Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 68
Tổng truy cập: 1366083
VỊ KHÁCH QUYỀN NĂNG
LỜI CHÚA:
* Bài đọc1: Is.62:1-5: Người chồng sẽ vui mừng vì vợ.
* Bài đọc 2: 1Cr.12:4-11: Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người qui định.
* Phúc âm: Ga.2:1-12: Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo.
SUY NIỆM:
Một phụ nữ kể về việc trang trí nội thất của gia đình. Mọi việc trang hoàng đều được vợ chồng đồng ý. Bỗng một hôm chồng bà tự ý bảo người thợ treo ảnh Chúa Giêsu vào chỗ trang trọng nhất trong nhà. Bà không bằng lòng, cố hết sức thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn khăng khăng.
Đang lúc hai vợ chồng cãi nhau, bà sực nhớ lời Chúa Giêsu: “Ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác. Ta cũng sẽ nhìn nhận kẻ ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt.10:32).
Thế là bà chịu theo ý chồng. Và từ đó Chúa Giêsu luôn ban cho gia đình bà an vui hạnh phúc, đến nỗi một người bạn sau khi ngắm bức ảnh đã thốt lên: “Lúc nào tôi cũng thấy gia đình chị yên vui. Ấn tượng mạnh nhất tác động trên bạn bè khách khứa chúng tôi là mỗi khi nhìn lên ảnh Chúa Giêsu, tâm hồn chúng tôi luôn được nâng cao….”
Và bà đã kết luận: “Theo thiển ý tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà chắc bạn sẽ được biến đổi hoàn toàn”.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện cưới của đôi tân hôn. Họ biết mời Chúa , Đức Mẹ và các môn đệ vào nhà dự tiệc. Nhờ đó, qua sự lưu tâm chăm sóc cầu bầu đặc biệt của Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên tại Cana miền Galilê.
Lễ cưới là một lễ quan trọng thật sự cho mọi người trên khắp thế giới. Tại Palestine, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Đường đi càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Hồi đó vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng vui vẻ, quả thực là kỷ niệm vô cùng đặc biệt trong cuộc đời. Hòa với niềm vui con người, Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Tuy nhiên có vấn đề trục trặc xảy ra.
Trong bữa tiệc của người Do Thái, rất cần phải có rượu. Chính các thầy Do Thái cũng nói: “Không rượu thì không vui”. Đó không phải là vì người ta nghiện rượu. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều rất xấu hổ. Nhưng ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng: thiếu thức ăn, thức uống trong tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Hôm nay nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời cầu nguyện của Đức Mẹ xin Chúa Giêsu là lời cầu xin đầy khiêm tốn, nhất là Mẹ nhận lại lời đáp ứng dường như có vẻ cứng cỏi của Chúa Giêsu: “Thưa bà, chuyện đó có can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến”. Thế nhưng Đức Mẹ đã từ bỏ mình, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp nan giải của gia chủ. Cuối cùng, chẳng những do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua mọi thế hệ, Kinh Thánh được loan truyền cho mọi người thấy Chúa làm phép lạ là do lời Mẹ cầu bầu.
Bài suy niệm trên đây giúp chúng ta học được rất nhiều điều quí giá:
- Trước hết là sống với Đức Kitô: Như đôi tân hôn trong ngày đại lễ, họ đã đón nhận vị thượng khách đến nhà, chúng ta cũng hãy đồng hành với Đức Kitô trong mọi sự. Đón nhận Đức Kitô qua bí tích Thánh Thể, qua sự kết hợp thiêng liêng. Từ đó ánh quang phục sinh của Chúa sẽ lan tỏa trong mọi hành vi của cuộc sống thường nhật. Không những chúng ta mời Đức Kitô đến tham dự tiệc cưới mà còn mời Ngài tham dự bất cứ yến tiệc nào trong cuộc đời. Chúng ta mời Chúa đến chỉ huy mọi công trình vĩ đại đã vậy, mà còn mời Ngài giúp đỡ cả những công việc khác nữa. Chính Ngài sẽ hoàn hảo mọi sự trong ngoài cho đời sống chúng ta. Xưa kia Chúa cũng đã biến đổi các tâm hồn và thường làm phép lạ trong các gia đình: Người chữa bà mẹ vợ thánh Phêrô khỏi bệnh (Mc.1,31). Cho con gái ông Giairô sống lại (Mc. 5, 41). Chữa lành bệnh nhân nhà người biệt phái (Lc. 14,4). Chúa biến đổi anh thu thuế Giakêu (Lc. 24,30). Chúa mở mắt tâm hồn cho hai môn đệ làng Emmau v.v...
- Sau nữa chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ Maria. Nghĩa là phải cầu xin với lòng tin tưởng. Lịch sử ơn cứu độ đã chứng minh điều đó: Bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi; bởi đức tin đại quân ngoại bang phải rút lui; bởi đức tin thành Giêricô xụp đổ. Nhờ đức tin, mà người mù được sáng, què được đi, kẻ phung được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Đức Maria hôm nay tin vững chắc rằng: “Người bảo gì cứ làm theo”.
Tắt rằng, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện trong đời sống chúng ta qua những nỗi buồn vui sướng khổ. Đó là ân huệ ở tiệc cưới trần đời này và là hạnh phúc đời đời ở tiệc cưới đời sau trên thiên quốc. Có Chúa chúng ta không còn sợ hãi, không còn thiếu thốn, mà Ngài còn là con tầu êm ái đưa ta về quê trời.
40. Đức Maria quan tâm đến hạnh phúc của những đôi lứa--Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Người ta nghĩ rằng Chúa Giêsu dự tiệc cưới Cana là vì mẹ Người được mời đến, dường như vì có liên hệ thân thuộc với họ nhà trai hoặc nhà gái. Thần học thiêng liêng rút ra một kết luận ít nhất cũng phù hợp với kinh nghiệm của Giáo Hội: Việc Đức Maria can thiệp khiến cho nhiều tâm hồn mở rộng nghênh đón Chúa Giêsu. Danh từ ‘bà’ mà Chúa nói với mẹ Người là theo phép lịch sự Do thái thời đó, chẳng có gì đáng cho ta khó chịu. Trong bài tường thuật có hai yếu tố chính của lịch sử Chúa Giêsu: quyền năng của Chúa được Người sử dụng để biểu lộ lòng nhân hậu của Người. Chúa xen vào đời sống nhân loại hằng ngày, Chúa can thiệp vào những công việc tầm thường nhất của con người. Một số nhà phê bình nào đó cho rằng việc Chúa làm phép lạ là một việc rất khó xảy ra, Chúa đắn đo cân nhắc rất nhiều trước khi tỏ quyền uy của Người. Như vậy chúng ta thấy rằng về phương diện đạo đức con người có hai nhược điểm: dễ đi đến chỗ thái quá, sinh ra mê tín – hoặc trái lại, dễ sa vào thái độ thần thoại hoá. Chúng ta chấp nhận thiên ký sự tiệc cưới Cana như thể đón nhận ánh bình minh báo hiệu một ngày đẹp trời. Chúng ta mở mắt đón lấy nguồn sáng đang lên.
1) Từ phép lạ Cana trở đi, Chúa đến nơi nào là nơi ấy có một sự biến đổi, bao giờ cũng vậy. Đức Maria ở đâu, nếu lúc đó chưa có mặt Chúa thì chắc chắn Chúa đang trên đường tới đó. Chúng ta quan niệm đời sống Kitô giáo không như một hệ tư tưởng áp dụng cho thế giới, nhưng là một sự nghênh đón Chúa Kitô đến với chúng ta, cho nên bao giờ chúng ta cũng có lý do mời Đức Maria (Mẹ chúng ta) đến chung vui hoặc chia sẻ lo âu với chúng ta. Thế là mau mau Chúa cũng sẽ đến. Mặt khác, Chúa làm gì trong tiệc cưới? Chúa biến đổi nước thành rượu. Nước là chất tượng trưng cho thực tại thường nhất của đời sống chúng ta. Sự hiện diện của Chúa Kitô trong đời sống của một người tầm thường làm biến đổi, thần hoá đời sống ấy. Ở đây rượu tượng trưng cho mạch nhựa lưu thông trong cây nho và cành nho, tức là ân huệ đời sống thần linh do Chúa Kitô ban cho.
2) Phép lạ Cana xảy ra giữa một tiệc cưới. Những bậc giáo phụ (là những tác giả thời khởi thuỷ đã đóng góp thành lập kho tàng truyền khẩu trong Giáo Hội) từng nghĩ rằng chính sự kiện Chúa dự đám cưới Cana nâng phép hôn phối Kitô giáo (trong đó Chúa hiện diện) lên hàng một bí tích. Dẫu sao, Chúa đã tới chung vui với đôi tân hôn trẻ tuổi. Chắc chắn lúc đó Chúa thấy rõ điều mà Thần Trí Chúa sau này sẽ mặc khải cho Giáo Hội của Người: Chúa, vị tân lang của Giáo Hội, Chúa muốn cho Giáo Hội có hạnh phúc. Đối với Giáo Hội, quyền năng thần kỳ của Chúa vô hình, thường không lộ ra bên ngoài, nhưng có thật: Chúa can thiệp, xen vào đời sống nhân loại hằng ngày của người Kitô hữu, thành phần của Giáo Hội. Sự hiện diện của Chúa là một sự thật, đòi hỏi người ta dâng lời cảm tạ trong niềm vui sướng cao độ nhất.
41. Ðức Giêsu, Ðấng đem lại niềm vui cho dân người
Suốt 4000 năm, dân Do Thái đợi trông Ðức Chúa viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Tuy Chúa đã gởi nhiều sứ giả của Ngài đến hướng dẫn dân như Môsê và các tiên tri, nhưng những vị ấy không thể làm thoả mãn lòng khát mong sâu xa của dân, dân chúng tin vào lời hứa Messia, người là Ðấng muôn dân trông đợi.
Trong bài đọc I, qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa ban cho Israel Ðấng Cứu Ðộ, Ngài đến như ngọc đuốc sáng ngời, mọi vua và mọi dân nước sẽ thấy vinh quang của dân Người. Từ Israel, vinh quang của Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa ra các dân tộc, Israel sẽ được gọi là kẻ được Thiên Chúa sủng ái.
Những điều Isaia nói trong Cựu Ước hôm nay đã ứng nghiệm. Ðức Giêsu, Ðấng cứu chuộc Israel đã đến. Ngài đem niềm vui cứu độ cho dân Người. Việc Ngài làm phép lạ hóa nước thành rượu trong tiệc cưới Cana cũng là một dấu chỉ Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại niềm vui hoan hỉ nhờ Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài là Đấng đem lại niềm vui, niềm hy vọng cho dân đang ngồi trong bóng tối sự chết. Ngài đến để vực dậy sự sống của con người vốn đang bị Satan vây bủa và phá hoại. Ðó cũng là điều Chúa Cha muốn Con mình thực hiện để các môn đệ và mọi người biết Ngài là ai và tin cậy vào ngài.
Trong phép lạ này, chúng ta thấy có sự hiện diện và can thiệp của Đức Mẹ. Nhờ Mẹ nói với Chúa Giêsu về tình trạng thiếu rượu của gia chủ mà Chúa Giêsu đã ra tay can thiệp. Tuy nhiên, đây cũng là điều đẹp lòng Chúa Cha và nằm trong chương trình của thiên chúa. Chúa Giêsu hiểu đựơc ý Cha và cũng tỏ cho Mẹ Maria biết là giờ cứu chuộc, giờ Ngài chịu nạn chịu chết đền thay vì tội lỗi nhân loại và sống lại vinh quang chưa đến. Tuy nhiên, Ngài sẽ thực hiện việc cứu chuộc muôn dân, sẽ đến giờ mà ma quỉ và sự chết phải đại bại hoàn toàn. Đó là lúc loài người được giao hòa với thiên chúa, và cửa Thiên đàng mở ra cho người lành được vào hưởng vinh phúc.
Xưa kia bà Evà đã đưa sự chết vào thế gian thì hôm nay, nhờ Bà Evà mới là Mẹ Maria, Ðức Giêsu sẽ cứu thế gian khỏi quyền lực ma quỉ và sự chết. Chắc chắn như vậy vì Ngài là Ðấng quyền phép vô cùng. Ngài có thể biến nước lã, chỉ dùng vào việc tắm rửa trở nên rượu ngon hảo hạng cho con người được hưởng dùng hỉ hoan, thì Người cũng sẽ làm cho dân tộc Do Thái cũng như tất cả chúng ta từ bất xứng, từ những kẻ tội lỗi trở nên xứng đáng, nên những vị thánh nhờ công nghiệp cứu chuộc của Ngài.
Chúa Giêsu rất yêu thương chúng ta đến độ sẵn sàng hy sinh chính mình Ngài vì phần rỗi của chúng ta. Chúa Cha có một người con duy nhất mà cũng sẵn sàng ban cho loài người để Người đổ hết máu mình ra rửa sạch tội lỗi nhân loại. Chúng ta tin chắc sẽ rằng: Ai tin vào Chúa Giêsu thì sẽ không phải hư mất, sẽ không mất niềm hy vọng nhưng sẽ được niềm vui hoan lạc, được uống rượu vui mừng trong Nước Chúa.
Hôm nay, chúng ta đã biết Chúa Giêsu là Ađam mới, Ngài đến để chuộc lại tội lỗi của Ađam xưa, để giải thoát con người khỏi án tội nguyên tổ. Vậy chúng ta đã nghe lời Người dạy bảo trong Phúc Âm, đã tuân giữ giới răn Người truyền ban, đã sống gắn bó với Người, đã đi theo Người trọn vẹn chưa?
Nếu chúng ta tin cậy nơi Chúa thì bao nhiêu việc làm của chúng ta dù nhỏ bé nhưng nếu chúng ta biết làm hết sức mình với lòng chân thành yêu mến Chúa thì sẽ được Chúa biến đổi thành công phúc lớn lao, thành rượu hoan lạc cho chúng ta trong Nước Trời mai sau.
42. Giao ước mới của sự phong phú--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Hai người bạn trẻ cử hành đám cưới tại Cana, họ là những người vô danh nhưng đã trở nên bất tử trong Phúc Âm bởi vì Chúa Giêsu là khác trong đám cưới của họ. Bất cứ cặp hôn phối nào cũng ghen tỵ với họ. Câu chuyện này được kể bởi thánh Gioan đã được tuyên bố với chúng ta trong lễ nghi phụng vụ, có một ý nghĩa rộng lớn hơn là sự hợp nhất của một người nam và một người nữ Do Thái vào hai mươi thế kỷ trước.
Bài đọc thứ I ngày hôm nay của tiên tri Isaia đã dọn sẵn cho chúng ta ý nghĩa rộng lớn hơn này. Bài đó được đặt nền tảng trên hình ảnh yêu thích của Thiên Chúa trong Cựu Ước như là vị hôn phu của dân Người. Vị tiên tri nói: “Như một thanh niên kết hôn với một trinh nữ, Đấng sáng tạo ngươi sẽ kết hôn với ngươi, như là một chú rể vui hưởng nơi cô dâu thì Thiên Chúa của các ngươi sẽ vui hưởng nơi các ngươi”. Câu chuyện Cana đã nhắc lại hình ảnh này là biểu tượng tỏ hiện Giao Ước mới và đời đời giữa Chúa và dân của Người.
Hôn nhân của xã hội ngày hôm nay được xem như là một hợp đồng mà nó được trói buộc bởi luật. Theo cái nhìn của Thiên Chúa, hôn nhân là một Giao Ước mà nó được trói buộc bởi tình yêu, sắp xếp của Phúc Âm ngày hôm nay làm cho chúng ta nghĩ rằng Giao Ước của Thiên Chúa với chúng ta là một Giao Ước của tình yêu trung thành giống như của những đôi vợ chồng dâng hiến cho nhau.
Chi tiết của câu chuyện Phúc Âm tỏ lộ cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa thì quảng đại và phong nhiêu. Gần đó có sáu chum đá, mỗi chum chứa được mười lăm đến hai mươi lăm thùng nước khoảng sáu trăm lít. Chúa Giêsu đã hướng dẫn cho những người giúp việc đổ nước đầy tới miệng. Cana là một thành phố nhỏ, có lẽ đó chỉ có khoảng năm mươi khách bao gồm cả môn đệ của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, những người khách không những đã có đủ uống mà còn dư thừa, vì tới gần sáu trăm lít rượu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu giống như thế. Theo Thần học, Cana có quan hệ với lễ Hiển Linh. Ý nghĩa của lễ Hiển Linh là dân ngoại cũng như dân Do Thái đều được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu đủ để bao gồm tất cả mọi người trong Giao Ước mới của Người.
Rượu mới ở Cana không chỉ phong nhiêu mà nó còn tuyệt hảo nữa. Người quản tiệc sau khi nếm rượu đã nói với chú rể: “Anh đã giữ rượu ngon cho tới giờ này?” Thiên Chúa cũng sẽ giữ rượu ngon cho chúng ta trong kỷ nguyện Kitô giáo một loại rượu ngon và phong phú trong Giao Ước mới của Người.
Sự hiệp nhất thật sự của Thiên Chúa và dân Người đã chờ đợi khoảnh khắc ở bên kia tiệc cưới Cana. Do lời khẩn cầu của Mẹ Maria khiến Chúa Giêsu bắt tay vào những biến cố đời sống công khai của Ngài, giờ của mầu nhiệm Vượt Qua và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu đã mở rộng vòng tay của Ngài trên thánh giá để âu yếm chúng ta bằng một tình yêu phong phú và quảng đại, tình yêu ấy lớn đủ để bao gồm toàn thể nhân loại. Đó là khoảnh khắc sự hiệp nhất của chúng ta.
Chúng ta đổi mới quan hệ tình yêu của chúng ta khi cử hành Thánh Thể. Tại Cana Chúa Giêsu chuyển đổi nước thành rượu. Trong khi cử hành Thánh Lễ Người đã biến bánh và rượu thành Thịt và Máu Người như để tưởng nhớ lại sự chết và sự Phục Sinh của Người. Trong tiếng đọc của Linh mục chúng ta nghe những lời của Đức Kitô: “Đây là chén Máu Ta, Máu Giao Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người…”.
Kể từ ngày đẹp trời ấy tại Cana, mỗi tiệc cưới sẽ nhắc nhở chúng ta về tình yêu phong nhiêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và mỗi đôi hôn phối sẽ làm cho chúng ta nghĩ đến sự trung thành của Thiên Chúa. Trên hết, chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành là một Giao Ước mới, là sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa và những người khác trong Giáo Hội.
43. Hãy mời Chúa vào nhà--‘Niềm Vui Chia Sẻ
Cách đây ít lâu, có một bài báo thú vị của một phụ nữ kể lại việc trang hoàng nhà cửa của gia đình bà. Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo bức hình Chúa Giêsu kích thước khoảng: 40x50 cm vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời Chúa Giêsu: “Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe theo ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói rằng bà rất vui đã nghe theo ý chồng vì bà nghĩ rằng bức hình Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa nữa. Chẳng bạn ngày nọ có người khách lạ sau khi chăm chú nhìn vào bức hình liền nói với bà: “Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức hình đó không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!”. Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức hình cũng thốt lên: “Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an”. Tuy nhiên, -người phụ nữ nói thêm – ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên bạn bè khách khứa của tôi là mỗi khi nhìn tấm hình Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên cao.
Cuối cùng, người phụ nữ nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà tâm sự: “Theo ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa”.
Thưa anh chị em,
Đôi tân hôn trẻ trong Tin Mừng hôm nay hẳn đồng ý với người phụ nữ trên. Họ đã mời Chúa Giêsu vào nhà họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên ở đó khi họ thiếu rượu. Nhờ phép lạ hóa nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu đã cứu vãn tình thế lúng túng của nhà đám và đem lại niềm vui tràn đầy cho mọi người.
Thực tế mà nói, mỗi cặp vợ chồng thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm… và đôi khi thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Bạn hết tiền, bạn không có việc làm, bạn thiếu sức khỏe… bạn hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, bạn sẽ được giúp đỡ những gì bạn cần để hôn nhân bạn hạnh phúc hơn. Bạn phải làm phần của bạn: bạn phải làm việc nhiều hơn, hy sinh nhiều hơn, suy tín nhiều hơn. Giả sử hôn nhân của bạn điêu đứng vì thiếu kiên nhẫn, bạn hãy bàn hỏi, lập kế hoạch để bạn có thể kiên nhẫn làm sao và khi nào? Rồi – đây là điều quan trọng – bạn hãy xin Chúa Giêsu giúp bạn kiên nhẫn. Bạn thiếu hụt tài chánh ư? Bạn lập kế hoạch làm sổ chi tiêu. Rồi – đây là điều quạn trọng thứ nhất – bạn xin Chúa Giêsu giúp bạn đủ chi tiêu.
Sự sai lầm của các cặp vợ chồng là đã không xin Chúa giúp giải quyết các vấn đề. Đức Cha Tihamer Toth đã hỏi các bạn trẻ: “Các bạn có biết cái tội đầu tiên mà đôi bạn Công giáo đã phạm không? Và Ngài đã trả lời: đó là khi làm đám cưới, các bạn đã mời tất cả, nào là bà con, bạn hữu, phụ dâu, phụ rể, cả thợ trang điểm, thợ may, mời luôn dàn nhạc, mời hết chỉ trừ Chúa Giêsu là không có trong danh sách được mời. Đó là cái tội đầu tiên của đôi tân hôn. Và cái tội đầu tiên nầy là khởi điểm của một cuộc phiêu lưu dẫn đôi bạn trẻ vào một con đường vô định, một con đường đầy bóng tối…”.
Một em bé gái mới lên năm, vừa cùng mẹ đọc kinh trước khi ăn cơm. Mẹ em thường ứng khẩu những lời kinh nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy nên vị khách quý của bữa cơm hôm nay”. Bà cầu nguyện chưa xong, thì bỗng em bé nhìn mẹ và nói: “Nhưng thưa mẹ, con không muốn Chúa Giêsu làm người khách của chúng ta”. Bà mẹ hoảng hốt hỏi lại: “Tại sao lại thế”?. Em bé trả lời: “Vâng, thưa mẹ, là người khác, Chúa chỉ đến một vài lần thôi. Con muốn Chúa Giêsu đến đây và ở lại luôn mãi với chúng ta” (Knight).
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu phải có mặt trong đám cưới của anh chị em, Chúa Giêsu phải là một phần tử của gia đình anh chị em. Ngài sẵn sàng giúp đỡ. Ngài đang chờ anh chị em xin Ngài, như Đức Maria đã làm tại Cana. Tốt nhất anh chị em hãy cầu xin qua Đức Maria những gì anh chị em cần trong đời sống hôn nhân, gia đình của anh chị em. Như vậy sẽ không có gì thiếu nữa.
Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế nầy: “Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng”. Phải, đời sống hôn nhân gia đình đâu phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện diện của Chúa, không có Đức Mẹ, vợ chồng khó lòng trung thành với nhau trọn tình vẹn nghĩa thủy chung được, nhất là những khi thiếu rượu nồng tình yêu.
Thiên Chúa nhập thể đã làm đám cưới với nhân loại, vì yêu thương nhân loại, để nhân loại bắt tay nhau. Động cơ của hợp nhất, đầu mối của hạnh phúc lứa đôi là tình thương yêu. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Đã là bất bình thường thì mọi người phải tìm cách giàn xếp để cùng nhau trở lại tình trạng bình thường là yêu thương nhau, hiêp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong đời sống hôn nhân và gia đình, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con. Xin chúc lành cho cánh cửa nhà chúng con. Ước chi những cánh cửa nầy luôn biết mở ra cho kẻ tha phương và người hiu quạnh. Xin chúc lành cho phòng ốc gia đình chúng con, để chúng tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở cho những kẻ nghèo khó, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen.
44. Giêsu, niềm vui mới
Tâm lý chung của con người mọi thời là sợ buồn, sợ khổ, sợ bệnh tật, sợ chết v.v thế nên Đức Phật nhìn đời một cách thật bi quan mà thốt lên "đời là bể khổ". Vì thế nên ngài đưa ra nhiều phương cách để diệt khổ, hầu mong có được sự bình an, niềm vui, hạnh phúc ngay tại cuộc sống trần gian này. Nhưng thực tế con người có diệt được khổ, diệt được nỗi buồn, thoát cái chết không? Thưa con người vùng vẫy và bất lực trước buồn khổ.
Bài tin mừng hôm nay, thánh Gioan cho chúng ta thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ tại tiệc cưới Cana. Để có sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ, tôi thiết tưởng rằng gia chủ hay đôi tân hôn phải gởi những tấm thiệp đến hoặc cho người đi mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Vâng!Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ là niềm vui và là vinh dự cho gia chủ cũng như cho đôi tân hôn vì Chúa Giêsu và Đức Mẹ không làm phụ lòng gia chủ. Niềm vui, niềm vinh dự đó không chỉ thông thường như các đám cưới khác, mà chính nơi tiệc cưới này Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên trong sứ vụ rao giảng công khai của Ngài.
Theo phong tục của người Do Thái, đám cưới phải được tổ chức kéo dài trong bảy ngày thì niềm vui ngày thành hôn mới được trọn vẹn. Nhưng đám cưới tại Cana này thực khách đang vui vẻ chén anh chén tôi bước sang ngày thứ ba thì đã hết rượu, đám cưới mà hết rượu thì còn gì là vui nữa. Hiển nhiên thực khách sẽ lần lược ra về hết. Đây là sự mất mặt của gia chủ đối với thực khách, vì đám cưới mà lại không chuẩn bị chu đáo, một nỗi buồn ập đến cho gia chủ và đôi tân hôn. Gia chủ rất bối rối và không kém phần lo lắng...
Trong những thực khách dự tiệc ngày đó, có một người rất tinh tế thấy được sự bối rối của gia chủ đó là Mẹ Maria. Nếu Mẹ Maria cứ ngồi ăn như những thực khách khác thì làm sao Mẹ thấy được nỗi lo lắng của gia chủ. Chắc là Mẹ vào phụ giúp dưới bếp hay cũng quan sát lắm mới thấy được điều đó. Mẹ đã hiểu được hoàn cảnh éo le mà gia chủ gặp phải, và Mẹ đã đi bước trước lời ngỏ ý của gia chủ. Vâng! Một khi hai người thân nhau lắm mới hiểu được khả năng của nhau. Mẹ kết hợp mật thiết với Con của Mẹ, nên mẹ hiểu con Mẹ, Mẹ tin tưởng Con của Mẹ có thể giúp được cho gia chủ, vì thế Mẹ đã ý nhị ngỏ lời với Con của Mẹ "họ hết rượu rồi", chỉ một lời nói nhỏ ngỏ ý với Con mà phép lạ đã được thực hiện sáu chum nước lã hoá thành sáu chum rượu ngon. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đem lại niềm vui mới không chỉ cho gia chủ mà cho hết mọi thực khách dự tiệc ngày đó, đến nỗi họ phải thốt lên với tân lang: "ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàn hơn, còn anh lại giữ rượu ngon đến bây giờ". Sự hiện diện của Chúa Giêsu thật sự đem lại niềm vui trọn vẹn, niềm vui mới khác hẳn niềm vui ban đầu.
Tương tự trong đời sống của ta cũng thế, nhiều khi gặp bất ổn là do "sắp hết rượu hay là đã hết rượu" rồi.Tại vì chúng ta không biết mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ đến dự tiệc cuộc đời với chúng ta. Chúng ta cứ lo chạy tìm hay mời những người khách chóng qua như: hưởng thụ, khoái lạc, danh vọng, tiền bạc... mà quên mời những vị khách đem lại niềm vui đời đời cho chúng ta. Vậy chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không vội viết những tấm thiệp để mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ đến với chúng ta, và chúng ta hãy mở lòng ra thố lộ những khó khăn chúng ta đang gặp để Đức Mẹ cũng ngỏ ý với Chúa Giêsu như tại tiệc cưới Cana "họ hết rượu rồi, họ đang buồn chán, họ đang gặp khó khăn, họ đang mất bình an đó" vì chính Mẹ là trạng sư của chúng ta mà. Và như thế tôi tin rằng Chúa Giêsu cũng sẽ thực hiện những phép lạ tỏ tường trong đời sống chúng ta. Chỉ nơi Chúa Giêsu mới có sự bình an và niềm vui viên mãn.
Người ta kể lại câu chuyện như sau: Có một tu viện nọ, các thầy sống chung với nhau mà luôn cải cọ, ganh ghét, nói xấu chỉ trích nhau làm gương xấu cho cả vùng đó. Vì thế không còn ai muốn lui tới tu viẹân nữa. Thầy bề trên thấy tình cảnh như thế rất đau buồn nhưng không biết cách làm sao giải quyết.
Thế là một hôm thầy bề trên quyết định tìm đến một vị ẩn sĩ để tâm sự về những tình trạng xấu trong dòng mong tìm ra cách giải quyết. Vị ẩn sĩ trầm ngâm nghe những lời tâm tình của thầy bề trên rồi nói: Thầy hãy về nói lại với anh em trong dòng rằng "Có Chúa Giêsu đang cải trang thành một thầy đang sống cùng chúng ta". Thầy bề trên về tập hợp các anh em trong dòng nói "có Chúa Giêsu đang cải trang thành một người trong anh em chúng ta".Vậy anh em phải sống thế nào để không đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Từ ngày đó thầy này nghĩ thầy kia là Chúa Giêsu nên không còn dám xúc phạm nữa. Vì thế các thầy thay đổi cách đối xử với nhau, sự bình an, yêu thương đã trở lại trong tu viện. Từ sự yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ của các thầy người ta thấy được niềm vui và sự bình an. Thế là người ta lại kéo nhau đến tu viện để tìm sự bình an đông hơn trước.
Cũng thế, nếu thật sự chúng ta để Chúa Giêsu bước vào trong đời sống chúng ta thì sẽ không còn buồn chán, thất vọng, ganh ghét, chỉ trích nhau xảy ra. Chúng ta hãy hỏi Chúa Giêsu coi nếu Chúa là con trong hoàn cảnh này, sự việc này thì Chúa làm gì? Chắc chắn lúc đó chúng ta sẽ có những hành động như Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dành cho Chúa một chỗ quan trọng trong ta thì Chúa sẽ lo liệu cho chúng ta tất cả, chúng ta không cần chạy lung tung mà tìm những niềm vui ảo. Niềm vui chóng qua ấy sẽ dẫn chúng ta đến sự chết đời đời. Vậy thì chúng ta hãy khôn ngoan mà chọn lựa theo Chúa nguồn hạnh phúc đích thật hay theo những thứ ảo chóng qua. Chúa luôn chờ đợi mỗi người chúng ta mời Ngài bước vào cuộc sống chúng ta, vì một khi Chúa đến sẽ có những thay đổi trong cuộc đời chúng ta như nước lã biến thành rượu ngon vậy.
Lạy Chúa Giêsu xin hãy mau đến mang sự bình an, niềm vui mới cho mọi người chúng con. Amen.
45. Cana – McCarthy--‘Phụng Vụ Chúa Nhật – Chúa Nhật và Lễ Trọng’
Suy Niệm 1. KHI NGƯỜI TA THIẾU RƯỢU
Điều đã xảy ra ở tiệc cưới Cana sớm muộn gì cũng xảy ra trong mỗi cuộc hôn nhân – người ta thiếu rượu. Qua đó chúng ta muốn nói điều gì? Một cuộc hôn nhân mẫu mực bắt đầu bằng một bữa tiệc vui và nồng nhiệt. Đôi tân hôn được bạn hữu vây quanh và những người đến mừng cùng với quà cưới không ngớt lời chúc tụng họ. Hy vọng và mơ ước tràn đầy, họ lên kế hoạch cho tuần trăng mật. Rượu uống thỏa thuê.
Rồi sau tuần trăng mật họ trở về và công việc làm ăn thật sự bắt đầu – sắp xếp nhà cửa và học cách sống chung với một người khác. Lúc ban đầu họ tìm thấy niềm vui to lớn được sống bên nhau. Họ tin rằng tình yêu của họ đã được tiền định trên trời và có ý nghĩa là sẽ kéo dài muôn thuở. Rượu vẫn còn dồi dào.
Nhưng khi con người ở cận kề với một người khác, sẽ có những vấn đề nảy sinh. Căng thẳng xuất hiện. Họ khám phá rằng họ đã không cưới một thiên thần, nhưng một con người đã bị tội lỗi và vị kỷ làm tổn thương. Họ ngạc nhiên về sự nghèo nàn mà họ khám phá nơi người kia. Tuần trăng mật đã hết. Người ta thiếu rượu. Tất cả những gì còn lại là “nước” của một tiềm năng còm cõi.
Những sự việc như thế cũng xảy ra trong chuyên môn, nghề nghiệp và cả trong những ơn gọi như đời sống linh mục hoặc đời sống tu trì. Ở đây cũng hết rượu. Niềm vui, còn lại là nước của thói quen, của sự tẻ nhạt và có thể là sự vỡ mộng. Nhưng chúng ta hãy trở lại với vấn đề hôn nhân.
Giờ đây rượu ban đầu đã cạn, họ phải làm gì? Có những người bị cám dỗ “cạn” theo với rượu: “Không còn gì cho tôi nữa”. Thái độ này tưởng chừng có lý nhưng nó bao hàm một tính vị kỷ đáng sợ. Đối với những con người như thế, hôn nhân chỉ là một sự liên kết của hai con người vị kỷ vì thế, trong lúc họ lợi dụng lẫn nhau, họ bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác những hoa quả mà người ta có thể hái và ăn mà không vất vả và bỏ công sức.
Nhưng một cặp vợ chồng phải làm gì? Họ phải biết rằng rượu ban đầu đã cạn. Trong một lúc, họ phải tìm cách xoay xở với nước. Nhưng họ không nên sợ hãi hay thất vọng khi điều đó xảy ra. Họ phải chống trả cơn cám dỗ bỏ rơi mối tương quan và đánh mất chính mình trong một nghề nghiệp hoặc một đời sống xã hội cuồng nhiệt. Điều họ phải làm là phải nỗ lực cải thiện tương quan giữa họ qua đó, họ có thể trưởng thành như những con người khám phá ý nghĩa thật sự của tình yêu. Khủng hoảng ấy có thể trở thành một cơ hội.
Và đây là một điều làm người ta ngạc nhiên: rượu ban đầu cần phải cạn. Nếu không rượu mới không thể đến được tình yêu lúc ban đầu cho dù đẹp và lãng mạn không thể kéo dài được. Chắc chắn nó phải trôi qua. Nhưng trôi qua không phải là một điều xấu. Thật vậy, nó phải trôi qua để một tình yêu mới mẻ và sâu đậm hơn được sinh ra. Tình yêu mới này chủ yếu là đặt người khác đứng trước mình. Người ta phải quên chính mình và tìm thấy niềm vui khi mình yêu thương hơn là khi mình được yêu thương, khi mình cho hơn là khi mình nhận.
Tình yêu là một cuộc phiêu lưu khó khăn. Bước vào hôn nhân là bước vào một trường học tình yêu ở đó mọi người đều là những học viên chậm chạp. Chính vì thế, chúng ta cần có sự hiện diện của Đức Kitô.
Rượu mới không chỉ có ý nghĩa đối với cặp hôn phối mà còn có ý nghĩa đối với mọi người. Điều này có nghĩa là chúng ta phải thay đổi. Đức Kitô phải cảm hóa tâm hồn chúng ta và giúp đỡ chúng ta yêu thương vô vị lợi. Đối với những người tìm kiếm sự giúp đỡ của Người thì phép lạ Cana vẫn còn xảy ra – nước của lòng vị kỷ được biến đổi thành rượu của tình yêu chân chính. Và điều kỳ lạ là rượu nho mới lại ngon hơn rượu nho cũ.
Suy Niệm 2. MỘT KIỂU MẪU CỦA SỨ VỤ
Thánh Gioan mô tả Đức Maria như người đã tham gia vào lúc Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ của Người (ở Cana), và rồi vào cuối sứ vụ ấy (trên núi Canvariô). Vì thế Đức Maria liên kết với toàn bộ sứ vụ của Người. Người ta chỉ cần nhìn vào Tin Mừng để thấy rằng Mẹ luôn có mặt vào những lúc quan trọng của cuộc đời Người.
Trong lúc Truyền Tin, sứ thần hỏi Mẹ có muốn trở thành Mẹ của Đấng Cứu Chuộc không. Mẹ đã dẹp qua một bên những dự tính của Mẹ và đáp lại đề nghị của Thiên Chúa bằng tiếng “xin vâng” quảng đại. Một đôi khi tác vụ có ý nghĩa là sẵn sàng đặt những kế hoạch của chúng ta qua một bên và đáp lại lời kêu gọi bằng cách giúp đỡ một tay.
Trong lúc đi Thăm Viếng, Mẹ chủ động có sáng kiến. Khi nghe bà Elizabeth, một bà chị họ lớn tuổi đang chờ ngày sinh con, Mẹ đã thăm viếng bà, ở lại với bà cho đến khi đứa bé được sinh ra. Tác vụ một đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến, khi nhìn thấy một nhu cầu và khi đáp ứng nhu cầu đó.
Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại. Có những lúc, tác vụ có nghĩa là nhận ra một nhu cầu và biết rằng chúng ta không thể xử lý một mình.
Vì thế chúng ta cần đưa đến cho những người khác. Nhưng, không phải là đổ trách nhiệm cho người khác.
Trong suốt đời sống công khai, Đức Giêsu luôn được đám đông vây quanh. Đức Maria không biết Người ra sao. Mẹ sợ người ta bắt Người đi. Là một bà mẹ, Mẹ cảm thấy bắt buộc phải giải cứu. Mẹ đã hiểu sai hoàn cảnh. Người luôn chủ động. Người có một việc phải làm và có thể tự mình xử lý. Tác vụ có thể gồm cả việc phạm sai lầm và cảm nghiêm bị sai hỏng, thất bại. Nhưng điều đó không do thiếu quan tâm mà do thiếu hiểu biết.
Trên Núi Canvariô, Đức Maria đứng dưới chân thập giá nhìn Đức Giêsu chết. Dù Mẹ rất muốn cứu Người, nhưng một cách tuyệt vọng, Mẹ không có khả năng làm được điều đó. Một đôi khi trong tác vụ, chúng ta không thể làm được điều gì. Vì thế tác vụ của chúng ta giống như Đức Maria đứng dưới chân thập giá. Một sự hiện diện thinh lặng chịu đựng. Và sự hiện diện chịu đựng và trấn an là cả một thế giới cho người đau khổ. Nó cứu người ấy khỏi viễn cảnh đau buồn phải chết một mình và bị bỏ rơi.
Dù chỉ là những cái nhìn thoáng qua. Nhưng một hình ảnh nổi bật của Đức Maria là một người ân cần tận tuỵ. Trên nhiều phương diện, một bà mẹ điển hình. Đức Maria là một kiểu mẫu của tác vụ. Nhưng vai trò của Mẹ phải luôn luôn được nhìn trong tương quan với vai trò của Con Mẹ. Vai trò của Mẹ giờ đây là vai trò của một người mẹ chăm sóc cho những người đi theo Đức Giêsu.
Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều ở trong tác vụ: đối với những người khác, hoặc ở trong gia đình, hoặc trong một cộng đoàn rộng lớn hơn. Ngay cả công việc chúng ta làm cũng có thể được coi như một tác vụ và một phục vụ. Torng lúc các bà dường như có ơn đặc biệt hơn, tất cả chúng ta đều có khả năng làm tác vụ.
Tác vụ phải có nghĩa là ban tặng những sự vật (như ở tiệc cưới Cana), nhưng thường là sẵn sàng ban tặng chính mình. Chúng ta phải sẵn sàng đón nhận thất vọng, hiểu lầm, thất bại, sự bất lực. Nhưng điều duy nhất chúng ta phải sợ là sự thờ ơ. Những kỹ năng đặc biệt không cần thiết. Vào cuối mỗi ngày, cái còn đọng lại là tình yêu thương. Tác vụ là một sự biểu lộ của tình yêu.
Trong tác vụ, điều chúng ta làm giống việc làm của các gia nhân ở tiệc cưới Cana. Họ chỉ là những người thừa hánh của Đức Giêsu. Họ múc nước đã hoá thành rượu và đem đến cho khách dự tiệc. Kể từ đó, những thừa tác viên của Đức Kitô đã rút ra từ cùng một suối nguồn. Họ chia sẻ những ơn lành của Đức Giêsu cho Giáo Hội người và cho thế giới. Từ sự viên mãn của Người, chúng ta tiếp tục đón nhận và chia sẻ.
46. “Ngài có bảo gì, hãy làm theo!”--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Sở dĩ gọi Cana trong miền Galilê là để phân biệt với Cana miền Coelo-Syria. Đây là một làng rất gần Nadaret. Thánh Hiêrônimô, người từng ở Palestine bảo rằng, từ Nadaret ông có thể nhìn thấy Cana. Tại đó đang có một đám cưới, Đức Maria được mời đến dự và giữ một vai trò đặc biệt, chắc liên quan đến việc tổ chức nên bà đã tỏ ra lo lắng khi thấy thiếu rượu. Bà cũng có đủ quyền để ra lệnh cho đầy tớ làm bất cứ điều gì Chúa bảo.
Tại xứ Palestine, lễ cưới là một cơ hội thật sự quan trọng. Theo luật Do thái, lễ cưới của một trinh nữ phải tổ chức vào ngày thứ tư. Điều này rất thú vị, vì nó cho chúng ta căn cứ để tính lui lại: nếu đám cưới nhằm ngày thứ Tư, thì ngày Chúa Giêsu gặp Anrê và Gioan lần đầu tiên phải là ngày sa-bát, và cả hai đều ở với Ngài trọn ngày đó. Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Họ được đưa theo con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Tại Palestine vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu, và lời nói của họ là luật. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Nhưng đã có trục trặc xảy ra.
Trong đám tiệc của người Do thái, rất cần rượu. Các Rabi vẫn nói: “Không rượu thì không vui”. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng bên Đông phương món rượu thật quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn, thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Vì thế Đức Maria đã báo cho Chúa Giêsu biết sự việc này. Mà Chúa Giêsu đã bày tỏ quyền năng của Ngài để cứu gia đình mộc mạc này khỏi bị tổn thương nhục nhã. Ngài đã hành động vì lòng ưu ái, tử tế, thông cảm với những người mộc mạc đơn sơ.
Câu chuyện đã được kể lại cách sống động nên rõ ràng phải là do người đã chứng kiến tận mắt ghi lại, nhưng không phải là ghi lại ngay sau khi xảy ra mà là bảy mươi năm sau, và cũng ghi lại tác dụng của phép lạ ấy: “Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana và bày tỏ vinh quang của Người.” Chúa làm phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người. Chúng ta cố gắng tìm biết các nguyên tắc bày tỏ tỏ vinh quang này.
- Bước đường cùng khiến người ta quay về với Chúa, cung cấp dịp tiện cho Người hành động, ân huệ của Chúa được ban cho ai thành khẩn kêu cầu Ngài. Dầu có người chê cầu nguyện là mê tín, hay bình thường thì chẳng bao giờ cầu nguyện, nhưng một khi đã lâm vào cảnh khốn cùng, chẳng ai không ngước mắt lên trời mà kêu cầu.
- Đức Maria là người thân trong gia đình này, được mới tới dự tiệc cưới, khi thấy rượu đã hết, biết ngay chủ nhà sẽ rất bối rối, sẽ bị bẽ mặt, và các thực khách sẽ mất vui. Không kể đến địa vị làm mẹ, đến với Đức Giêsu mà cầu khẩn: “Họ hết rượu rồi.” Làm mẹ, mà hạ mình cầu cứu con, không phải dễ lắm đâu. Đàng khác chưa biết ý Chúa ra sao, đường đột đưa ra một lời cầu như vậy mà không thăm dò trước có khi rước lấy tai họa. Thế nhưng đến nước này, nếu không kêu cầu Chúa thì còn biết trông cậy vào ai nữa!
Lời cầu nguyện của Đức Maria bị thôi thúc vì hoàn cảnh mà Mẹ đảm trách lấy, là kiểu mẫu cho những lời cầu bầu của chúng ta.
Vì chúng ta thấy lời cầu của Đức Maria là lời cầu “Ý Cha thực hiện” vì Ngài chỉ nói: “Họ hết rượu rồi” chứ không thêm gì vào nữa! Một lời cầu nguyện tốt nhất là “trình lên Chúa các nhu cầu của mình” rồi để Ngài làm theo ý Ngài. Đức Maria đã làm như thế; còn phần chúng ta, ngoài việc trình nhu cầu lên Chúa, thường hay bày thêm cách này cách kia, đôi khi còn đòi Chúa phải làm theo ý của mình. Đức Maria không ép Chúa, Ngài để Chúa tự do địnhh liệu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có người đã làm theo gương Đức Maria, khi Ladarô đau nặng, hai chị em Matta và Maria sai người đi thưa Chúa “người Thày yêu đau nặng.”
- Lời cầu nguyện của Đức Maria là lời cầu nguyện hạ mình: đây là lời cầu xin của bà mẹ đối với con. Nếu còn giữ thể diện thì không dễ gì một bà mẹ sẵn lòng hạ mình kêu cầu con; đã thế lại còn nhận được một lời đáp ứng dường như cứng cỏi của Chúa Giêsu: “Thứa bà, chuyện đó can gì đến bà và con, giờ của con chưa đến.” Thế nhưng, Đức Maria đã từ bỏ mình trước rồi, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp chứ không nghĩ đến thể diện cá nhân. Lời câu xin không kể đến thể diện mình quả là phép mầu để Chúa được vinh hiển. Chẳng những tại đây, do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua Kinh Thánh đều thấy Chúa làm phép lạ là do có người kêu cầu.
- Này, có một người phong đến gần Ngài thưa: “Lạy Chúa, nếu Chúa ưng, xin cho con được lành mạnh. Chúa giơ tay sờ đến anh phá: Ta muốn, anh được lành sạch. Tức thì người phong được sạch.”
- Khi Chúa vào Caphanaum, có một sĩ quan đến thưa Ngài: “Con gái tôi đau gần chết, xin Thày đến đặt tay trên nó, để được sống.” Chúa bèn đứng dậy đi theo ông.”
- Phêrô hòng chìm xuống nước la lên: “Thầy ơi cứu con với, tức thì Chúa giơ tay ra cứu ông.”
- Hai người mù thưa: “Lạy Chúa, xin cho mắt chúng tôi được sáng. Chúa động lòng thương, liền sờ đến mắt và hai người thấy được”
Có thể trưng nhiều hơn, nhưng cũng đủ để thấy Chúa thường hay mượn cớ người ta cầu nguyện để ban ơn, để tỏ bày vinh hiển của Ngài. Nguyện lời cầu của chúng ta cũng giống thế.
Thấy nhà chủ hết rượu Đức Maria trình lên Chúa nhu cầu, thì nhận được một lời đáp ứng không mấy tích cực: “Chuyện đó can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến.” Làm thân bà mẹ mà phải hạ mình xin con đã là khó, nay lại nhận được một câu trả lời như thế, rất dễ nản lòng, mất hết cậy trông. Đức Maria không thế, Ngài vẫn bình tĩnh bảo những người giúp việc Đức Giêsu bảo gì cứ làm theo đó. Tại sao Đức Maria biết Chúa sẽ ra lệnh cho các kẻ giúp việc? Đó chỉ do bà tin. Bà chẳng vì cảm xúc mà nghi ngờ điều mình xin, nhưng lấy đức tin mà nắm lấy lời hứa của việc cầu nguyện: “Cứ xin thì được.” Chính vì đức tin mà Maria dặn bảo các người giúp việc phải tuân theo lệnh Chúa.
Trình bày nhu cầu xong, phải tin vào lời hứa của Chúa mà chắc chắn mình được nhận lời. Thiếu đức tin thì không bao giờ thấy vinh hiển của Chúa. Các vĩ nhân trong lịch sử thánh đều là những anh hùng đức tin: bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi, bởi đức tin có thể qua sông Giođan, bởi đức tin có thể đánh lui toán quân của ngoại bang, bởi đức tin có thể khiến thành Giêricô sụp đổ, khiến người mù được sáng, què được đi, kẻ phong được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Có việc nào không bởi đức tin mà tỏ bày vinh quang của Chúa đâu. Thế nên, Chúa từng phán với Matta rằng: “Ta đã chẳng nói với con rằng nếu con tin con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa.” Giả như lúc này Đức Maria không dặn bảo những người giúp việc sẵn sàng làm theo lệnh Chúa thì Chúa cũng chẳng bảo họ làm gì nữa, mà dầu có bảo họ cũng chẳng nghe theo. Thế thì đã không có phép lạ nước hóa ra rượu… nhưng vì đức tin của Đức Maria quá lớn, nên phép lạ đã xảy ra.
Sở dĩ chúng ta không được thấy vinh hiển Chúa trong đời sống, không phải vì chúng ta không cầu xin, nhưng vì cầu xin trong sự không tin. Hãy bắt chước Đức Maria, nghĩa là phải lấy đức tin mà nhận điều mình cầu xin dầu hoàn cảnh là thập phần khó khăn, cảm giác thập phần lạt lẽo, nhưng phải làm xong điều gì phải làm như Đức Maria đã từng làm thì Chúa sẽ phải giữ lời Ngài đã hứa mà ban ơn cho ta để tỏ vinh quang Ngài.
Với lòng đầy tin tưởng, Đức Maria nói gì: “Người bảo gì cứ làm theo đó.” Phải ghi chặt vào lòng câu nói đó. Vì đó là việc buộc phải làm về phương diện loài người. Nếu ta không chịu vâng phục mà làm theo, vinh quang của Chúa có thể bị cản trở vì bất tuân của loài người. Các bạn có tin Thiên Chúa rẽ đôi nước Biển Đỏ không? Tin chứ, nhưng nếu bất tuân mà không giơ cây gậy lên thì nước Hằng Hải đâu có phân đôi tả hữu; các bạn có tin nước Giođan nhưng chảy không? Tin chứ, nhưng nếu vì bất tuân mà không đặt chân vào dòng sông thì nước không dồn lại thành đống. Bạn có tin Chúa có thể làm sụp đổ tường thành Giêricô không? Tin chứ, nhưng nếu không nghe lời Chúa mà đi vòng quanh thành đủ bảy ngày, thì tường thành không tự nhiên đổ xuống đâu. Người teo tay phải vâng lời Chúa mà giơ tay ra, mới được lành; người phong phải vâng lời Chúa đem thân đến cho thấy tư tế khám nghiệm mới được sạch phong; người mù phải vâng lời Chúa đi xuống ao Silôê mà rửa mới xem thấy được. Trong Kinh Thánh có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng sự vâng phục là điều kiện buộc phải có để Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài.
Trong tiệc cưới, các gia nhân đang bận rộn, vậy mà Chúa bảo họ phải đổ đầy nước vào sáu cái chum đá, thế mà họ vâng lệnh “đổ đầy tới miệng”. Rồi tiếp theo lệnh thứ hai: “Bây giờ hãy múc đưa cho người quản tiệc. Họ liền đem cho ông.” Chữ ‘liền’ ở đây rất ý nghĩa, đây chính là thái độ tỏ rõ vinh quang Chúa. Có gì buộc mà họ phải vâng lời Ngài, Ngài đâu có phải là chủ của họ, họ đang bận rộn, gặp lúc thiếu rượu lại còn quýnh lên; lại nữa lời bảo của Chúa chẳng hợp lẽ chút nào: đổ nước vào chum đá đã là phiền hà, lại còn múc đem cho người quản tiệc để làm gì? Bảo làm thế, để làm gì trong tình thế khó khăn này? Thế nhưng gia nhân đã vâng theo không hề phản kháng càu nhàu, Chúa bảo làm gì họ làm thế. Họ đem lại cho Chúa cơ hội hoàn toàn tự do để bày tỏ quyền năng là biến nước thành rượu. Nếu người ta không chịu vâng phục mà đổ nước vào rồi lại múc nước ra, hay tuy là vâng theo, nhưng không trọn vẹn, chỉ để lưng chừng, thì thế nào cũng giảm bớt hay làm bế tắc vinh hiển của Chúa. Thế mới biết vâng lời không cần lý do mới khó làm sao! Nhưng vâng phục không cần lý do quả thực là điều kiện duy nhất của những ai giúp việc Chúa!
Đến với Chúa, chúng ta chỉ có sự cầu xin thì không đủ, cần phải có đức tin nữa; chỉ có đức tin cũng chưa đủ, còn phải có sự vâng phục nữa. Chắc có nhiều người nói mình đã có đức tin rồi, nhưng thử hỏi thật lòng mình đã có vâng phục hoàn toàn chưa. Chúa bảo bạn làm điều gì cứ làm ngay điều đó, đừng nhìn xen hoàn cảnh, đừng đòi lý do, “cứ làm theo đi” một người đi theo Chúa, quả có nhiều bài phải học, mà bài khó học hơn hết là vâng phục, có thể nói rằng hễ ai tiến bộ trong sự vâng phục là có tiến bộ trong đời thuộc linh. Vâng phục là đem chủ quyền của mình mà nhường cho Chúa, để Chúa cai trị, khi nào người môn đệ hoàn toàn vâng phục Chúa, Chúa mới hoàn toàn làm chủ người môn đệ. Phải biết chắc rằng bạn có vâng phục Chúa, Chúa mới vâng phục bạn (nghe lời bạn cầu xin).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam