Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 49
Tổng truy cập: 1370330
VẦNG TRĂNG TUYỆT VỜI
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
1. Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
2. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
3. Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.
4. Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
1. Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
2. Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
3. Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
4. Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
5. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là “Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả… Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời : một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…
Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).
“Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.
Hôm nay mừng Mẹ Lên Trời.
Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
31. “Tôi Nhập Hồn Tôi Trong Khúc Hát,
“Để Nhờ Không Khí Đẩy Lên Trăng.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Nhập hồn trong khúc hát, để nhờ không khí cố đẩy lên. Đó, là tâm trạng của nhà thơ nay ngẫu hứng. Nhập hồn với lời ca, để có tình tự Mẹ diễn tả lúc về Trời.
Trình thuật, nay thánh Luca cũng diễn tả tâm tình ngày Mẹ về Trời với Chúa, hầu chỉ dẫn dân con mọi người theo về chốn phúc hạnh, mà thăng tiến. Tâm tình này, đặc biệt hơn khi người chỉ dẫn lại là “Nữ phụ” đặc biệt, Mẹ Hiền của Chúa. Sống với thế giới và Giáo hội trong đó nam-nhân bao giờ cũng lấn lướt/vượt trội mọi nữ lưu, để bảo vệ/chăm sóc phụ nữ hơn chính mình. Nhưng ngược lại, mới đúng.
Thật ra thì, ở nam-nhân lẫn nữ-phụ, phẩm chất nam/nữ mỗi người một cách, rất khác biệt. Phẩm chất là chất-phẩm, gồm: sự tử tế, tính dịu dàng, độ-lượng, lòng xót thương, cả trực-giác, lẫn nét hiền lành toả sáng nhiều lúc cũng kín đáo, thâm trầm. Nhất nhất, là đặc trưng về “nhân” phẩm Chúa tặng mọi người, nam lẫn nữ.
Nhưng, quà tặng thiết thực ở hai phái tính, là quà Chúa tặng ban làm cơ sở cho thực chất cao cả hơn, tức: mở lòng ra với Chúa để vinh thăng tính siêu-việt; nếu không có tính này, chẳng ai đích thực là bản vị hết. Bởi, ta được tạo dựng là được Chúa mời gọi đi vào hiện hữu trong phần sâu thẳm của chính mình, với Chúa và cho Chúa, để rồi cứ thế cảm tạ Ngài. Quả thật, ta được gọi mời là để khám phá ra mà vui huởng ý nghĩa trọn vẹn của nhân vị quyết mở lòng ra với Chúa. Ta được gọi làm tạo vật hoàn-thành ý nghĩa xuất tự Chúa trong luồng ánh sáng rất tráng lệ.
Nhưng lịch sử đã làm suy giảm ánh chói loà của quà tặng nơi ta. Ngày nay, con người cũng được gọi mời theo cung cách tương tự, nhưng đa phần đều ra như không biết. Đa phần chất giọng thời hiện đại, đều hợp lòng bảo ta đừng lắng nghe tiếng gọi này để ta có yêu cầu độc-lập, tách rời Chúa và mọi người.
Phải công nhận, ánh sáng tắt lịm theo cung cách đặc biệt, nay xảy đến với nam nhân, khác hẳn nữ giới. Điều này, là do lịch sử lâu nay phát triển theo kiểu đó. Nam nhân vẫn thấy khó mà khám phá ra Thiên Chúa đích thực. Lịch sử và hoàn cảnh diễn tiến trong đó vẫn làm cho họ ra như thế. Điều này, từng được thánh Phaolô tỏ bày với dân thành Rôma, rất cứng lòng. Theo thánh-nhân, thì nam nhân, nếu không được trợ giúp, hầu như không có khả năng mở rộng lòng mình cách tích cực và vui vẻ với Chúa. Xem ra, Chúa được nam-nhân quan niệm như kình-địch chứ không như Đấng Cứu độ, khiến cần có sự trợ-giúp của nữ phụ, nam-nhân mới hiểu thế nào là ân-huệ.
