Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 45

Tổng truy cập: 1367227

VÂNG LỜI

VÂNG LỜI- Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Vâng lời là một trong ba lời khấn trong nghi thức khấn dòng: Khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Vâng lời là bỏ ý riêng mình, vâng theo ý Chúa qua sự vâng phục ý của bề trên. Vâng lời đòi hỏi sự khiêm nhu đích thực. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã diễn tả về Chúa Giêsu:Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục (Dt 5, 8). Chúa đã nêu gương vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sau khi các tông đồ đã được diện kiến và chia sẻ ăn uống với Chúa Kitô phục sinh, các Ngài đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng. Các tông đồ là những nhân chứng sống động và can đảm nhất. Các Ngài đã đối diện với nhiều quyền lực cả thần quyền lẫn thế quyền. Người ta hăm dọa và cấm cản các tông đồ. Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Tđcv 5, 29). Một chọn lựa tuyệt đối. Các tông đồ đã chọn Chúa, vâng lời Thiên Chúa. Sự chọn lựa này có thể đưa đến sự giam tù, đầy ải khổ đau và chết chóc.

Những sự kiện mới xảy ra hôm nào: Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy (Tđcv 5, 30). Tin tức còn nóng hổi. Các nhân chứng còn đang hiện diện đầy phấn khởi. Tân hồn của các Tông đồ sôi xục niềm tin. Các ông ra đi rao giảng tin vui cho mọi người. Chẳng chút sợ hãi từ nan. Lòng nhiệt thành của các Tông đồ làm cho các nhà chức trách lo ngại. Nhưng dù có cấm cản và đe dọa, các Tông đồ vẫn một lòng trung kiên: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.”(Tđcv 5, 32). Các nhân chứng vâng theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Niềm tin và lòng trung tín của các Tông đồ là những hạt giống gieo mầm đức tin cho các thế hệ và cho mỗi người chúng ta. Đức tin của chúng ta cậy dựa vào những lời chứng của các tông đồ xưa.

Tâm hồn của các tông đồ hân hoan và vui mừng cho dù khổ đau trăm bề. Chứng nhân cho sự thật đồng nghĩa với sự khổ nhục vì danh Chúa Kitô. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Người đời không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của các nhân chứng sự thật. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Tđcv 5, 41). Chịu tù đầy, đánh đòn và giam giữ trở nên nguồn sinh lực hân hoan cho các tông đồ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều chứng nhân dám xả thân mang tin mừng cứu độ đến mọi người khắp mọi nơi. Đã có những vị tử đạo bỏ mình nơi vùng hoang sơ của những bộ lạc sống sơ khai man rợ. Tinh thần lạc quan và nhiệt tình của các nhà truyền giáo đã giúp họ xông pha trên mọi nẻo đường dù gian khó. Qua các Ngài, hôm nay chúng ta được thừa hưởng kho tàng mầm sống đức tin.

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu đã được gieo mầm đức tin và được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô. Cả cuộc đời của chúng ta đã bỏ vốn đầu tư trong một niềm tin. Chúng ta đã cống hiến nhiều thời gian, sức lực, khả năng, của cải và cả đời sống nơi Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta đã đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Đấng trung gian của vũ trụ. Chúng ta đã chọn Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của đời sống tâm linh. Chúng ta đã hy sinh, hãm mình, thi hành bác ái và tuân giữ giới răn của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta đang trông chờ điều gì? Đó chính là sự sống lại và sự sống hạnh phúc ngày sau. Chúng ta biết rằng con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Vâng theo thánh ý Chúa trong cuộc lữ hành trần thế là chúng ta đang dõi theo con đường hướng thượng.

Hằng ngày chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa. Theo Chúa là theo con đường đi lên, con đường an vui hạnh phúc, con đường ngược dòng và cả con đường khổ giá. Chúng ta đã đầu tư biết bao nhiêu công sức để học hỏi, tìm hiểu và sống niềm tin của mình qua năm tháng. Đừng để niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng, mê tín, hình thức và trình diễn bên ngoài. Chúng ta hãy chìm sâu vào cốt lõi của niềm tin. Tinh thần vâng phục sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Biết tìm từ bỏ ý riêng và chấp nhận ý Chúa. Vâng phục không phải là đánh mất mình nhưng là chia sẻ một cuộc sống hài hòa trong yêu thương bác ái. Vâng lời trọng hơn của lễ là thế. Chúng ta biết trăm người trăm ý, nên cần có những quyết định và ý kiến chung để thi hành. Tuy rằng không có ý nào là tuyệt đối nhưng có đa số quyết định. Giáo hội là Nước Trời tại thế nhưng giáo hội cũng là tổ chức xã hội, cần có sự nhất trí để dẫn dắt mọi tín hữu đi trong đường lối Chúa. Chúng ta cũng biết sự vâng phục sẽ nhẹ nhàng hơn đôi chút khi có sự đối thoại và thông cảm. Hãy sống niềm tin đích thực trong mọi trạng huống ở đời.

Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần và nhiều cách với nhiều người. Đôi khi các tông đồ cũng chẳng nhận ra Chúa. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (Ga 21, 4). Chúa đến với các tông đồ khi Chúa muốn.Chúa cho ai ân sủng, người đó lãnh nhận. Chúng ta không nên phân bì, so sánh hay ganh tị. Ân sủng là qùa tặng nhưng không. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu lại yêu cầu các tông đồ làm một việc có vẻ như thách thức tinh thần vâng phục. Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21, 6). Vâng lời Thầy, con thả lưới. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp đã cật lực thâu đêm mà chẳng bắt được gì. Vâng lời Thầy, các ông đã kéo được mẻ cá to. Sự vâng phục đã mang lại niềm vui và thành qủa to lớn.

Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy. Chúa vẫn dùng những cử chỉ thân thương gần gũi để chia sẻ cuộc sống với các tông đồ:Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21, 13). Bánh và cá đã trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Trên sườn núi Chúa cũng đã biến hóa bánh và cá hai lần để nuôi dân con số trên cả mấy ngàn người. Chúa quan tâm sự vất vả, mệt nhọc và đói khổ của dân chúng. Sự hiện diện của Chúa mang lại niềm an vui, no thỏa và ủi an. Chúng ta tín thác vào lòng thương xót của Chúa moi nơi mọi lúc. Nếu chúng ta có Chúa hiện diện là có sự bình an, có niềm vui hoan lạc và hy vọng. Hãy kết hợp thường xuyên với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta sẽ được an nghỉ: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).

Sách Khải Huyền của thánh Gioan mở ra cho chúng ta một viễn tượng tuyệt vời nơi đất mới trời mới: Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu (Kh 5, 11). Đây làthực tại của niềm tin. Tất cả niềm hy vọng của chúng ta đặt vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hy vọng sẽ cùng chung hưởng một cõi sống vĩnh hằng. Những đau khổ của chúng ta hôm nay, chẳng là gì so với vinh quang bất diệt mà chúng ta sẽ được dự phần. Thánh Gioan diễn tả: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! “(Kh 5, 13).

Lạy Chúa, chúng con cứ mải mê tìm kiếm những của cải và thú vui thế sự để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Xin cho chúng con biết nhìn lên, hướng thượng và chiêm ngắm vinh quang mà Chúa đang dành sẵn cho chúng con. Xin cho chúng con cùng được thông phần hạnh phúc với các thánh trong Nước Trời. Amen.

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- C

THỦ LÃNH PHÊRÔ- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC

Thưa anh chị em,

Cả bốn tác giả Tin Mừng và sách Tông đồ công vụ ghi lại, sau khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ngài hiện ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như: Ngài hiện ra với bà Maria Mađalenna, bà nhận ra Chúa khi  gọi đúng tên bà. Ngài hiện ra với hai môn đệ đi làng Emmaus, hai ông nhận ra Chúa khi bẻ bánh trao cho họ. Ngài hiện ra với bảy tông đồ trên biển hồ Tibêria, các ông nhận ra Chúa khi cùng ăn điểm tâm sáng với họ trên bờ biển.

 Tin Mừng hôm nay, gợi lại câu chuyện trước đây ba năm tại biển hồ Tibêria. Sau một đêm thất bại ê chề vì không bắt được con cá nào, nhưng vâng Thầy, Phêrô chèo thuyền ra chỗ nước sâu thả lưới, nên bắt được hai thuyền đầy cá. Lúc bấy giờ, Đức Giêsu lên tiếng gọi: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những tay chài lưới người ta” (Lc 5,10).

Hôm nay, tại biển hồ Tibêria, cũng sau một đêm vất vả thả lưới mà không bắt được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, các ông thả lưới bên hữu thuyền, và kìa, đã bắt được 153 con cá lớn. Theo các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng: con số 153, là số tượng trưng tất cả mọi thứ cá trong biển. Hàm ý nói rằng: Giáo hội mang tính phổ quát, rồi đây trên hành trình truyền giáo, các tông đồ sẽ quy tụ muôn dân, làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội Công Giáo.

Ở đây chúng ta nghiệm thấy rằng, Đức Kitô hiện ra không phải lúc các tông đồ chìm đắm cầu nguyện trong đền thờ, nhưng là lúc các ông đang làm việc ở ngoài biển cả.

Đức Kitô Phục Sinh đến với các tông đồ giữa những công việc thường ngày, và Ngài thể hiện bằng cử chỉ trao ban, là dọn điểm tâm cho các ông. Đồng thời, cùng ăn uống với họ, đó là niềm hạnh phúc lớn lao mà Chúa dành cho các môn sinh của mình.

Sau khi điểm tâm, là phần Chúa trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trước khi trao sứ vụ, Đức Giêsu không đòi Phêrô học vị bằng cấp hay đã tốt nghiệp trường đại học nào, mà chỉ hỏi “Con có yêu mến Thầy không?”

Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng, Đức Giêsu thiết lập Hội thánh trên nền tảng yêu thương. Người đứng đầu Hội thánh không phải là người ra lệnh chỉ huy, nhưng là người phục vụ. Sức mạnh của Giáo Hội không dựa trên quyền hành thống trị, nhưng trên tình yêu thương. Cho nên, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất.

 Chính vì thế, trước khi trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Đức Giêsu hỏi tới 3 lần: “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Vì có lòng yêu mến Chúa, thì mới có khả năng yêu thương anh em đồng loại. Như vậy, tình yêu là cốt lõi của đạo Công giáo. Bao lâu còn tình yêu, Giáo Hội còn hiệp nhất và phát triển, khi nào tình yêu suy giảm, Giáo Hội sẽ suy tàn.

Thế thì, tại sao Đức Giêsu không trao quyền thủ lãnh cho một người thông thái, có tài lãnh đạo, mà lại trao cho Phêrô, một Tông đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen thưởng, như vậy, chắc chắn Phêrô có lòng mến Chúa thiết tha lắm.

Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu đối với Thầy, Đức Giêsu bảo “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy”. Kể từ đó, Phêrô vâng lời Thầy về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn đầy sức thuyết phục, đã có 3.000 người xin rửa tội. Rồi Ngài đi đến thành đô Rôma, một cánh đồng truyền giáo bao la, là. Nơi đây, Ngài đối diện với biết bao gian nan, bắt bớ, tù đày, nhưng thánh nhân đã can đảm làm chứng cho Chúa đến cùng. Ngài lấy máu đào để minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết lên trang sử vàng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.

Anh chị em thân mến,

Ngày nay, Giáo Hội được thừa hưởng đức tin do các tông đồ để lại. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng cái chết đẫm máu của mình. Như vậy, muốn sống làm chứng cho Tin mừng phục sinh, chúng ta không được an phận, mà phải lên đường, phải ra đi đến những vùng ngoại biên, phải nỗ lực tìm kiếm các linh hồn. Có nghĩa là phải chèo thuyền ra chỗ nước sâu, đôi lúc phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng.

Bởi vì Giáo Hội của Chúa chỉ có thể phát triển qua những vất vả, khó khăn, cấm cách trăm bề như các Tông đồ năm xưa, nhưng chúng ta hãy vững tin rằng, Đức Kitô Phục sinh vẫn luôn đồng hành thiêng liêng với chúng ta trên mọi nẻo đường.

Ngày nay, mỗi lần cử hành Thánh lễ, Đức Kitô Phục sinh vẫn tiếp tục dọn cho chúng ta những bữa ăn nơi bàn Tiệc Thánh, một bữa ăn hiệp nhất đong đầy tình yêu thương.

Cử chỉ bẻ bánh và cá nướng trao cho các tông đồ năm xưa, gợi lên cho chúng ta thấy Thánh lễ cũng là một bữa ăn. Ngày nay, Đức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục dùng đôi tay linh mục bẻ tấm bánh, là Mình và Máu thánh Ngài trao cho chúng ta. Và phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.

Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai vẫn là một. Ngày nay, Ngài vẫn đến với chúng ta qua cử chỉ trao ban ấy.

Xin Đức Kitô mở ánh mắt đức tin, để chúng ta nhận ra dung mạo của Chúa trong mọi biến cố thường ngày. Xin cho chúng ta biết sống quảng đại đối với tha nhân, như Chúa đã từng quảng đại đối với chúng ta. Amen.

 CHÚA NHẬT  III PHỤC SINH-C

NIỀM VUI PHỤC SINH-  Lm. Phê-rô Bùi Quang Tuấn

Theo một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc từ một bàn tay khéo léo nào đó trong các môn đệ của Thánh Gioan. Bởi vì không lý nào với những lời từ biệt kết thúc ở chương 20- “Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20:31)-rồi sau đó vị thánh sử lại từ biệt thêm một lần nữa- “Còn lắm điều khác, Đức Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều thì thiết tưởng thế gian không đủ chỗ mà chứa sách viết ra (Ga 21:25).

Tác giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh “rắn mất đầu”. Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông. Tuy ngắn nhưng sao mông lung mịt mờ.

Nhiều người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên: “Tôi đi đánh cá.” Phêrô đã thốt lên câu nói đó.

Đi đánh cá là trở lại với nghề xưa-thực tập và tìm lại những gì mà một thời mình đã bỏ hết để theo Đức Giêsu. Đi đánh cá là để gợi nhớ kỷ niệm lần gặp gỡ đầu tiên với Thầy nơi biển hồ. Dường như Phêrô muốn níu lại một thoáng bóng hình đang tan biến.

Thế rồi ông được anh em phụ hoạ: “Chúng tôi cùng đi với ông.” Tất cả cùng lên thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào, cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.

Thế nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, “đêm ấy họ vẫn không bắt được gì” (Gn 21:3). Hoá ra, dù có phương tiện đánh cá trong tay, dù đã hăng hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi thường.

Phải chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao “ra khơi” nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi “bên hữu bên tả”, và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô… “đầy tớ”?

Kết quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ, là một mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó: “Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa” (Ga 21:12).

Cuộc tao ngộ Thầy trò bên hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một câu vấn đáp về lòng mến yêu: “Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta không?”

Căn cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: “Các ngươi trốn nơi đâu?” cũng không hề trách: “Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và chối Thầy không?”

Trong câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Gn 21:15). Thế ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ nên người chăn chiên đích thực. Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.

Chúa gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu xót phải nhường cho hiện tại giàu thương yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.

Trong yêu thương có tha thứ. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết. Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những dị biệt của tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.

home Mục lục Lưu trữ