghĩa quân sự–để chỉ về sự thiếu vắng chiến tranh giữa các quốc gia. Do đó, chúng ta nói, “Các quốc gia đang sống bình yên.”

Thứ hai, nó được dùng ý nghĩa cá nhân–để chỉ về một cảm giác hạnh phúc của con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng tôi hòa thuận với nhau.”

Thứ ba, Kinh Thánh dùng chữ bình an trong ý nghĩa tôn giáo–để chỉ về một tương giao đúng đắn giữa Thiên Chúa và con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng ta hài hòa với Thiên Chúa.”

Sau cùng, Kinh Thánh dùng chữ bình an để chỉ một tình trạng mà trong đó mọi người trên mặt đất hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân, và với chính mình. Đây là điều chúng ta muốn nói qua chữ “bình an của Đức Kitô”.

Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn nói khi Người tuyên bố, “Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy mà Thầy ban cho các con” (Gioan 14:27). Vị linh mục nhắc lại lời này khi cử hành Thánh Lễ. Sự bình an này thì không gì khác hơn là Nước Thiên Chúa được trị đến trên mặt đất-là vương quốc mà chúng ta thường cầu xin trong kinh Lạy Cha khi chúng ta đọc, “Xin cho Nước Cha trị đến…”

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ hãy đem vào thế gian trong thời ấy. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.

Chúng ta sẽ là các khí cụ mà sự bình an của Đức Kitô sẽ được trải rộng đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới.

Một loại suy sau đây có thể giúp chúng ta biết ý Chúa muốn chúng ta thi hành điều này như thế nào.

Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là “typhoon” (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là “hurricane” (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương. Để có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa “frisbee” với một lỗ hổng ở giữa. Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ. Đó là cơn cuồng phong hay cơn bão. Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó-cái lỗ hổng ở giữa đĩa “frisbee”.Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ,nhưng ở tâm bão thì lại êm ả. Không có một chút gió lốc.Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.

Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.

Có biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này. Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác. Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui hưởng “bình an của Đức Kitô.” Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát. Cũng như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một giờ. Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian. Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.Người muốn chúng ta trở thành các khí cụ mà qua đó sự bình an của Đức Kitô được trải rộng trên toàn thế giới. Và vì thế Kinh Thánh nói về bốn loại bình an: sự bình yên giữa các quốc gia, sự hòa thuận giữa chúng ta, sự hài hòa với Thiên Chúa, và bình an của Đức Kitô-đó là một tình trạng mà mọi người trên thế giới hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình. Sự bình an sau cùng này, bình an của Đức Kitô, thì không gì khác hơn là sự trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã thể hiện khi làm người. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đem vào thế gian trong thời đại của họ. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền chúng ta phải đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.

Chính sự bình an này mà chúng ta cầu xin Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta vào sáng hôm nay:

“Lạy Chúa, xin giúp con trở nên khí cụ bình an của Chúa, Để nơi thù hận, con đem đến tình yêu; nơi xúc phạm, con đem đến tinh thần tha thứ; nơi nghi kỵ, con đem đến niềm tin; nơi bất hoà, con đem đến sự hoà hợp; nơi thất vọng, con đem đến hy vọng; nơi bóng tối, con đem đến sự sáng; nơi buồn sầu, con đem đến niềm vui.

Lạy Chúa, xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết; tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ; chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Thánh Phanxicô Assisi)

 

55. Sai đi loan báo Tin Mừng

  1. Cách đây ít lâu, có một cô giáo, sống xa nhà thờ hàng chục cây số, đến gặp tôi, cô nói rằng: “Thưa cha, có một số con em của gia đình Công giáo gần chỗ con ở, đến tuổi học giáo lý rước lễ, thêm sức rồi mà không có điều kiện đến nhà thờ để học giáo lý dịp hè nầy. Con có thể tìm cách giúp cho các em nầy được hay không ?”. Tôi biết cô nầy có khả năng dạy giáo lý, nên tôi nói với cô rằng, việc đó quá tốt, tôi hoàn toàn ủng hộ cô.

Có rất nhiều Kitô hữu tuy không sống trong bậc tu trì nhưng rất tích cực trong việc loan báo Tin Mừng, những người nầy cách nào đó đã hiểu được lời dạy về việc truyền giáo của Đức Kitô. Như trong đoạn Tin Mừng được chọn đọc Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu không những chọn và sai nhóm Mười Hai mà còn chọn và sai 72 môn đệ làm việc tông đồ nữa. Điều này cho thấy Chúa muốn mọi tín hữu đều phải tham gia vào việc tông đồ. Bởi con số 72 ở đây không những tượng trưng cho số nhiều mà còn mang tính toàn thể, số 72 đây là số các dân tộc của loài người mà sách Sáng thế chương 10 đã đề cập đến.

  1. Lời mời gọi truyền giáo của Đức Giêsu vẫn như đang gởi đến với mỗi chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Thật vậy, sau 2.000 năm Tin Mừng được rao truyền, ta thấy khắp nơi có bóng thánh giá, đó là điều đáng mừng. Thế nhưng chúng ta nghĩ gì khi số người tin vào Chúa mới khoảng 2 tỉ, trong khi đó khoảng hai phần ba nhân loại còn lại chưa biết Chúa!? Còn tại Việt Nam chúng ta, số người tin vào Chúa chỉ khoảng mười phần trăm! Có nơi cả huyện chỉ có một ngôi nhà thờ Công giáo, dĩ nhiên do nhiều nguyên nhân! Nhưng dầu sao cũng làm cho chúng ta suy nghĩ cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ chăm sóc, gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn dày đặc của bóng tối, sự dữ… rất cần ánh sáng của Tin Mừng soi dọi. Cho nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
  2. Đức Giêsu đã ra đi loan báo Tin Mừng Nước Trời, người cũng sai các môn đệ phải ra đi. Thánh Phaolô đã từng thốt lên rằng: Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm, khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng (x.1Cr 9,16)! Công đồng Vaticanô II cũng đã khẳng định:”Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (Ad Gentes 2). Cuộc sống con người đa dạng, phong phú thì việc truyền giáo cũng có thể thực hiện bằng nhiều phương cách, chẳng hạn như:

– Có thể đó bằng phương cách dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ mà trong những tháng hè nầy như là mùa thu hoạch ơn gọi qua những lễ khấn dòng, truyền chức mà chúng ta tham dự.

– Có thể đó là cộng tác với các linh mục, tu sĩ. Bởi có những họ đạo có đến hàng trăm em học sinh giáo lý, nếu không có các giáo lý viên cộng tác, thì làm sao các linh mục có thể giúp cho các em học tốt được! Có thể cộng tác bằng việc giúp đỡ tài chính cho việc truyền giáo nữa.

– Có thể đó là việc hy sinh của các giáo lý viên đến tận gia đình những người muốn học để chia sẻ niềm tin, do họ rất xa nhà thờ nhưng không có điều kiện đến để học giáo lý.

– Có thể là chia sẻ, dạy về Chúa cho những người gần gũi, con em ngay trong gia đình mình. Bởi không phải nơi nào giáo dân muốn tụ họp lại để học giáo lý, đọc kinh thì có thể thực hiện được cách dễ dàng. Thật vậy, có những nơi muốn phục hồi lại nơi thờ tự bị chiến tranh tàn phá thì không đơn giản gì và rất nhiều nơi lẽ ra phải có nhà thờ thì không dễ gì thực hiện được! Tôi được biết có gia đình ở cách nhà thờ gần nhất là trên 20 cây số. Nơi linh mục tới lui không phải thuận lợi, nhưng các thành viên trong gia đình nầy vẫn giữ vững đức tin, qua hàng chục năm như thế, do đâu ? Thưa do người cha của gia đình nầy hằng ngày cùng với con mình đọc kinh hôm, kinh mai, kể những câu chuyện về Đức Giêsu cho con cháu mình nghe.

  1. Một phương thức rao giảng Tin Mừng rất hữu hiệu đó là dấn thân phục vụ xã hội theo tinh thần công bình, bác ái của Đức Kitô. Đây là phương cách mà Kitô hữu nào cũng có thể thực hiện được nơi môi trường mình sống, mình làm việc. Xã hội xem ra đang phát triển, nhưng nhìn kỹ lại đang tụt dốc về nhiều phương diện, nhất là về đạo đức, một thực tế không ai chối cãi được. Cho nên hơn bao giờ hết Tin Mừng của Chúa cần phải được rao giảng, nhất là bằng đời sống chứng nhân. Người ta thường nói: “lời nói lung lay, việc lành lôi kéo”.

Trước những điều xấu trong xã hội, chúng ta thường làm thinh bỏ qua hay phàn nàn, trách móc. Hãy chọn phương cách tích cực hơn, như một danh nhân đã nói:”Thà đốt lên một ngọn nến tuy nhỏ, nhưng hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng đêm”. Thật vậy, trước cảnh gian lận trong cuộc sống, một đời sống ngay lành của người Kitô hữu quả là một ngọn nến. Trước cuộc sống buông thả của các thanh niên nam nữ, một đời sống trong sạch của các Kitô hữu không là một ngọn nến sao? Trước lời thô lỗ, tục tằn của các bạn trẻ, một lời nói thanh tao của ta quả là một ngọn nến… Như các ngọn hải đăng không ồn ào mà chúng chỉ lặng lẽ chiếu sáng, nhưng ánh sáng của nó thật hữu ích. Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu cũng thế.

  1. Như người thợ làm việc tích cực, đúng cách, bao giờ cũng mang lại hiệu quả tốt đẹp; cũng vậy, chắc chắn những hy sinh, cố gắng của chúng ta trong việc truyền giáo theo ý Chúa cũng sẽ mang lại hiệu quả. Điều nầy làm chúng ta vui mừng, nhưng đáng vui mừng hơn đó là tên của chúng ta được ghi trên trời (x. Lc 10,20), hay nói cách khác, phần thưởng cách xứng hợp mà Thiên Chúa sẽ tặng ban cho những ai tích cực làm tông đồ Ngài.

 

56. Dấn thân – Trầm Thiên Thu

Dấn thân là dám hy sinh, tức là dám chịu thiệt thòi, dám bất chấp nguy hiểm, sẵn sàng quên mình vì một lý tưởng nào đó, nhưng vì ích lợi của tha nhân chứ không vì tư lợi hoặc tư danh: Dấn thân phục vụ người nghèo, bảo vệ tổ quốc. Đó là dấn thân theo nghĩa tốt. Dấn thân cũng có nghĩa xấu: Dấn thân vào con đường tội lỗi. Chữ DÁM trong Việt ngữ thật “hay”!

Có nhiều con đường dấn thân, với cách thức và mức độ khác nhau. Tri thức nhằm phục vụ xã hội cũng là một cách dấn thân. Nhưng với các Kitô hữu, có một con đường dấn thân đặc biệt, một trong ba thiên chức (vương đế, tư tế, ngôn sứ) được Thiên Chúa trao ban từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, đồng thời cũng là trách nhiệm thực hiện lệnh truyền phổ quát của Đức Kitô: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

Được sai đi mà không chịu dấn thân thì cũng vô ích. Ngoài ba lời khấn truyền thống (thanh tuân, thanh khiết, thanh bần), các tu sĩ Dòng Tên (SJ, Society of Jesus) cón có lời khấn thứ tư: “Đến bất cứ nơi nào được sai đi”. Vậy mới là dấn thân, chứ nhận “bài sai” mà bảo là “sai” nên không chịu đi hoặc kỳ kèo, so đo, đòi hỏi, thì còn gì là dấn thân, là vâng lời? Dấn thân ở dạng nào cũng khó nhọc, vất vả, dù tích cực hay tiêu cực, và thậm chí còn nguy hiểm, thế nên rất cần lòng can đảm và nỗ lực: “Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự Đức Chúa, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách” (Hc 2:1).

Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ” (Is 66:10-11). Tại sao? Vì Đức Chúa phán: “Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về” (Is 66:112-13).

Thành Đô Giêrusalem là hình bóng Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia “bật mí” cho chúng ta biết: “Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc, thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh. Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết, và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ thù” (Is 66:14).

Thiên Chúa là đấng cao cả, chúng ta chỉ là bụi cát, hoàn toàn bất xứng, nhưng Ngài vẫn bảo vệ chúng ta như con người trong mắt Ngài (x. Đnl 32:10). Vì thế, chúng ta càng phải nghe lời kêu gọi của tác giả Thánh Vịnh: “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời, nào dâng lời ca tụng tôn vinh! Hãy thưa cùng Thiên Chúa: Khủng khiếp thay, sự nghiệp của Ngài! Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm” (Tv 66:1-3).

Không trừ loài thọ tạo nào, mà “toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh” (Tv 66:4). Cứ nhìn xem công trình của Thiên Chúa là thiên nhiên thì không ai có thể bác bỏ ơn Ngài: “Hành động của Người đối với phàm nhân thật đáng kinh đáng sợ! Chúa làm cho biển khơi hoá đất liền, và dân Người đi bộ qua sông; việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ” (Tv 66:5-6).

Và chúng ta chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ, tin kính, thờ lạy, yêu mến, tôn vinh và chúc tụng: “Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện con dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình” (Tv 66:20). Đó chính là hồng ân bao la, là tình yêu vô biên và là lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa! Quả đúng như lời Thầy Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhận biết được như vậy thì người ta mới khả dĩ vui vẻ dấn thân vì công ích một cách vô điều kiện. Nói theo Giáo huấn Xã hội Công giáo, cuộc sống luôn có tính bổ trợ và liên đới.

Biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng. Cổ nhân truyền lại kinh nghiệm như vậy. Thánh Phaolô đã biết mình yếu đuối và khốn nạn, nên ngài đã đủ sức vượt qua chính mình và mọi trở lực, để rồi lại có mơ ước “ngược đời” hết sức: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6:14).

Thánh nhân giải thích: “Cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6:15). Cắt bì là một dạng luật Cựu ước. Tân ước không còn. Tất nhiên ngày nay lại càng cảm thấy xa lạ hơn. Nhưng cách nói rất rõ ràng, rất thẳng thắn. “Hay” là chỗ đó. Chính điều đó là điều chúng ta phải hết sức lưu ý khi chấp nhận vì Chúa mà dấn thân (hoặc cứ cho là thế). Dấn thân được thể hiện đa dạng: Sống đức ái Kitô giáo, tham gia các hội đoàn, làm việc tông đồ, làm từ thiện,… Nhưng không khéo thì chúng ta dễ so đo theo cách trần tục, tức là chúng ta là “chính”, còn Chúa là “phụ”, và Chúa trở thành bức bình phong “che chắn” chúng ta mà thôi. Thật nguy hiểm!

Cuối cùng, Thánh Phaolô chúc mọi người được hưởng bình an và lòng thương xót của Chúa, rồi đề nghị: “Xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu” (Gl 6:17).

Ngoài Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu còn chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Ngài sẽ đến. Rồi Ngài “dài hơi” căn dặn các ông: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ‘Bình an cho nhà này!’. Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em” (Lc 10:2-8).

Được sai đi, nhưng người-được-sai đi PHẢI biết dấn thân, nếu không thì “hư bột, hư đường hết trơn”. Dấn thân khó thật, vì dấn thân là khổ thật chứ không nói suông: Như chiên con vào giữa bầy sói, không mang tiền bạc, không mang hành lý. Căng quá! Có lẽ vì “căng” vậy nên một số người áp dụng “phương pháp” này: “Cờ đến tay ai thì người đó phất”. Thay vì chúng ta “run rẩy” trong tay Chúa thì chính Chúa lại chịu “run rẩy” trong tay chúng ta! Run rẩy vì “lạnh”, vì “sợ”, vì… nhiều cái VÌ, BỞI, TẠI, NHƯNG, NẾU, GIÁ,…

Cuộc sống (đạo và đời) có nhiều hệ lụy. Một trong các “mối” đó liên quan chuyện vật chất, chính xác là tiền bạc, Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10).

Trong buổi lễ thuộc khuôn khổ năm Đức Tin để tất cả các giám mục (gần 300 giám mục uy tín của 221 giáo phận) long trọng tuyên xưng đức tin tại lễ bế mạc Hội đồng Giám mục Ý khóa 65 (năm 2013), ĐGH Phanxicô đã thẳng thắn tấn công trực tiếp vào sự lười biếng, tinh thần nghề nghiệp (quan liêu), thói ưa thích tiền bạc và ngạo mạn của các giám mục Ý. ĐGH Phanxicô đã dành cho họ một bài diễn văn “nảy lửa” theo dạng “bom tấn” (bombard).

ĐGH Phanxicô không hề rào trước đón sau, mà yêu cầu các giám mục hãy trả lời thẳng thắn câu hỏi mà Chúa Kitô đã đặt ra với Phêrô: “Con có yêu thầy không?”. Ngài cho đó là câu hỏi độc nhất thực sự thiết yếu. Mọi chủ chăn phải tự đặt cho mình câu hỏi đó, bởi vì mọi mục vụ đều xây trên nền tảng “thân mật với Chúa, sống với Chúa là thước đo sự phục vụ Giáo hội của chúng ta, nó diễn tả lòng sẵn sàng để vâng phục, để hạ mình và để tận hiến”.

Rồi ngài nhìn thẳng vào các giám mục và công tố nặng nề chưa từng có tại Đền Thờ Thánh Phêrô, đặc biệt ngài đề cập việc tự kiểm điểm Giáo hội: “Chúng ta không phải là thể hiện của một cơ cấu hay một sự cần thiết được tổ chức, nhưng là dấu chỉ sự hiện diện hành động của Chúa Phục Sinh. Vì thế, phải có Sự TỈNH TÁO THIÊNG LIÊNG, thiếu nó thì chủ chăn, trước hết là giám mục, sẽ nguội lạnh, vô tâm, quên lãng và trở thành vô cảm, bị lôi cuốn theo viễn tượng chức quyền, tiền bạc và thỏa hiệp vói tinh thần thế tục. Những cái đó làm họ trở nên lười biếng, thành một dạng công chức, một nha lại của nhà nước chỉ biết lo cho bản thân, cho tổ chức và các cơ cấu, thay vì lo cho lợi ích đích thực của dân Chúa. Làm thế họ dễ bị rơi vào tình trạng nguy hiểm như Tông đồ Phêrô đã chối Chúa, mặc dù trên hình thức họ tự xưng và rao giảng nhân danh Thiên Chúa, nhưng họ đã làm tổn thương đến sự Thánh thiện của Mẹ Giáo hội bằng cách làm cho Giáo hội ít sinh hoa kết quả. Câu hỏi dai dẳng của Chúa có thể đem lại nỗi cay đắng, cụt hứng và có khi mất cả lòng tin. Nhưng đó không phải là những tâm tình mà câu hỏi của Chúa muốn gợi lên, trái lại, những tâm tình đó làm lợi cho kẻ thù, khiến qủy dữ phải co rúm lại trong sự chua cay, rên xiết và tuyệt vọng. Chúa Giêsu không nhục mạ ai, mà Người giúp lấy lại can đảm”.

ĐGH Phanxicô nói thêm: “Như thế chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui của một Giáo hội phục vụ, khiêm tốn và trong tình huynh đệ”. Và đó là điều mà chắc hẳn ai cũng đều mong ước và khao khát đêm ngày. Lạy Chúa tôi, thấy người mà chạnh nghĩ đến Việt Nam ta. Ai dám nói ra thì bị ghét!

Ngày xưa, Chúa Giêsu sai Nhóm Bảy Mươi Hai ra đi, dấn thân và chữa lành những người đau yếu trong thành, và nói với họ về Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần (Lc 10:9). Ngài căn dặn rõ ràng: “Khi vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại quý vị. Tuy nhiên quý vị phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10:10-11). Chúa Giêsu nói điều rất quan trọng: “Trong ngày ấy, thành Sôđôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó” (Lc 10:12).

Nhóm Bảy Mươi Hai trở về và hớn hở nói: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” (Lc 10:17). Đức Giêsu ôn tồn: “Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10:18-19). Đó là lời cảnh báo. Và Ngài còn cảnh báo về tính kiêu ngạo: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10:20).

Thật đáng rùng mình khi nghe lời Thánh Phaolô nhắc nhở: “Không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:13). Vì thế mà phải luôn tỉnh thức với lời cảnh báo của Giáo hoàng Phêrô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).

Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết dấn thân vì Danh Ngài, xin biến đổi Giáo hội trở thành một Giáo hội cầu nguyện và sám hối, được giải thoát khỏi sự thờ ngẫu tượng của hiện tại, có những chủ chăn thoát vòng kiềm tỏa của sự ù lì, lười biếng, nhỏ nhen, đê tiện, chủ bại, buồn thảm, mất kiên nhẫn, xơ cứng, nhưng biết hội nhập và tràn đầy lòng xót thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

57. Hành trang tông đồ – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện bằng cách cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các Tông đồ ra đi thực tập truyền giáo. Chúa Giêsu còn chọn thêm nhiều môn đệ nữa. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy 72 môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai đi Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng, không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các môn đệ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo”1.

  1. Hành trang Tông đồ

Hành trang đi đường chỉ là: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Chuyến đi nào cũng cần đến những hành trang. Hành trang cồng kềnh bước đi sẽ chậm. Hành trang gọn nhẹ bước tới sẽ nhanh. Hàng trang càng được tinh giản chỉ còn lại những gì thiết yếu nhất thì bước chân cũng sẽ thanh thoát khai lối cho mùa sứ vụ.

Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Gậy và dép” như gợi lại buổi Xuất hành. Nhẹ nhàng quá! Bận vướng với của cải đất đai sản nghiệp đùm đề làm sao có đủ tự do để bứt ra mà dứt khoát lên đường?

Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Không bánh, không bị, không tiền, không hai áo”. Nghèo khó quá! Chả bù cho con người ngày nay luôn biết tích lũy lo xa, có của ăn chưa đủ, còn có của để dành nữa. Nhưng cái nghèo về tài sản lại cho thấy cái giàu về đức hạnh. Không lo chiếm hữu hoặc gắn bó với của cải vật chất, người Tông đồ trở nên thanh thản lên đường bất cứ lúc nào. Không bận vướng những thứ lỉnh kỉnh làm nặng bước đi hoặc làm chùn bước tới, người Tông đồ học sống tinh thần phó thác để chỉ biết đợi chờ tất cả nơi một mình Thiên Chúa.

Xem ra chẳng có gì. Mà thực ra lại có tất cả. Bởi hành trang đích thực của họ chính là Chúa, Đấng đã nên sản nghiệp cho những kẻ được sai đi 2.

Hành trang ấy còn có ý nghĩa đặc biệt nữa. Đó là các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

– Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

– Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

– Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu còn trao cho các môn đệ những quyền năng của Ngài: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.

Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động Tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

  1. Phương thức hoạt động Tông đồ.

Sứ vụ loan báo Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Khi sai đi “từng hai người một”, Chúa Giêsu mong các môn đệ hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động Tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá về tính hiệp nhất khi gắn bó với Đấng đã sai mình, chứng tá về tình huynh đệ khi nhận ra mình được sai đi “từng hai người một”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và sai đi truyền giáo. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Như thế, Tông đồ là người lên đường chứ không phải xuống đường. Lên đường là một tinh thần nhạy cảm của Tin Mừng được thể hiện qua lối sống gắn bó với sứ vụ. Nhạy cảm với những thao thức của thời đại để tìm đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn, nới rộng kiến thức, mong diễn đạt Tin Mừng sát với ngôn ngữ hiện tại. Nhạy cảm với nhu cầu của tha nhân bằng muôn ngàn cách thể hiện lòng nhân ái vốn là điểm sáng của giới luật yêu thương, đồng thời là dấu hiệu dễ nhận ra nhất của Tin Mừng cứu độ. Nhạy cảm với Giáo Hội để tìm hiệp nhất. Nhạy cảm với đồng nghiệp để tìm huynh đệ nâng đỡ cộng tác. Nhất là, nhạy cảm với Chúa để tìm thuộc về Ngài mỗi ngày một hơn. Và dọc dài sứ vụ, tư thế lên đường sẽ làm nên hình ảnh chứng nhân 3.

  1. Sứ vụ Tông đồ là sống chứng nhân

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phaolô VI quả quyết ít nhất hai lần rằng, phương thức thứ nhất để rao truyền Phúc Âm chính là làm chứng bằng một cuộc sống Kitô hữu đích thực (x. số 21 và 41).

Có ba cách làm chứng: nói, làm và sống. Hiệu năng nhất là cách thứ hai và thứ ba. Ai cũng biết nói thì dễ, làm khó hơn, và sống như mình nói lại càng khó hơn nữa. Chính việc làm và đời sống làm cho lời mình nói đáng tin hơn. Nhưng cả khi người ta chưa nói hay không thể nói, chưa làm hay không thể làm một số điều nào đó, thì người ta đã có thể sống điều mình xác tin và muốn chia sẽ.

Theo Đức Phaolô VI, làm chứng bằng cuộc sống, bằng hành động cụ thể là một cách rao giảng thầm lặng, không nghe được, nhưng thấy được và rất hữu hiệu, nhất là đối với con người thời nay vì hai lý do: một là vì thời nay (thời của khoa học thực nghiệm và của óc thực tiễn), người ta nhạy cảm với việc làm và dị ứng với lời nói và các học thuyết, hai là vì trong thế giới trần tục hoá ngày nay, như ở Việt Nam chẳng hạn, tôn giáo bị đẩy ra bên lề như chuyện riêng tư, thế nên không phải bất kỳ ở đâu và lúc nào người ta cũng có thể, hay nên trực tiếp rao giảng Tin Mừng. Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: “Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó”.

Vậy để loan báo Tin Mừng thuyết phục, người Kitô hữu phải sống thế nào cho cuộc đời mình trở thành đáng tin. Đới sống đáng tin thì tự nhiên lời nói cũng đáng tin. Làm tông đồ, rao giảng Phúc Âm đặc biệt thích hợp cho ngày nay là làm cho đời sống Kitô hữu đáng tin. Như vậy toàn bộ cuộc sống ta đều phải “làm chứng”: lời ăn tiếng nói, cách cư xử, giao tiếp, trong gia đình, ngoài xã hội, khi làm việc, khi vui chơi giải trí… Đối với người có ý thức truyền giáo thì nhất nhất việc gì, khía cạnh nào của đời sống họ cũng có thể là lời loan báo. Lời trách nặng nề nhất của người chưa biết Chúa đối với tín hữu Công giáo có lẽ là: Người Công giáo các anh (các chị) không mấy đáng tin; các anh (các chị) nói một đường làm một nẻo. Đức tin, giáo lý nghe thì thật hay nhưng không thấy đem lại cho xã hội một cái gì thật sự tốt đẹp và mới mẻ. Lời phê bình đó có lẽ là quá đáng nhưng thiết tưởng ta chẳng cần cãi lý làm gì, hãy coi đó như một lời nhắc nhở để chúng ta nhìn lại cuộc sống “chứng tá” của mình. Xã hội này đang suy thoái trầm trọng về đạo đức: tham nhũng, thối nát, dối trá, bất công, xì ke ma túy, sa đoạ… Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng nữa không? 4.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát,không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui,như người tìm được viên ngọc…. quý,biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen. (Mana).

——————————————————–

  1. “Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103.
  2. “Với cả tâm tình”, trang 117-120, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
  3. “Với cả tâm tình”, trang 121.
  4. “Đạo trong đời”, trang 252-255, Lm Nguyễn Hồng Giáo.

 

58. Sứ mạng của người môn đệ – Jos.Vinc. Ngọc Biển

Đức Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần gian để thực thi sứ vụ loan báo về Nước Trời và mời gọi mọi người tin để được cứu độ. Vì thế, đây chính là mối bận tâm hàng đầu của Ngài. Mối ưu tư đó được thể hiện rất rõ qua bài Tin Mừng hôm nay, khi thầy trò đang đi qua cánh đồng; “tức cảnh sinh tình”, Ngài nhìn các môn đệ và chỉ ra đồng lúa đã chín vàng rồi cất tiếng nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về.” (Lc 10,2). Ngay sau đó, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng.

  1. Sứ mạng tông đồ

Trong thời Cựu Ước, sứ mạng này thuộc về các ngôn sứ, thủ lãnh và các vua chúa. Các ngài là những trung gian để nói lời của Thiên Chúa cho dân; đồng thời cũng là những người chuyển cầu lên Chúa những nhu cầu của dân…

Thật vậy, Bài đọc I hôm nay cho chúng ta thấy: Tiên tri Isaia loan báo cho dân về một giai đoạn tự do. Dân không còn bị lệ thuộc trong thân phận nô lệ bên Babylon nữa, bởi vì vua Ba Tư đã ký và cho phép dân Israel hồi hương, kết thúc giai đoạn lưu đày. Tuy nhiên, lòng dân vẫn chưa thấy bình an, nỗi lo vẫn còn đó…! Biết được sự trăn trở của họ, Tiên tri Isaia đã trấn an họ bằng việc loan báo Chúa sẽ ban bình an và vinh quang cho Giêrusalem. Bổn phận của họ là kiên trì và tin tưởng vào Người. Cuối cùng là lời hứa cho những ai đặt trọn niềm cậy trông nơi Chúa, họ sẽ được no nê, sung sướng, bình an, được vỗ về, an ủi và nâng niu. Giống như người mẹ yêu thương con mình thế nào, Thiên Chúa cũng yêu thương dân của Người như vậy.

Sang Bài đọc II, Thánh Phaolô nêu lên cốt lõi của niềm tin và lời rao giảng nơi người môn đệ chính là Mầu nhiệm Thập Giá của Đức Kitô.

Nếu thành Giêrusalem trong thời Cựu Ước là niềm hy vọng, là sự bình an của dân Israel, thì sang thời Tân Ước, chính thập giá của Đức Kitô mới đem lại ơn cứu độ thực sự cho dân Ngài.

Thật vậy, Thánh Phaolô đã mạnh dạn tuyên bố niềm xác tín đó của mình khi nói: “Trong khi người Dothái đòi dấu lạ, và người Hylạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, cớ vấp phạm cho người Dothái, sự điên rồ đối với người dân ngoại (Hylạp).” (1 Cr 1,22-23).

Không chỉ nói, mà cả cuộc đời của ngài diễn tả niềm vui vì được kết hợp với Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Đối với tôi, không một vinh quang nào khác ngoài vinh quang thập giá Đức Kitô.”

Như vậy, nội dung của lời rao giảng nơi Thánh Phaolô chính là Thập giá Đức Kitô. Lời loan báo này đi ngược lại với lối hiểu và niềm hy vọng của con người, cho nên khi thi hành sứ mạng ấy, người môn đệ không thể nào tránh khỏi những cám dỗ về quyền hành, tiền bạc và danh vọng; đồng thời những khó khăn về địa lý, về tâm thức, cũng như bị chống đối vì hiểu lầm, bị bắt bớ và đe doạ cả đến tính mạng là điều luôn luôn xảy ra đối với đời sống tông đồ. Người môn đệ Đức Kitô muốn thoát ra khỏi những thứ đó để vẫn rao giảng cách trung thành và toàn diện về một Đức Kitô là Đấng cứu độ duy nhất thì phải có một tinh thần tông đồ sâu sắc.

  1. Tinh thần tông đồ

Trước hết, khi đã gợi hứng cho các môn đệ về sứ vụ loan báo Tin Mừng qua hình ảnh cánh đồng lúa chín vàng, Đức Giêsu bắt đầu sai họ ra đi để thu hoạch cho Ngài. Ngài sai “cứ từng hai người” một. Khi sai các môn đệ đi từng cặp hai người một như vậy, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: khi loan báo về Nước Trời, thì trước tiên phải có sự hiệp thông; mặt khác, khi sai các ông đi từng cặp như vậy, Đức Giêsu trang bị cho các ông một điểm tựa, điểm tựa ấy là sự thật, bởi vì lời chứng của hai người là sự thật.

Khi đồng tâm nhất trí với nhau trong cùng một lời nói, cùng chia sẻ với nhau trong cùng một nội dung của lời giảng, người môn đệ đem lại cho con người niềm hy vọng. Niềm hy vọng này bắt nguồn từ truyền thống của dân Israel thời Cựu Ước.

Thứ đến, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ thấy trước những khó khăn thử thách, những rào cản trên cuộc hành trình ấy: “Thầy sai các con đi như chiên con đi giữa bầy sói.” (Lc 10,3). Ngài nói trước những khó khăn như vậy để cho các ông thấy rằng, trong khi loan báo về Nước Trời, không thiếu những kẻ không muốn vào mà lại còn tìm cách ngăn cản không cho những người khác được vào và khi ấy họ sẽ tìm cách triệt hạ những người được mời gọi. Chiên thì hiền lành mà sói thì hung dữ. Cuộc sống và hành trình này không phải lúc nào cũng xuôi trèo mát mái, mà luôn gặp phải những bão táp cuồng phong. Khi đưa ra hình ảnh của “chiên” và “sói”, Đức Giêsu muốn dạy cho người môn đệ bài học về sự kiên trì, chịu đựng, và trong mọi hoàn cảnh họ phải sống đúng bản chất của mình là “chiên” chứ không phải là “sói”, để yêu thương ngay cả kẻ thù của mình nữa.

Tiếp theo, tinh thần siêu thoát nhẹ nhàng là hành trang của người môn đệ. Trên hành trình ấy, Đức Giêsu không chấp nhận người môn đệ mang những thứ cồng kềnh. Bởi vì những thứ đó sẽ làm cho người môn đệ sinh ra nặng nề và đôi khi bỏ cuộc chỉ vì những chuyện phụ thuộc như “củ hành củ tỏi”. Vì thế, Ngài nói: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…”. Các môn đệ phải sống nghèo thực sự. Có sống nghèo, các ngài mới có sự cảm thông, liên đới, mới dám chấp nhận tất cả vì sứ mạng.

Hơn nữa, loan báo về Nước Trời phải là một sự cần kíp, cấp bách đến độ phải ưu tiên hàng đầu. Vì thế, Đức Giêsu căn dặn các ông rằng “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Ngài sai các ông lên đường với một mệnh lệnh khẩn trương, đòi hỏi người môn đệ phải nhanh nhẹn. Khi truyền cho các ông như thế, Đức Giêsu muốn dạy các ông rằng: khi loan báo Tin Mừng, không được quan tâm đến những chuyện bên lề quá nhiều để rồi quên đi việc chính yếu.

Cuối cùng, là tinh thần kiên nhẫn. Phải chăng chính Đức Giêsu đã cảm nghiệm sâu sắc khi người dân quê của Ngài nói: ông ấy chẳng phải là con bà Maria hay sao, cha ông ta lại không phải là bác thợ mộc…? Rồi biết bao những chống đối, ngờ vực, không tin, bị bắt bớ, đánh đòn nữa… Vì vậy, Ngài nói: “Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón…”. Chúa muốn dạy cho các ông phải có tinh thần kiên trì, chịu đựng, không được nóng vội.

Như vậy, Đức Giêsu căn dặn, cảnh báo cho các ông tất cả những đức tính cần phải có nơi người môn đệ, đồng thời những khó khăn các ông sẽ gặp trên hành trình loan báo ấy, rồi đến lượt chúng ta, chúng ta loan báo bằng cách nào?

  1. Sứ mạng tông đồ của mỗi chúng ta

Khi sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn cho mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ mạng ngôn sứ phổ quát của Ngài. Sứ mạng ấy được khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15). Từ đó, chúng ta xác định căn tính truyền giáo thuộc về chúng ta. Bao lâu chúng ta không truyền giáo, thì bấy lâu ta đánh mất bản chất của mình. Nói như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng.” (1 Cr 9,16). Nỗi lòng thao thức của Đức Giêsu – “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít…” – phải là lời chất vấn lương tâm mỗi chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta cùng đồng lòng và cảm nghiệm với Đức Giêsu trước những cánh đồng bao la đang độ chín vàng… Tham gia vào sứ mạng truyền giáo là chúng ta đang đóng góp cho Giáo Hội những viên gạch, hạt cát để xây nên tòa nhà Giáo Hội, nơi đó là niềm vui, hạnh phúc và bình an.

  1. Cách thức loan báo Tin Mừng

Thiết nghĩ, trong cuộc sống của con người thời nay, niềm tin của họ đang bị đánh cắp hay bị đặt sai chỗ bởi những chủ thuyết tương đối, dẫn đến tình trạng bình thường hoá mọi mặt, kể cả những giá trị đạo đức, những chân lý đức tin. Đứng trước thực trạng trên, chúng ta có bổn phận phải trở nên ánh sáng cho trần gian và muối ướp cho đời.

Nếu muối có tác dụng làm tăng vị cho thức ăn, ướp cho khỏi hư thối, thì người Kitô hữu cũng phải có bổn phận trở nên chứng nhân của sự thật, một sự thật sẵn sàng sống chết để bảo vệ cho chân lý.

Nếu ánh sáng để soi sáng cho người ta đi đường và giúp tìm ra những thứ ở trong bóng tối thế nào, thì người Kitô hữu truyền giáo cũng phải trở nên ánh sáng, gương mẫu cho mọi người như vậy.

Sứ mạng truyền giáo ấy khởi đi từ trong gia đình: chồng làm chứng cho vợ, vợ làm chứng cho chồng. Cha mẹ nêu gương sáng cho con cái. Bạn bè sống tốt với nhau trong môi trường, công ty xí nghiệp. Hàng xóm láng giềng ăn ở hài hoà, sẵn sàng giúp đỡ nhau những lúc cần kíp…

Khi sống đời chứng tá bằng những giá trị Tin Mừng như thế, chúng ta sẽ gặp không ít những khó khăn, thử thách trong đời sống. Không thiếu gì những cám dỗ làm cho muối ra nhạt, ánh sáng bị lu mờ. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn nhớ mình thuộc về Đức Kitô, có tránh nhiệm mang Ánh Sáng ấy soi sáng thiên hạ.

Có thế, chúng ta mới được coi là xứng đáng đón nhận phần thưởng của Chúa trao ban cho những ai đã cùng Ngài để quy tụ muôn dân về một mối là Nước Trời: “Hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi Trên Trời.”

Lạy Chúa, còn biết bao nhiêu người chưa nhận biết Chúa, biết bao nhiêu con chiên lạc chưa được đưa về ràn. Xin Chúa ban cho những người con của Chúa luôn sẵn sàng, hăng say loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Chúa. Ước gì mọi người con của Chúa trên trần gian này đều được quy tu thành một ràn chiên duy nhất, dưới sự lãnh đạo của Vị Mục Tử Tối Cao là chính Chúa. Amen.

 

59. Sai đi

“Không có vị tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình..” (Lc 3, 24)

Bài TM hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi loan báo TM về Nước Thiên Chúa. Trước khi sai đi, Chúa ân cần dạy dổ họ nhiều điều… Và rồi, họ đã ra đi và trở về trong hân hoan, tường thuật lại kết quả họ làm được…Câu chuyện về việc ra đi truyền giáo của Đức Cha Lambert de la Motte, GM tông tòa đầu tiên của địa phận Đàng Trong VN (từ sông Gianh trở vào Nam), là điển hình của câu chuyện TM Chúa sai các môn đệ ra đi hôm nay….Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

  1. Có mấy điểm chúng ta sẽ theo dỏi tìm hiểu hôm nay:

* Phúc âm ghi (Lc c.1-3): Chúa sai 72 môn đệ khác, ngoài nhóm 12: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít…Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói.” Chúa Giêsu đã có chủ ý chọn các môn đệ, dạy dổ họ rồi sai họ đi. Đây không phải là việc tình cờ… Năm 1659, Tòa thánh đặt Cha Lambert de la Motte làm GM tông tòa đầu tiên địa phận Đàng Trong. Trước đó đã có các nhà truyền giáo đến xứ này, nhưng chưa chính thức. Xưa Chúa sai các môn đệ ra đi như chiên giữa bầy sói, nay Tòa thánh cũng sai Đức Cha Lambert và các Lm đến VN đầy gian nan thử thách. Dự định đi tàu, tàu vỡ; đành phải đi bộ. Bệnh hoạn giữa đường tưởng mạng vong. Ngài đến đất Thái Lan vẫn chưa yên, còn bị người Bồ Đào Nha đòi bắt và trục xuất (vì lúc đó Tòa thánh muốn thoát khỏi quyền bảo hộ của nhà vua Bồ). Ngài còn bị viên quan trấn thủ Nha Ru đầu độc, vì ông này theo người Bồ, suýt chết, phải hơn tháng mới khỏi bệnh…

Lc c.4: Chúa nói: các con đừng mang túi tiền, bao bị, dày dép: Chúa dạy hãy tin cậy vào Chúa, đừng tin và cũng đừng lo cho bản thân… Những năm đầu tiên trên đất truyền giáo, Đức Cha Lambert và các vị thừa sai đã thảo luận và soạn “huấn thị cho người tông đồ”. Ngài sẽ gởi về tòa thánh xin phép cho họ thực hành bộ luật này. Ngày nay khi đọc lại bộ luật đó, người ta sẽ rất ngạc nhiên vì tính nghiêm túc và khắc khổ của nó. Ngoài việc tuân giữ bình thường của giới tu sĩ, các ngài còn tự nguyện hãm mình phạt xác để cho kết quả truyền giáo lên cao như: cấm ăn thịt và uống rượu – ăn chay cả tuần trừ chúa nhật và lễ nghỉ- ngủ nghỉ đơn giản – nguyện ngắm lâu giờ trong ngày. Cuối cùng Tòa thánh không chấp nhận những luật lệ gắt gao này như: ăn chay trường kỳ và cấm tuyệt đối không ăn thịt… Dù vậy khi biết ý của Tòa thánh, Đức Cha là người vâng lời Tòa thánh trước tiên và sốt sắng nữa.

Lc c.5.9: Chúa nói: khi vào nhà nào, hãy chúc lành cho họ…hãy chữa những ai đau yếu và nói với mọi người: Nước Thiên Chúa đã đến gần… điều bận tâm cả đời của Đức Cha Lambert, dù ngài là một ông tây, một Giám mục, là xem coi giáo đoàn ngài có trách nhiệm phát triển đến đâu. Đi đến đâu, ngài đều được mọi người yêu mến, yêu mến vì lòng đạo đức, đơn sơ và khiêm tốn của ngài. Ngài ăn uống đạm bạc, ăn ít, không bao giờ uống rượu. Dù rất ghét ăn thịt, nhưng khi biết ý chỉ của Tòa thánh và hội Thừa sai Paris , ngài vâng lời cho dọn thịt lên bàn ăn ngay. Lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo, bệnh tật không biên giới. Cứ ba tuần, ngài cử người đi thăm các tù nhân, giúp đở tiền bạc rộng rải cho họ. Vì quá lo lắng cho công cuộc truyền giáo, ngài rất bận tâm đào tạo hàng giáo sĩ, thày giàng, thành lập dòng MTG thuộc quyền địa phận. Cuộc đời truyền giáo của ngài xem ra cũng được Chúa thưởng công bằng một số việc lạ như: chữa cho hoàng đệ của vua Xiêm khỏi liệt một phần- trừ quỷ cho một cô gái – cứu sống một hài nhi coi như đã chết – và sau khi chết còn chữa cho một anh thanh niên mù 8 năm được sáng mắt…

  1. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu đã nói với các mộn đệ được sai đi: đừng vui mừng vì ma quỉ bị khuất phục, nhưng hãy vui mừng vì tên của anh em được ghi trên trời. Đức Cha Lambert chắc chắn đã vui mừng như lời Chúa Giêsu nói. Còn phần chúng ta, vui mừng cách nào đây?

 

60. Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt lại ít.

(Suy niệm của Lm. Vinh sơn Ngô Đức Duy)

LỜI DẪN

Kính thưa cộng đoàn, Trong thế giới ngày nay, những nơi chưa nhận biết Chúa còn rất nhiều nhưng lại thiếu những tông đồ nhiệt tâm, dấn thân, ra đi rao giảng Tin Mừng.

Sứ vụ loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội. Vì thế, Giáo hội không ngừng kêu gọi mọi người hãy nhiệt tâm ra đi rao giảng lời Chúa, đem Chúa đến những nơi chưa biết Tin mừng. Chúng ta là những đoàn chiên của Giáo hội, vì thế, sứ vụ này cũng là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu chúng ta.

Trong tâm tình đó, chúng ta cùng nhau quỳ trước Thánh Thể Chúa, xin Ngài ban cho Giáo hội nhiều tông đồ nhiệt thành, dám dấn thân ra đi loan báo Tin Mừng ở khắp mọi nơi. Xin cho ơn gọi tông đồ trong Giáo hội ngày càng gia tăng để có nhiều thợ gặt mang những bó lúa về cho chủ.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trên thế giới hiện nay có hơn sáu tỉ người, mới chỉ có hơn một tỉ người là người Kitô hữu. Con số chênh lệch này nhằm nói lên rằng: số người chưa nhận biết Chúa còn rất nhiều, như Chúa đã từng nói với các môn đệ năm xưa: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 2). Vì thế, ngày nay Giáo hội rất cần có những tông đồ nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Chúa; rất cần những tông đồ có tinh thần dấn thân đem ánh sáng lời Chúa đến những nơi tối tăm, đem niềm vui đến những nơi sầu khổ….

Đối với Chúa, việc truyền giáo, rao giảng Tin Mừng là một mối lo âu khắc khoải. Điều này đã được thể hiện trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã chỉ định và sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng. Khi sai đi, Chúa đã nói với các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi” (Lc 10, 2-3).

Mệnh lệnh sai đi loan báo Tin Mừng của Chúa đối với các môn đệ năm xưa không mất đi nhưng vẫn còn vang vọng, kêu gọi khẩn thiết đối với Giáo hội, với mọi người kitô hữu chúng con trong thời đại hôm nay. Người muốn mỗi người chúng con mang Tin Mừng đến khắp mọi nơi như năm xưa người đã nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 5). Quả thực, sứ vụ loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo hội. Sứ vụ này không chỉ dành riêng cho những tu sĩ, linh mục mà cho tất cả mọi người chúng con. Bởi vì, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng con đã được tham dự vào đoàn dân riêng của Chúa, chúng con mang vào mình sứ vụ ngôn sứ là loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Vì thế, mỗi người chúng con đều có bổn phận loan báo Tin Mừng tùy theo chức phận của mình trong Giáo Hội.

Bổn phận loan báo Tin Mừng cũng được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trình bày trong cuốn sách “Nói với bạn trẻ hôm nay” như sau: “Toàn thể hội thánh đón nhận lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 5). Vậy tất cả hội thánh có tính thừa sai và phúc âm hóa, sống trong một tình trạng truyền giáo liên lỉ. Làm Kitô hữu nghĩa là làm những người thừa sai tông đồ, khám phá ra Đức Kitô chưa đủ, phải mang Người đến cho người khác nữa!”.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con ý thức rằng: mỗi người đều có bổn phận trong việc loan báo lời Chúa, đem Chúa đến cho mọi người. Xin cho chúng con dám ra đi khi nghe thấy tiếng Chúa mời gọi như các tông đồ năm xưa đã mau mắn ra đi khi nghe tiếng Chúa gọi mời: “Các môn đệ ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi” (Lc 9, 6). Xin cho chúng con can đảm nói về Chúa, can đảm làm chứng về đức tin bằng lối sống của chúng con, lối sống được kín múc ra từ Tin Mừng.

“Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 2). Do đó, để có nhiều thợ gặt lành nghề, nhiệt tâm; muốn có nhiều thợ gặt xung phong vào cánh đồng phì nhiêu kia, Chúa đã dạy chúng con phải cầu nguyện. Chúa đã từng nói với các môn đệ năm xưa: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10, 3). Người chủ ruộng đó chính là Thiên Chúa, Ngài làm chủ sự sống, làm chủ ơn cứu độ. Chính Người sẽ ban cho chúng con những thợ gặt khi chúng con cầu khẩn người.

Cầu nguyện là công việc của mọi người và có thể làm bất cứ lúc nào. Cầu nguyện còn chứng tỏ lòng tin tưởng, phó thác, cậy trông của chúng ta vào nơi Chúa. Chúng ta tin rằng Chúa luôn đồng hành và giúp ta trong mọi công việc: từ việc sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo cho đến rao truyền lời Chúa để người ta chấp nhận Tin Mừng, trở về với Chúa… tất cả đều do ân sủng của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin gởi đến cho nhân loại nhiều thợ gặt lành nghề, thợ gặt nhiệt tâm. Xin cho ơn gọi tông đồ trong Giáo hội ngày càng gia tăng để có nhiều thợ gặt mang những bó lúa về cho chủ. Xin cho mọi người chúng con trong sứ vụ loan báo Tin Mừng luôn biết tín thác vào Chúa, luôn biết chạy đến Ngài để kín múc lòng nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Amen.

home Mục lục Lưu trữ