Nữ-giới ngày nay thường muốn tham gia thế giới của nam-nhân, hầu có được vài đặc tính/đặc điểm của nam nhân, và có thể làm được những việc mà nam-nhân từng làm, cũng như có được tự do và toàn quyền chọn nghề nghiệp như nam nhân. Gần cận Chúa, nam nhân cũng cần sự trợ giúp của nữ-giới. Tuy thế, nữ-giới vẫn bị hạn chế trong nhiều sự việc; vẫn bị khai thác, bóc lột rồi còn bị nam-nhân vùi dập, nhận chìm trong tối tăm. Đặc biệt hơn, nữ-giới vẫn bị trở ngại vì chính mình, cách thực thụ.
Nơi nữ giới, chứ không phải nam-nhân, vẫn có thói quen giữ vững các giá-trị căn-bản của con người trong hiểu biết Chúa. Chính vì thế, Chúa đã phó thác nam-nhân cho nữ giới và yêu cầu nữ giới chỉ cho nam-nhân cách thức gần-cận Chúa. Nữ-giới trổi vượt hơn nam-nhân về chuyện này là nhờ lòng đạo đức cùng sức mạnh thiêng liêng khiến nữ giới biết rõ sự thể Chúa là trọng-tâm của cuộc sống. Tự bản chất, đích thực Chúa ủy-thác mọi sự về con người cho mỗi người và mọi người. Nhưng nữ-giới lại quan tâm nhiều hơn nam-nhân về chuyện ấy. Chuyện ấy, là do bản-chất của nữ-giới, vẫn như thế.
Thật ra thì, Chúa nhận ra là nữ-giới mạnh-mẽ hơn nam-nhân về đạo đức và về nguồn mạch linh-đạo. Chúa giao cho nữ-giới trọng-trách chăm lo cho nam-nhân. Chính vì thế, nữ giới có ơn gọi bảo-vệ sự sống con người, bảo vệ sự sang-tạo, chăm nom mọi sự về con người, và nữ-giới làm thế rất đắc lực do nữ-tính của mình.
Về với Đức Nữ-Trinh Maria. Mẹ là đấng được chúc phúc hơn mọi người nữ. Sứ-vụ của Mẹ được các nữ phụ chuẩn-bị và vẫn được nhiều nữ-phụ thực–thi; nhưng theo truyền thống Kitô-giáo, Mẹ là ví-dụ điển hình của sự hiền dịu, thương yêu hơn tất cả. Đặc-ân của Mẹ là đưa Chúa đi vào với thế giới của con người; và từ đó, đưa con người vào với thế-giới của Thiên Chúa. Con người được cưu-mang đến với Chúa là nhờ nữ-tính của Đức Trinh Nữ Maria. Ngang qua Mẹ, mọi nam-nhân được Đức Chúa, Con của Mẹ vui vẻ đón nhận.
Chỉ mình Mẹ, chứ không phải mọi người nữ nói chung, được chúc-phúc do bởi nơi Mẹ, là biến cố độc-nhất trong đời con người xảy đến, mới diễn tả sự đầy-tràn của thời gian, diễn tả cả tính chất nhân-bản và ơn cứu-độ. Nhập-thể diễn ra nơi Mẹ và do Mẹ. Nơi Mẹ, toàn thể “nhân loại” nơi phụ nữ đã đổi thay. Mẹ là Người-Nữ-của-Ơn-huệ-cứu-độ Chúa ban cho con người và cuối cùng đã hoàn-tất. Một lần nữa, Mẹ đã biến thành hiện-thực tính hiền-dịu xưa/cũ bị quên lãng của người nữ và của Chúa. Nữ-tính nơi Mẹ không chỉ là trường hợp “có them” về nữ-tính hiền-dịu rất vĩnh cửu, hoặc bản-năng làm Mẹ Hiền của nhân loại. Nơi Mẹ, bản năng và đức tính ấy đã trở thành của Đức Maria, về Maria, cho ta.
Đó là lý do tại sao ta muốn nhận biết Mẹ, không chỉ là Me của ta và của Chúa, hoặc là môn đệ Đức Giêsu hoặc “Nữ vương” thiên đáng mà thôi, nhưng trong mẹ và cho chính Mẹ, là nữ phụ nữa. Thật ra, Chúa làm nhiều điều kỳ-diệu cho Mẹ và Mẹ cũng đáp-ứng bằng cách chạm-khắc chúng vào nữ-tính thẳm sâu nơi Mẹ, để cứu rỗi mọi người. Người nữ khác, ắt sẽ phải ghen tị về Mẹ, nhưng họ cũng sẽ thấy nơi Mẹ những điều tốt đẹp nhờ Mẹ và do Mẹ mà có.
Giả như tất cả các đặc tính vượt trội ấy, là chính Mẹ và Mẹ hiện hữu là vì ta, để cho ta, thì ta có thể bắt đầu cảm kích biết rằng: sự chết không thể bắt chụp được Mẹ. Mẹ sống không có nghĩa là “chết cho chủ nhân” là nam nhân của Mẹ. Mẹ sống là cho sự sống. Mẹ có đó, khi nam-nhân lẫn nữ-giới đi vào cõi chết, nhưng Mẹ không sống để rồi sẽ phải chết, và Mẹ sẽ chứng-tỏ cho mọi người thấy: chỉ mình Mẹ mới được thế. Ta cũng có thể nói thế, với mọi nữ-phụ; nhưng ta sẽ thấy rõ điều đó khi nhìn mọi phụ-nữ qua tầm-nhìn của Đức Mẹ. Mẹ là Trăng Tròn giữa tinh tú.
Theo cách nào đó, ta có thể nói một cách đầy tin-tưởng rằng: Mẹ Về Trời cả hồn lẫn xác, theo nghĩa: toàn bộ căn-tính con người của Mẹ, đã đi vào vũ-trụ thiên-đường của Chúa, có Chúa. Chính nữ-tính của Mẹ và lòng muốn yêu thương mọi người chúng ta, được Mẹ mang theo “về trời” với Chúa. Và, lòng muốn ấy, được Mẹ dùng để tỏ cho ta biết, nhưng không phải để biết thế nào là thiên đường, mà là đưa ta vào cõi thiên đường, có Chúa. Quả thật, Mẹ đã mang toàn thể nhân loại cùng với Mẹ, qua động thái về “trời của Chúa”, có Chúa.
Thành ra, tất cả chúng ta –nam-nhân hay nữ-giới- đều được Mẹ “đem về trời” cùng với Mẹ và do bởi Mẹ. Chính đó, là ý nghĩa của lễ hội “Mẹ Về Trời”, và cũng là hội lễ của chúng ta nữa. Không có Mẹ, chắc chắn không ai được như thế. Như thế, là như thể: đã có Chúa, ở Nước Trời, về trời.
Trong tâm tình cảm nghiệm, hãy cùng Mẹ và cùng nhau hát lên câu thơ đời đầy ý nghĩa, rằng:
“Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát,
Để nhờ không khí đẩy lên trăng.
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi.
Để hớp tinh-anh của nguyệt cầu.
Và để thoát lý ngoài thế giới,
Để cười, để trững, để yêu nhau.”
(Hàn Mặc Tử – Chơi Lên Trăng)
Hớp “tinh-anh nguyệt-cầu”, là hớp “hồn” người có Mẹ cùng hớp, để người người yêu nhau, thoát ly ngoài thế giới mà về với Chúa, với Mẹ rất “Về Trời” cả xác lẫn hồn, rất Nghê thường.
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch
32. Tình Mẹ Còn Mãi
Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:
“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…” (nhạc Phạm Duy)
Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!
Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay… bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.
Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:
Biết chiều nay con về thứ bảy
Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn
Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái
Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.
Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông nầy bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:
“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã
Con hãy gọi 2 tiếng MẸ YÊU!
Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh.
Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.
Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.
Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:
Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng “Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?”
– Biết gì ? “Biết là, biết là con thương Mẹ không ?”
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
33. Phúc Đức Tại Mẫu
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Văn hóa Việt Nam rất coi trọng tình mẹ. Tình mẹ luôn cao quý. Tình mẹ luôn là động lực cho con cái lớn khôn làm người. Thế nên, người mẹ luôn được tôn vinh ở mọi nơi mọi chốn. Người ta thường dùng chữ mẹ để tôn vinh những nơi chốn, những gì là thiêng liêng cao cả. Thí dụ : đất mẹ, quê mẹ hay tiếng nói mẹ đẻ…
Người mẹ còn là một gia sản quý báu cho con cái. Gia sản ấy không phải là tiền bạc, tài sản mà là phúc đức cho con. Đó là lý do người ta nói: “Phúc đức tại mẫu”. Vì người xưa cho rằng người mẹ nếu ăn ở tốt sẽ để lại những điều tốt lành cho con. Suy rộng ra là việc một người mẹ, người bà có thể để lại phúc đức cho con cháu hay không đều phụ thuộc vào cách sống, cách đối nhân xử thế của người đó.
Có một người mẹ tuy không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, bà đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Bà viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu”. Lời dặn thật mộc mạc nhưng ẩn chứa biết bao triết lý cho cuộc sống. Chính những lời dạy đơn sơ ấy đã uốn nắn con thành người. Thật phúc đức cho những ai có người mẹ thấu tình đạt lý như thế!
“Phúc Đức tại mẫu”, như còn muốn nói người mẹ, người vợ không chỉ mang phúc đức cho con, mà còn là mối giây liên kết cho nhiều thành viên trong một đại gia đình. Trong gia đình họ tộc có những mối quan hệ không trói buộc bằng tiền bạc. Con ghi ơn cha mẹ. Anh chị em gắn bó với nhau. Họ hàng qua lại với nhau đều không phải vì tiền bạc mà tất cả các mối quan hệ ấy chỉ có thể tồn tại được nếu có tình cảm với nhau. Và trên hết, người phụ nữ chính là sợi dây tình cảm nối liền cha với con, nối anh chị em lại với nhau, nối các bậc thông gia cho gần gũi. Người mẹ, người vợ được xem là người có khả năng và thiên chức điều hòa mọi thành viên một cách hữu hiệu nhất. Câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” không chỉ đúng cho thời xưa mà cả mọi thời đại.
Đó là lý do Con Một Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin, nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm Mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Mẹ đã xin vâng không chỉ một lần trong ngày sứ thần truyền tin, mà Mẹ đã xin vâng trong suốt dọc dài cuộc sống khi để cho thánh ý Chúa thực thi nơi Mẹ. Lời xin vâng của mẹ đạt tới đỉnh cao trong hành trình thương khó mà Mẹ đã cất bước cùng con của Mẹ lên đồi Calve. Cuối cùng, Mẹ đã được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ. Đây là một phần thưởng mà Thiên Chúa đã dành cho một người mẹ vĩ đại của Con Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, Mẹ Maria vẫn tiếp tục lãnh lấy vai trò làm mẹ chúng sinh. Mẹ vẫn ân cần chăm sóc nhân loại. Có lẽ chúng ta cũng sống nhờ “phúc đức tại mẫu” nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Thiên Chúa vẫn tha thứ và bao dung với chúng ta nhờ lời cầu khẩn rất đẹp lòng Thiên Chúa của Mẹ Maria. Và chắc chắn, Mẹ Maria cũng là mối dây liên kết chúng ta trong một đại gia đình của Mẹ. Nơi Mẹ Maria còn là máng thông ơn Chúa đến cho con cái của Mẹ. Biết bao nhiêu người con đã chạy đến kêu cầu Mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ ơn Chúa đến với họ. Biết bao người đã tìm được bình yên khi nép mình bên tà áo từ bi của Mẹ.
Quả là rất đúng khi người xưa nói rằng”:
Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Xin cho chúng ta luôn biết trân quý mối dây thân tình với Mẹ. Xin cho chúng ta cũng biết học đòi noi gương bắt chước Mẹ khi biết sống xin vâng theo thánh ý Chúa. Xin đừng để những đam mê dục vọng, những thói đời lôi cuốn vào đường xấu mà biết bám vào tà áo Mẹ để Mẹ chở che chúng ta trước những dòng chảy đầy tội lỗi lôi cuốn. Ước gì chúng ta luôn biết sống nhờ phúc đức của Mẹ mà tiến bước trên con đường nhân đức, con đường về trời trong ân phúc của Chúa. Amen.
34. Maria, Thầy Dạy Đức Tin
Lm. G.B. Trần Văn Hào
Trong một đan viện nọ, có hai tu sĩ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng liêng. Họ mở Kinh Thánh ra và cùng nhau chia sẻ. Đoạn Kinh Thánh được đọc lên, trích trong Tin mừng Luca chương 15, nói về dụ ngôn đứa con hoang đàng. Câu chuyên khá dài với nhiều tình tiết. Gấp sách lại, cả hai thinh lặng cầu nguyện và trao đổi. Một đan sĩ lên tiếng “Tôi không hiểu tại sao thằng bé này lại bỏ nhà đi hoang. Nó có một gia đình khá đầy đủ về vật chất. Hơn nữa, nó còn có một ông bố yêu thương nó hết lòng. Vậy tại sao nó lại thoát ly gia đình?”. Suy nghĩ một lát, vị đan sĩ kia lên tiếng “Đứa bé này bỏ nhà đi bụi, vì trong ngôi nhà ấy vẫn vắng bóng một người mẹ”.
May mắn, chúng ta có một người Mẹ tuyệt vời là chính Đức Maria. Người vừa là hiền mẫu, vửa là Thầy dạy đức tin và cũng là đấng phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin trần thế. Mừng lễ Mẹ lên trời hôm nay, Giáo hội cũng nhắc nhớ chúng ta hướng về người mẹ thiêng liêng và tuyệt diệu này. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn về Đức Maria như là khuôn mẫu đức tin để noi theo.
Ý nghĩa mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác.
Năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã công bố tín điều này. Đây là tín lý thuộc đức tin mang tính thần khải và Công giáo. Giáo hội xác tín chân lý ấy dựa vào nhiều lý chứng.
Trước hết, bởi vì Mẹ là thụ tạo vượt trổi, đã được Chúa giữ gìn khỏi lây nhiễm tội lỗi. Tội tổ tông không để lại âm hưởng gì nơi Mẹ, đồng thời Thiên Chúa cũng gìn giữ mẹ luôn mãi vẹn tuyền. Ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Ngài phó trao cho Mẹ những đặc sủng tương thích với sứ vụ cao cả này. Thân xác Mẹ cho dù có phải nếm trải sự chết giống như Đức Giêsu, nhưng thân xác vẹn tuyền đó không thể bị hủy hoại. Vì vậy Giáo hội xác tín rằng sau khi chết, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Thứ đến, cuộc đời của Mẹ đã gắn kết chặt chẽ với Đức Giêsu. Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Mẹ cũng vậy. Phần thưởng nước trời dành cho Mẹ như một hệ quả tất yếu của sự hiệp thông vẹn tròn với Đức Giêsu.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã nói đến sự chiến thắng của người nữ trên con rắn. Người nữ đạp dập đầu con rắn và con rắn rình cắn gót chân bà. Người phụ nữ này là hình tượng chỉ về Hội thánh, về Đức Maria, về những con người sống hiệp thông chặt chẽ với Đức Giêsu trong nhiệm cục cứu độ. Cũng tương tự, người nữ trong sách Khải Huyền đã chiến thắng con rồng đỏ, cũng ám thị về Đức Maria và về toàn thể Giáo hội.
Giáo hội công bố tín điều này để mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như khuôn mẫu đức tin. Mẹ chính là Thầy dạy Đức tin cho chúng ta.
Thầy dạy đức tin.
Sau khi Chúa về trời, Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ. Tin mừng Gioan chỉ tóm gọn trong một câu ngắn: “Từ lúc ấy, môn đệ đem Mẹ về nhà mình (Ga 19,27). Sách Tông đồ Công vụ chỉ duy nhất một lần nói về sự hiện diện của Đức Maria giữa các tông đồ khi cầu nguyện tại Giêrusalem trong dịp lễ Ngũ Tuần. Sau đó, Chúa Thánh Thần đậu xuống trên các tông đồ và trên Đức Mẹ (Cv 1,12). Như vậy, sau biến cố Phục sinh, Mẹ đã hoàn toàn rút vào trong thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện. Thái độ đức tin này cũng được Thánh Luca tóm kết bằng một câu đơn giản: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2,19). Vì vậy, qua phụng vụ hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của mọi tín hữu.
“Phúc cho bà là kẻ đã tin” (Lc 1,45). Đây là lời được mặc khải qua miệng bà Elizabeth. Trước khi chúng ta chiêm ngắm các nhân đức và những đặc phúc nơi Mẹ, chúng ta hãy nhìn về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của chúng ta.
Cuộc hành trình đức tin của Mẹ được dàn trải trong suốt cả cuộc sống, từ biến cố truyền tin đến cao điểm là phút giây hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu dưới chân Thập giá. Thái độ đức tin đó được thể hiện bằng cách Mẹ luôn tìm kiếm và quy thuận thánh ý Thiên Chúa. Có lần, khi Chúa Giêsu đang giảng giữa đám đông, Đức Maria chợt đến. Người ta báo cho Chúa biết là ‘bà cố’ đang đến. Người trả lời: “Ai là mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Mc 3,31-35). Đức Giêsu gián tiếp đề cao thái độ đức tin nơi Mẹ. Tính cách làm Mẹ của Ngài hệ tại ở việc biết nghe lời Thiên Chúa và đem ra thi hành.
Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác là dấu chứng của một cuộc vinh thắng, và đó chính là cuộc chiến thắng trong đức tin. Trong thư Rôma, thánh Phaolô so sánh Ađam với Đức Kitô (xem chương 5). Ađam gieo sự tội vào trần gian vì bất tuân, còn Đức Kitô đưa sự giải án tuyên công đến cho con người qua vâng phục. Cũng như Evà đã liên đới với Ađam trong tội nguyên tổ, thì Đức Maria được sánh ví như Evà mới, đã hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu để đem ơn cứu độ đến cho con người. Nhiều thần học gia còn gọi Mẹ là Đấng ‘Đồng công Cứu chuộc’ (Corredemptorist). Sách Giáo lý Công giáo cũng mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là Biểu tượng Cánh chung (Eschatological Icon) cho toàn Giáo hội trong cuộc lữ hành trần thế (Giáo lý Công giáo số 972). Những điều này nói về Mẹ như là khuôn mẫu và Thầy dạy đức tin cho chúng ta.
Kết luận
Ở Đức, trong một vở kịch diễn lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, diễn viên trình diễn cảnh Giuđa sau khi phản bội đã ra đi tự vẫn. Trước khi chết, anh ta thét lên: “Khốn thân tôi, tôi biết chạy đến với ai bây giờ?”. Nghe như vậy, một đứa trẻ ở gần đó nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao anh ta không chạy đến với Mẹ Maria”.
“Trên đời này, không có một kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Cũng vậy, chúng ta có Đức Maria là Hiền Mẫu, là Thầy dạy đức tin và cũng là nơi nương náu an toàn nhất trong cuộc lữ hành trần thế hôm nay.
35. Hướng Lòng Về Trời Với Mẹ
Huệ Minh
Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và luồng thần học đó xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Với lý luận cũng như lập trường của họ, họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ.
Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về trời cả xác và hồn. Nhìn Đức Mẹ ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”.
Và khởi đi từ lời tuyên bố trong Thánh Lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Mở ra những trang Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963-975, ta thấy 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “mông triệu”. Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thị kiến kỳ lạ mà Gioan đã thấy và đã ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu,…
Tác giả Thánh vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45,10-12)
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này, chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Với lời Xin Vâng và bằng lời Xin Vâng trót cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn làm trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.
Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình.
Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa; nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu… như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.”
Và vào ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội, Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
Và rồi Mẹ cũng tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.
Trong Mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là chúng ta xác tín lại niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Xin Đức Mẹ Maria luôn cầu bàu cho mỗi người chúng ta khi còn ở đời này, biết yêu mến những sự trên trời và để sống như đang sống với Mẹ ở trên trời.
36. Theo Gót Mẹ
Trầm Thiên Thu
Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Một cách ví von đơn giản mà thâm thúy.
Trong cuộc sống đời thường, người mẹ có mức ảnh hưởng sâu đậm tới con cái – hầu như về mọi lĩnh vực. Mẹ đi đâu, con thường khóc đòi theo. Ở bên mẹ vừa an toàn vừa vui sướng. Đặc biệt hơn, chúng ta có một Người Mẹ của các người mẹ là Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta không thể không ảnh hưởng – nhất là về tâm linh.
Thật vậy, Thánh Ðamianô xác định: “Ðược sống dưới sự che chở của Đức Mẹ là một hạnh phúc lớn lao”. Còn Thánh François de Sales khuyên: “Hãy chạy đến với Đức Maria, ngã vào vòng tay Mẹ với lòng tin tưởng hoàn toàn”.
Theo nghĩa bình thường, lên trời là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng chỉ ít người đạt được, số ít đó là các phi hành gia. Họ đã lên đó và “gặp” Hằng Nga, điều ma xưa kia là điều không tưởng. Theo nghĩa bình thường như vậy, và mang tính khôi hài một chút, phải nói rằng Chú Cuội là người lên Cung Trăng đầu tiên.
Lên trời như vậy chỉ là “tham quan” mặt trăng, hoặc “khám phá” một hành tinh nào đó, hoặc tìm hiểu các “lỗ đen” trong vũ trụ. Với các Kitô hữu, “lên trời” như vậy chỉ là… “chuyện nhỏ”, “về trời” mới đáng nói, vì đó là Quê Hương Đích Thực, về trời để vĩnh cư chứ không ở chơi ít lâu rồi thôi. Đặc biệt là nơi có Đức Kitô và Đức Maria đang chờ chúng ta. Vâng, về trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Nhưng muốn theo Đức Mẹ về trời thì phải noi gương sống của Đức Mẹ, nghe lời dạy của Đức Mẹ là “tuân phục Ý Chúa” – tức là “xin vâng” (Lc 1:38), và nhiệt thành làm “chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8), và quan trọng là can đảm cùng Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá để nhận lời trăn trối của Chúa Giêsu (Ga 19:25-27).
Đức Mẹ đã về trời cả hồn và xác – cũng gọi là Đức Mẹ mông triệu (*). Đó là một minh chứng hùng hồn và cụ thể bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Tín điều này được ĐGH Piô XII công bố ngày 1-11-1950, qua Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại).
Nói tới chuyện “lên trời” có liên quan chuyện “hồn ra khỏi xác”, tức là chết. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Chết là “cửa ngõ” vào sự sống vĩnh hằng. Ai muốn làm công dân Thiên Quốc, chắc chắn người đó phải sống Luật Chúa một cách ngoan cường và anh dũng.
TỪ THỊ KIẾN…
Thánh Gioan kể lại thị kiến về Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, với điềm lớn xuất hiện: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật là vinh quang, nhưng không thiếu gian khó là sự công bằng tất yếu: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12:2). Quả thật, không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô đã phải qua “cửa tử” rồi mới tới “cửa sống” và chiến thắng khải hoàn. Đau khổ có giá trị cao lắm!
Thánh Gioan cho biết thêm: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4). Đây là người-con-đặc-biệt, chính “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân”, rồi sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12:5), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, nơi Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12:6).
Khi thấy thị kiến này, Thánh Gioan nghe có tiếng hô vang trên trời cao: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Lúc đó là thời điểm gì? Đó là Giờ Cứu Độ, là thời điểm cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm để xét xử nhân loại, là Giờ Công Lý, không còn Giờ Thương Xót nữa.
Thánh Vịnh diễn tả về Đức Mẹ là “Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Cả triều thần hát vang lời chúc tụng: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi được trực diện Thánh Nhan, gặp chính Thiên Chúa, người ta không còn cần bất kỳ thứ gì khác, vì niềm hạnh phúc quá lớn lao.
Và chính Hoàng Hậu cũng vậy, vì “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Người-được-gặp-Chúa không thể trì hoãn bày tỏ niềm hạnh phúc tuyệt vời, dù chỉ trong khoảnh khắc: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16]. Trên Núi Tabor, ba Tông đồ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) cũng đã từng được tận hưởng niềm hạnh phúc lâng lâng khôn tả, và các ông chẳng còn cần gì nữa (Mt 17:1-9; Mc 9:2-8; Lc 9:28-36).
…TỚI HIỆN THỰC
Đức Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai, đã bị giết chết nhưng cũng đã thực sự sống lại. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15:20). Tại sao vậy chứ? Thánh Phaolô giải thích: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:21-24). Rất rạch ròi, rõ ràng!
Quả thật là thế, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15:25), đó là “kẻ độc ác nhất”, và Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Bởi vì, theo Thánh Phaolô, “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận cao kiến của Nhà Tư Tưởng vĩ đại Phaolô rất mạch lạc, tuyệt vời, và dễ hiểu!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng đầy đủ: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Em Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Không thể chờ đợi lâu hơn, Chị Êlisabét liền reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:43-45).
Đức Mẹ trở thành người diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Vấn đề là chỗ đó, nhưng đức tin phải vững vàng chứ không thể tin cho có, tin cho vui, tin cho… giống người ta, tin để khỏi “lạc bầy”. Điều này nhắc chúng ta phải tự chấn chỉnh và chăm sóc đức tin của chính mình!
Niềm vui có sức lan tỏa, có khả năng nối kết. Vừa nghe Bà Chị Êlisabét “khen nức” như vậy, Đức Maria không thể kiềm chế niềm vui thánh đức, liền cất tiến ca ngợi Thiên Chúa bằng Bài Thánh Ca Magnificat (Lc 1:46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời vàng ngọc của Đức Mẹ chứa đầy sự khiêm nhường, niềm tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày trong giờ kinh Nhật Tụng.
Sau đó, “Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Đức Mẹ đi thăm người chị họ theo phép xã giao, thể hiện yêu thương, nhưng vấn đề chính là để “báo tin mừng”, muốn phục vụ bà chị đang thai nghén bé Gioan Tẩy Giả. Đức Mẹ không đi tu ngày nào, chẳng hề tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Một tấm gương chói ngời mà ai ai cũng phải “soi” vào – nhất là các giáo sĩ và tu sĩ.
Đức Maria tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”, nhưng Thiên Chúa đã biến Đức Mẹ thành một Phụ nữ cao trọng bậc nhất trong các loài thụ tạo. Khiêm nhường là nền món vững chắc của Tòa Nhà Đức Tin.
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một Thánh Mẫu hơn cả sự tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết phục vụ trong sự khiêm nhường và tình yêu thương. Lạy Hiền Mẫu của chúng con, xin dẫn chúng con theo Mẹ về trời bằng cách biết “xin vâng” như Mẹ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
——-
(*) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam