Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1371227
VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
DẪN NHẬP
Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ: “Ta là Mục tử nhân lành” (Ga 10,14). Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta như mục tử ở giữa đàn chiên. Sự hiện diện của Ngài không phải là sự hiện diện của một người lãnh đạo đầy tham vọng, cũng không phải là sự hiện diện của một người cầm đầu mong được tung hô, nhưng là sự hiện diện của một người mục tử sống chỉ vì đoàn chiên và chỉ lo cho đoàn chiên được nuôi sống và được sống dồi dào.
Chúa Giêsu là mục tử nhân lành tối cao, Ngài lo cho mọi con chiên, nhưng Ngài cũng muốn dùng con người làm mục tử thay mặt Ngài mà săn sóc cho đàn chiên như khi Ngài nói với thánh Phêrô: “Hãy chăm sóc các chiên của Thầy”.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 4,8-12
Sau khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì việc ấy đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào đền thờ.
Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.
Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu: Ngài là viên đá bị những người thợ xây loại bỏ, nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.
+ Bài đọc 2: 1Ga 3,1-2
Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa đã bầy tỏ cho chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta trở nên những con cái của Ngài. Tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức Giêsu vinh quang. Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 10,11-18
Trong những người nghe Đức Giêsu giảng, có nhiều thính giả là người chăn chiên. Đức Giêsu muốn giới thiệu mình là mục tử nhân lành đối với đàn chiên. Ngài muốn so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê.
* Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này:
a) Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
b) Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được các chiên biết.
c) Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các chiên khác về cùng một đàn và cùng một chủ chiên.
* Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, gặp nguy hiểm thì bỏ chạy, họ chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan tác.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Ta là Mục tử nhân lành
MỤC TỬ TRONG THÁNH KINH
Trong Cựu ước.
Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh vịnh đã hát lên:
Đức Giavê là Mục tử tôi,
Tôi không còn thiếu gì.
Dù phải đi qua thung lũng tối đen
Tôi cũng không hề lo sợ.
(Tv 23,1-4)
Đức Giavê là Chúa chăn dắt Israel. Đây là một hình ảnh được thành hình do kinh nghiệm đời sống du mục từ thời tổ phụ của Israel. Hình ảnh người chăn chiên đưa ra hai liên lạc giữa Giavê và Israel: Ngài vừa là Thủ lãnh của Israel, nhưng đồng thời lại là Bạn. Ngài có đủ uy quyền với Israel, và đủ quyền lực để bảo vệ Israel, nhưng đồng thời Ngài đối xử với Israel một cách hết sức nhân từ và tế nhị. Chính Ngài lo liệu việc chăm sóc đó (x. Tv 23).
Từ đó những nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Nhưng tiếc thay, có một số thủ lãnh thay vì lo cho đàn chiên, lại tác hại chúng, lợi dụng chúng cho mục đích riêng tư, làm cho chúng tan tác đáng thương hại. Khi điều này xẩy ra, tiên tri Ézéchiel đã nhân danh Chuá nói lên:
“Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi ! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên… Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng” (Ez,2-4,9-10,23).
Trong Tân ước
Đứng trước bối cảnh này, Đức Giêsu đã thổ lộ tâm tình khi Ngài nói: “Ta thương dân này, vì chúng như đàn chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36; Mc 6,34). Vậy chúng ta phải đọc bài Tin mừng hôm nay trong bối cảnh này để hiểu lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Ta là Mục tử nhân lành, sẵn sàng liều mạng vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên”.
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà tiên tri Ezéchiel tiên báo. Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con chiên lầm đường lạc lối. Nhưng Đavít chỉ là hình ảnh một người chăn chiên khác hoàn hảo hơn. Đó là Đavít mới (Gr 3,15; Ez 34,23t). Người chăn chiên hoàn hảo Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu Kitô.
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Người Do thái thời Đức Giêsu thường có thái độ nghi ngờ về thân thế, việc làm, uy quyền và sứ mạng của Đức Giêsu. Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên nhân lành để họ thấy rõ uy quyền đích thực của Ngài. Ngài khẳng định: “Ta là Mục tử nhân lành”.
Ta thấy có sự khác biệt giữa người chủ chăn và người chăn chiên thuê:
1. Người chăn chiên thuê:
Người chăn chiên thuê không phải là chủ đàn chiên nên không mấy tha thiết với đàn chiên, họ không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên khi gặp nguy hiểm. Vì không có tình yêu tha thiết với đàn chiên nên họ cũng không sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả, họ trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng.
Đức Giêsu gọi những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái là những kẻ chăn thuê, họ chỉ lo lắng đến các tư lợi do chức vụ đem đến, chứ không tha thiết gì đến đàn chiên, vì vậy khi gặp nguy hiểm là họ chạy trốn để đàn chiên tản mát.
2. Người chủ chăn
Trái lại, người chủ chăn thương yêu đàn chiên, tha thiết với đàn chiên, không nghĩ đến ích lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh cho đàn chiên bất chấp nguy hiểm. Người chủ chăn có ba đặc điểm sau đây:
a) Hiệp thông với đàn chiên:
Người chủ chiên biết các chiên, biết từng con một, và ngược lại chiên biết chủ. Đây là hành động hỗ tương. Biết một cách riêng biệt, từng con chiên một với các hoàn cảnh, nhu cầu, khát vọng của con chiên. Con chiên biết nhận ra tiếng của chủ chăn. Thật là những người bạn tri âm. Như thế sự biết hỗ tương này sẽ đưa đến một cuộc sống thân mật giữa hai bên. Đúng thế, chữ “Biết” của Gioan, không những bao hàm nghĩa trí tuệ, nhưng còn là sự hiệp thông cuộc sống dựa trên tình yêu và lý trí. Sự thông hiệp này đã có nơi Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu cũng sánh ví sự hiệp thông như thế giữa Ngài và các con chiên.
Truyện: Con mắt của vị hoàng đế
Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một hôm khi còn là thiếu úy, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sống và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xoá tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Như người Mục tử nhân lành, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi, và nhìn chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn chiên trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Ngài đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.
(Cử hành Phụng vụ CN và Lễ trọng, tr 136)
b) Qui tụ và hợp nhất đàn chiên
Người chủ chăn mở đường tìm lối cho những con chiên lạc trở về một đàn vì có những con chiên lầm đường lạc lối. Ngoài ra, còn muốn thu thập các con chiên khác qui tụ lại trong đàn chiên này là dân Israel, ám chỉ Giáo hội sau này, nói lên tính cách phổ quát của Giáo hội. Biểu tượng người chăn chiên nhân lành là một dịp để Chúa quảng diễn vai trò của Ngài hướng dẫn cả thế giới: “Ta còn những con chiên khác không thuộc về đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn… và sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Tất cả mọi người là con chiên của Chúa, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và một Giáo hội duy nhất.
Truyện: Pho tượng Chúa chiên lành
Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: “Ta là môn đệ của một Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.
(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm B, tr 70-71)
c) Thí mạng để bảo vệ đàn chiên.
Đoạn Kinh thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung thành và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có sự gì xẩy ra cho chiên, người ấy phải trưng bầy bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi. Luật pháp qui định: “Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng” (Xh 22,12). Ở đây muốn nói la kẻ chăn phải mang về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy.
Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên. Lắm khi họ còn phải làm nhiều điều hơn thế nữa để cứu chiên.
Truyện: Liều mạng cứu chiên
Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.
KITÔ HỮU CŨNG LÀ MỤC TỬ
Sứ vụ của Đức Giáo hoàng
Đức Giêsu đã trao phó trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Chúa khi Chúa nói với ông Phêrô tới ba lần: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Và sau khi Chúa về trời, thánh Phêrô trở nên vị lãnh tụ tối cao trong Giáo hội, vị Giáo hoàng đầu tiên đặt ngai tòa tại Rôma, các tông đồ và mọi tín hữu phải qui phục quyền hướng dẫn của Ngài. Giáo hoàng là vị đại diện Thiên Chúa ở trần gian.
Truyện: Quo vadis?
Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
– Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
Chúa Giêsu trả lời:
– Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên.
Sứ vụ các Giám mục, Linh mục
Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một số ít người trong dân Chúa được gọi, được chọn để đóng vai người mục tử của cộng đoàn. Đó là các Giám mục. Linh mục tức các thừa tác viên có chức thánh. Công việc được giao cho các vị, chính là việc chăn dắt, chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa. Tác vụ của các vị là làm sao cho đoàn chiên chẳng những được an toàn mà còn được ăn uống no nê, béo tốt. Trách nhiệm ấy thật cao cả nhưng cũng thật khó khăn và nặng nề. Cao cả vì các vị phải hiện-tại-hoá tấm lòng và cách sống yêu thương và hy sinh xả kỷ của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa đối với cộng đồng anh chị em được giao phó cho các vị. Khó khăn và nặng nề vì các vị vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.
Nhìn vào thực tế, một thực tế không thể chối cãi được và cũng rất bình thường, chúng ta thấy các vị chủ chăn có một vai trò quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng thấy rõ là không phải tất cả các vị chủ chăn đều có được tấm lòng yêu thương và cách sống hy sinh quên mình vì đoàn chiên. Vẫn còn đó, những ích kỷ, nhưng vụ lợi, những hưởng thụ không chính đáng! Vẫn còn đó, những lạm dụng danh nghĩa, những tự tôn tự đại! Vẫn còn đó những ngại hy sinh, những cách phục vụ nửa chừng nơi các vị chủ chăn của chúng ta.
Nhưng cũng không thiếu gì những vị mục tử hy sinh vì đàn chiên, những gương lành sáng chói còn ghi trong sử sách. Một Gioan Vianney đã tô điểm sáng chói cho khuôn mặt vị Mục tử nhân lành tối cao! Chính vì thế mà Giáo hội mới tha thiết mời gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị, để các vị trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành. Không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, không ai làm được những chuyện “ngược đời” mà Phúc âm đòi hỏi.
Sứ vụ của mọi Kitô hữu
Mọi người đã được chịu phép Thánh tẩy đều được tham gia vào ba chức năng của Chúa Kitô, đó là: chức năng tư tế, chức năng tiên tri và chức năng cai trị. Nhưng theo tư tưởng của Đức Kitô thì “Cai trị là phục vụ”. Ai mà không có quyền phục vụ? Ai có thể nói là mình không thể phục vụ được trong bất cứ một lãnh vực nào hay một hoàn cảnh nào?
a) Trong đời sống Kitô hữu nói chung
Nhìn sâu hơn nữa vào tinh thần Phúc âm, chúng ta phải quả quyết rằng: không chỉ có các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Kitô hữu lớn nhỏ, nam nữ đều được tham gia vào sứ vụ chăm sóc của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, bí tích Thánh Tẩy đã khiến chúng ta thành chi thể của Thân Mình Mầu nhiệm mà Chúa Kitô là Đầu. Là chi thể, chúng ta mang trong mình tư cách, tính chất, sứ vụ của Đầu. Nếu Đức Giêsu là Mục tử thì mọi Kitô cũng đều là người chăm lo cho anh em là chi thể của Thân mình
b) Trong đời sống gia đình nói riêng
Gia đình được gọi là Hội thánh tại gia. Trong Hội thánh lớn hay nhỏ đều phải có tổ chức, phải có đầu có cuối như người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu”. Chúa Kitô đã trao cho thánh Phêrô nhiệm vụ coi sóc Hội thánh toàn cầu, thì Ngài cũng trao cho các Giám mục, rồi đến Linh mục nhiệm vụ chăm sóc Hội thánh tại địa phương là Giáo phận, giáo xứ.
Như vậy, Chúa cũng trao cho cha mẹ nhiệm vụ chăm sóc gia đình – một Hội thánh tại gia – để cha mẹ thi hành sứ vụ mục tử đối với con cái cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ; vợ có sứ vụ mục tử đối với chồng và chồng có sứ vụ mục tử đối với vợ; anh em chị em có sứ vụ mục tử đối với nhau và cứ thế mà rộng ra toàn xã hội và thế giới: mọi người có sứ vụ chăm lo cho nhau, vì mọi người là con cái của Thiên Chúa, đều là anh chị em của nhau, đều thuộc về một ràn chiên duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.
Sứ vụ hiệp nhất của Kitô hữu
Đức Giêsu muốn qui tụ tất cả các chiên vào trong một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của một Chúa chiên. Nỗi thao thức của Đức Giêsu trước khi vào cuộc tử nạn là cho mọi người hiệp nhất nên một. Tâm tình này đã được Đức Giêsu thổ lộ trong bữa Tiệc ly: “Xin cho chúng hiệp nhất nên một” (Ga 17,23). Nhưng sau khi Chúa về trời rồi, Hội thánh vẫn còn chia rẽ. Hội thánh được ví như một tấm vải bị xé ra nhiều mảnh, cần phải được nối kết lại.
Công đồng Vatican II tha thiết mong mỏi tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, nên muốn cung ứng cho mọi người Công giáo sự trợ lực, đường lối và phương sách để họ có thể đáp ứng lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa (Sắc lệnh về hiệp nhất, số 1).
Hàng năm Giáo hội tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất từ ngày 18-25 tháng giêng. Tuần lễ hiệp nhật này là sáng kiến của một mục sư Anh giáo ở New York, ông Wattson và người bạn của ông là ông Spencer Jones ở Luân đôn. Kết quả đầu tiên của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất này là sự trở lại Công giáo của chính mục sư Wattson, sau là Linh mục Paul Francis, đồng thời cả cộng đoàn (Association de Réparation) của ông lập cũng trở lại Công giáo. Đức Piô X đã chấp thuận tuần lễ hiệp nhất này trong Giáo hội.
27. Hiến mạng vì đoàn chiên
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Tại San Salvador ngày 24.3.1980, Đức Tổng Giám Mục Oscar Romeno đang sốt sắng dâng Thánh Lễ, thì bỗng nhiên một phát súng từ một kẻ sát nhân nào đó, bay tới trúng trái tim ngài, khiến ngài tắt thở ngay tại chỗ. Chỉ trước đó vài phut, ngài đã giảng một bài thật hùng hồn về niềm hy vọng tràn đầy vào hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa; trong đó, ngài tha thiết khuyên Giáo Dân hãy hy sinh phục vụ tha nhân theo mẫu gương hy sinh bác ái của Chúa Kitô.
Sau lúc đọc lời truyền phép, biến đổi bánh rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa, ngài được tràn đầy sung sướng thốt lên những lời sau hết này: “Chớ gì Thân Thể đã chịu sát tế và Máu Thánh đã đổ ra vì nhân loại, tăng thêm sức mạnh cho thân xác và khí huyết chúng ta, để chúng ta có thể hy sinh bản thân chúng ta, chịu đau khổ và tử nạn như Chúa Kitô, để có thể trao tặng cho Dân Chúa một viễn tượng công lý và Hòa Bình”.
Từ ngày Đức Tổng Giám Mục Romeno tranh đấu đòi nhân quyền cho Giáo Dân của ngài đang bị áp bức, ngài đã quá biết rằng tính mạng ngài đang bị đe dọa. Dầu vậy, Ngài vẫn cương quyết hô hào dân chúng chống lại sự áp bức bất công và đòi quyen tự do cho con người. Một lần kia đầy lòng tin tưởng ngài đã quả quyết với các phóng viên báo chí rằng: “Mặc dầu kẻ thù có giết chết tôi, tôi cũng sẽ “Chỗi dậy” giữa dân của tôi”. Bởi vì Đức Tổng Giám Mục rất thương mến Giáo Dân của Ngài tại San Salvador, và chính bởi thế, ngài đã chịu chết để bênh vực quyền lợi cho họ. Ngài đã thực sự làm ứng nghiệm nơi bản thân ngài lời Chúa phán trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: “Ta là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì Đoàn Chiên… Ta biết chiên của Ta và Ta hy hiến mạng sống Ta vì chiên của Ta”.
MẪU GƯƠNG CỦA CÁC VỊ CHỦ CHĂN
Chúa Kitô tự xưng mình là Mục Tử Nhân Lành. Chúa đã dùng một hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống người Do Thái: Đó là hình ảnh người chăn chiên, để mặc khải cho chúng ta nhận biết tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Vì thương yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người, như một thụ tạo đặc biệt giống hình ảnh Chúa và giống bản tính Người. Chúa còn quan phòng, săn sóc, bảo vệ, che chở và dưỡng nuôi; cung cấp mọi nhu cầu cần thiết để chúng ta sống mà phụng sự Người, hầu có thể đạt tới cùng đích tối hậu là hạnh phúc vĩnh cửu Người đã sắm sẵn cho chúng ta trên Quê Trời.
Sau khi nguyên tổ phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, Người đã sai Đấng Cứu Thế đến trần gian, như hiện thân của lòng nhân từ, như Mục Tử Nhân Lành chăn dắt Đoàn Chiên của Người là tất cả chúng ta, ban lời giáo huấn làm lẽ sống hướng dẫn cuộc đời, rộng tay ban phát mọi ơn lành. Sau cùng, Người đã hiến chính mạng sống mình để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, đền phạt tội lỗi chúng ta, lập nên Giá Ơn Cứu Độ cho chúng ta và cho tất cả những ai thành tâm thiện chí, muốn hưởng nhờ công Ơn Cứu Độ của Người.
Chúa còn thiết lập Giáo Hội, chỉ định Hàng Giáo Phẩm như các vị Chủ Chăn, trao quyền chăn dắt Đoàn Chiên Chúa, cai quản, giáo huấn và thánh hóa Đoàn Chiên Chúa trao phó cho các Ngài, đặt mình như mẫu gương trọn hảo cho các ngài noi theo bắt chước trong khi thi hành sứ mạng Ngai đã trao phó.
CHỦ TRƯƠNG CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Chính vì thấu hiểu giáo huấn của Chúa Kitô, nên Giáo Hội Công Giáo chúng ta đã thiết lập luật độc thân cho Hàng Giáo Phẩm, để các ngài được theo sát mẫu gương của Thầy Chí Thánh, Đấng thiết lập Giáo Hội, hy hiến tất cả bản thân và cả cuộc sống để phục vụ Đoàn Chiên đã được ủy thác cho các ngài. Nhưng ngày nay có nhiều người đã đưa ra những luận điệu có vẻ xây dựng, đề nghị cho các Linh Mục được lập gia đình giống như các Mục Sư Tin Lành, để cứu vãn tình trạng thiếu ơn gọi, khan hiếm Linh Mục, vì sợ rằng mai ngày không còn đủ Tông Đồ làm việc cho Chúa, thiệt hại cho các linh hồn.
Nhưng chúng ta hãy nghe thuật lại những phức tạp sau đây, đã được chính các vị Chủ Chăn tiết lộ về tình trạng của các giáo phái có luật cho phép Linh Mục lập gia đình và Mục Sư có đôi bạn.
Đây là những nhận định của các vị hữu trách trong các giáo phái, đã chân thành chia sẻ với các vị Chủ Chăn Công Giáo trong một phiên họp thân mật:
1. Mục Sư Jungmann nói: “Qúi vị đừng nghĩ rằng chỉ có Giáo Hội Công Giáo của quí vị gặp khủng hoảng, bên Tin Lành chúng toi còn gặp khủng hoảng nặng hơn bên quí vị rất nhiều.
2. Trong một cuộc họp mặt giữa Linh Mục Công Giáo và Mục Sư Tin Lành, một Mục Sư phát biểu về đời sống độc thân: “Tôi bắt đầu hiểu giá trị đời sống độc thân nơi Giáo Hội Công Giáo. Tôi cảm thấy các Cha là anh em với nhau, và tạo nên một gia đình thực sự, chúng tôi không thể nói được như thế đối với chúng tôi… Nếu một Mục Sư nào đó thành công, tôi không sung sướng gì; nếu một Muc Sư nào đó thất bại, tôi cũng không đau xót gì với ông. Giữa chúng tôi không có bầu khí gia đình, họa chăng cũng chỉ có giữa vợ chồng chúng tôi thôi”.
3. Đức Tổng Giám Mục Công Giáo ở Beyrouth (Liban) tâm sự: “Các Đức Cha hãy cố giữ lấy kho tàng quí báu của Giáo Hội Latinh, tức là luật Linh Mục độc thân. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này; vì Giáo Phận tôi, một Giáo Phận theo nghi lễ Đông Phương: Có Linh Mục độc thân và có Linh Mục lập gia đình. Lắm vấn đề phức tạp mà quí vị không thể tưởng tượng được”.
4. Giáo Hội Công Giáo chúng tôi cũng như bên Chính Thống Giáo luôn nuôi ở tòa Giám Mục vài Cha sống độc thân, để dự phòng sau này làm Giám Mục kế vị chúng tôi, vì Giáo Luật đòi buộc Giám Mục phải sống độc thân.
5. Lại còn phức tạp do luật buộc Linh Mục chỉ được kết hôn một lần trước khi chịu Chức Thánh. Có những trường hợp Linh Mục mới có 30 hoặc 35 tuổi, vợ ông đã chết, tay bồng tay bế, lũ con nheo nhóc, không ai nuôi dưỡng, thật nan giải.
6. Trong việc mục vụ càng phức tạp hơn: Mặc dầu tập quán Linh Mục lập gia đình đã có từ xưa truyền lại, Giáo Dân vẫn quí mến Linh Mục độc thân hơn, các ngài dù ở xa hoặc đi đến đâu, họ cũng tìm cách gặp gỡ, để xưng tội và xin lễ.
7. Linh Mục có gia đình chỉ phục vụ trọn vẹn ngày Chúa Nhật, còn các ngày khác họ phải lo làm ăn để nuôi sống gia đình. Như thế làm sao tiếp xúc được với mọi người.
8. Thuyên chuyển một Linh Mục có gia đình thật là một vấn đề khó khăn. Được lệnh ông sẽ bảo: “Con sẵn sàng, nhưng vợ con mắc làm ở sở kia, các cháu lại đang học ở trường nọ, gia đình con không cùng đồng tâm đến địa phương đó”.
9. Có khi Linh Mục thì tốt, nhưng bà vợ hoặc con cái chưa nói là xấu, chỉ không được Giáo Dân trong xứ có thiện cảm, thì cũng đủ để họ ghét luôn cả Linh Mục, rồi dần dà xa việc đạo. Trường hợp mà xảy ra thù hằn thì còn mất cả Đức Tin nữa. Nếu thuyên chuyển Linh Mục ấy không được, thì cha truyền con nối, tiếp tục giữ Giáo Xứ từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho cả Xứ Đạo phải chịu sự áp bức của một gia đình, nên đời sống đạo hạnh sa sút không thể lường được.
Kết Luận
Là con cái Chúa và Giáo Hội, chúng ta hãy nên giống Chúa sẵn sàng hy sinh tư lợi, tư kỷ, tư kiến, để hy hiến bản thân phục vụ tha nhân, đem Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho họ, an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ kẻ túng thiếu nghèo nàn, cầu nguyện cho những người bị bách hại, tha thứ cho kẻ chống đối mình, nâng dậy kẻ yếu đuối sa ngã.
Đặc biệt cầu cho mọi thành phần của Giáo Hội được luôn trung kiên noi theo gương Chúa Kitô, để Hàng Giáo Phẩm, Giáo Sĩ giữ vững truyền thống luật độc thân thánh thiện của chức Linh Mục, hầu các Vị Chủ Chăn có thể chu toàn sứ mạng chăn dắt Đoàn Chiên và nên gương mẫu đời sống trong sạch, thánh thiện cho Đoàn Chiên Chúa trao phó cho các Ngài.
28. Những con dê lột xác thành chiên
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Đúng như đã nhận định và chia sẻ ở bài suy niệm Phúc Âm tuần trước, “trong ba tuần đầu của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội cố ý nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống lại’, và bốn tuần còn lại của Mùa Phục Sinh Giáo Hội nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống’”, mà ở Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh năm B nói riêng và cả chu kỳ 3 năm nói chung, Giáo Hội đã chọn bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan nói về vị Chủ Chiên Nhân Lành, “người mục tử nhân lành thì thí mạng sống mình vì chiên”. Phải chăng vì chủ đề của bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh này liên quan đến vai trò của Vị Chủ Chiên Nhân Lành (ở cả ba chu kỳ A, B và C) như thế mà Giáo Hội cũng đã cử hành Ngày Thế Giới Ơn Gọi lần thứ 40 vào chính Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh này, cũng như Giáo Hội đã bắt đầu cử hành Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh từ năm 2000 như là Ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa, theo Lời Chúa Giêsu yêu cầu qua chị Thánh Faustina, vì ý nghĩa của bài Phúc Âm của Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh hợp với những gì được diễn tả nơi tấm ảnh Chúa Tình Thương (xin xem lại bài chia sẻ Chúa Nhật Hai Phục Sinh)?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, chúng ta lại thấy Chúa Giêsu tiên báo xa xa về Cuộc Vượt Qua của Người, chẳng những ở câu “người mục tử nhân lành hiến mạng sống vì chiên”, hay “Tôi hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy”, mà còn rõ hơn nữa ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm: “Tôi tự ý bỏ mạng sống. Tôi có quyền bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại”. Theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh Năm B thì Người chính là Vị Mục Tử Nhân Lành như chính Người đã tự nhận và công bố ở ngay câu đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay: “Tôi là mục tử nhân lành”. Người “là mục tử nhân lành”, trước hết, bởi Người thí mạng sống mình vì chiên, và sau nữa, bởi Người biết chiên của Người cũng như chiên của Người biết Người. Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thực sự là biến cố chẳng những cho thấy Người thí mạng sống vì chiên mà còn cho thấy Người đi trước chiên và biết chiên, cũng như Người được chiên biết: “Thày đi để dọn chỗ cho các con, để rồi Thày sẽ trở lại để đưa các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó. Các con biết Thày đi con đường nào rồi” (Jn 14:3-4).
Hành động Người bảo vệ chiên khi đám sói xông đến tấn công khi Thày trò của Người sau Bữa Tiệc Ly đang ở trong Vườn Cây Dầu bấy giờ không phải đã ứng nghiệm những gì Người nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay về vị mục tử nhân lành hoàn toàn khác với thành phần chăn chiên thuê thấy sói đến thì bỏ chiên chạy giữ mạng hay sao? Phải, chính vì Người thực sự là Mục Tử Nhân Lành chứ không phải là kẻ chăn thuê mà Người “đã yêu thương đến cùng” (Jn 13:1) chiên của Người, yêu thương như chính bản thân Người, đến nỗi chiên trở thành mạng sống của Người, quí như mạng sống của Người. Đó là lý do, khi đám sói được Hội Đồng Do Thái sai phái với gậy gộc giáo mác xông tới, như Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, Người đã nói: “Nếu thực sự Tôi là người quí vị muốn thì hãy để những người này đi” (Jn 18:8).
Như thế, căn cứ vào nguyên tắc hay tinh thần của Vị Mục Tử Nhân Lành mô phạm này thì những mục tử nào không dám chết cho chiên, không biết chiên mình là ai và như thế nào, trái lại, còn bị chiên xa lánh v.v. thì quả thực chưa phải hay không phải thực sự là người mục tử nhân lành, nếu không muốn nói theo kiểu diễn tả của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm, là những tay chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc của mình vậy thôi. Thực tế đã cho thấy rõ như vậy. Nếu bất cứ lúc nào vị linh mục tìm mình là các vị bắt đầu thụt lại đi đằng sau chiên, chứ không còn hiên ngang và hăng say đi trước chiên (x Jn 10:4), để đương đầu với những nguy hiểm có thể xẩy ra cho chiên. Thái độ đi trước chiên chẳng những tiêu biểu cho đời sống gương mẫu của chủ chiên, đáng cho chiên noi theo, mà còn là hành động chứng tỏ chủ chiên thực sự biết rõ chiên của mình, biết trước chiên cần gì và muốn gì để kịp thời đáp ứng và hướng dẫn chiên đến những nơi hợp với chiên, một hành động cũng cho thấy vị mục tử tỏ ra hoàn toàn tin tưởng chiên, không sợ chiên ở đằng sau tẩu thoát, vì “chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27).
Nếu thành phần được thay thế Vị Mục Tử Nhân Lành này chăn sóc chiên của Người phải làm sao phản ảnh Người bao nhiêu có thể, như trường hợp của tông đồ Phêrô được Thày trao cho trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Người đã được “dự phần” (Jn 13:8) với Người trong việc hiến mạng sống mình vì chiên thế nào (x Jn 21:15-19), thì hàng giáo sĩ mục tử Công Giáo cũng phải sẵn lòng hiến mạng vì chiên mới có thể đắc lực phục vụ chiên. Đây là một trong những lý do sâu xa cho thấy linh mục Công Giáo cần phải sống độc thân mới có thể hoàn toàn dấn thân phục vụ đàn chiên của mình một cách vô tư, tận tuyệt, đến dám thí cả mạng sống của mình.
Khi các vị mục tử Công Giáo, linh mục hay giám mục, dám liều mạng sống mình vì chiên, các vị đã thực sự trở thành một Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, ở chỗ, các vị đã tiến đến chỗ đồng hóa bản thân mình với lời các vị truyền phép trên bàn thờ: “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con”. Khi đọc lời truyền phép này lúc cử hành Hy Tế Thánh Thể, các vị đóng vai trò Chúa Kitô Thượng Tế, tác hành “nhân danh Chúa Kitô”: chữ “Ta” trong lời truyền phép đây là Chúa Kitô; nhưng khi các vị hiến mạng sống vì chiên, các vị trở thành Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, được hoàn toàn đồng hóa với Người, đến nỗi, chữ “Ta” trong lời truyền phép có thể được hiểu là chính bản thân của các vị. Khi các vị hoàn toàn sống cho chiên, thậm chí chết vì chiên, thì các vị hiện thực những gì Chúa Kitô truyền cho các vị làm “mà nhớ đến Thày”, ở chỗ, các vị chẳng những “làm” bánh và rượu trên bàn thờ biến thể thành Mình và Máu của Người, các vị còn “làm” cho cuộc hy hiến của Chúa Kitô được sống động tái diễn nơi cuộc đời của các vị nữa, qua việc các vị biến Mình và Máu của Người thành mình và máu của các vị.
Tuy nhiên, thành phần được Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống cho đây là thành phần nào? Dân Do Thái? Dân Ngoại?? Giáo Hội??? Bởi vì, những lời Chúa Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy tính cách khác biệt của đàn chiên của Người: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi, như Cha biết Tôi và Tôi biết Cha; Tôi sẽ hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy. Tôi còn những con chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất”. “Những con chiên ấy” và “những con chiên khác” đây là thành phần nào? Nếu “những con chiên ấy” là dân Do Thái thì “những con chiên khác” đây là Dân Ngoại. Vì sự kiện “sẽ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất” đây mới xẩy ra việc dân Do Thái cuối cùng sau khi đã đủ số Dân Ngoại sẽ trở lại nhận biết Chúa Kitô, đúng như lời tiên báo của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô (x. Rm 12:25-26). Thật ra chiên đây, nói chung, là tất cả những ai nhận biết Chúa Kitô.
Trái lại, những ai không nhận biết Chúa Kitô thì không phải là chiên của Người, như Người đã khẳng định với dân Do Thái: “Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi đều làm chứng cho Tôi, nhưng quí vị không chịu tin vì quí vị không phải là chiên của Tôi” (Jn 10:25-26). Như thế, kể cả những con chưa thuộc về đàn, có thể là những con chiên Dân Ngoại, hay là những con chiên tội nhân nói chung, kể cả con chiên tội nhân Do Thái, tự thâm tâm họ, nếu thành tâm thiện ý, vào một lúc nào đó, vẫn có thể nhận ra sự thật, vẫn có thể nghe thấy tiếng của Người và trở về cùng Người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô ngoại lai (x Jn 4:29), hay như trường hợp của trưởng ban thu thuế Do Thái Giakêu lùn (x Lk 19:1-10). Sự kiện “sẽ nghe thấy” trong lời Chúa Giêsu nói về một số con chiên tương lai của Người đây cho thấy dù còn là Dân Ngoại hay còn là một tội nhân đi nữa, con người vẫn có thể là chiên của Chúa Kitô và đã được gọi là chiên của Người rồi, vì thành phần chiên này có khả năng nghe được tiếng của vị chủ chiên mình, có khả năng nhận biết Người. Có những con chiên cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mới nghe được tiếng của vị chủ chiên và đã nhận biết Người để ngỏ ý muốn trở về với Người, như những trường hợp đã xẩy ra và được kể đến trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B, bài Phúc Âm nói về lời Chúa Giêsu phán: “Khi nào Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi”. Bởi thế, những ai tự cho mình là công chính như thành phần Pharisiêu đạo đức giả hình hãy coi chừng trước những con dê tội nhân, những con dê một lúc nào đó lột xác trở thành những con chiên trước mặt Chúa Trời!
29. Tôi là mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 10: 11-18: Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính…
Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính. Trên thế giới, không thiếu những con người, biết đâu chính là anh là chị, vẫn âm thầm làm những hành vi anh hùng hầu duy trì sự sống cho kẻ khác. Những con người ấy đúng là “mục tử nhân lành”, đang họa lại cái mẫu Đức Kitô, Mục tử nhân lành. Hôm nay, toàn thể Họi thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Lời Chúa của “Chúa nhật Chúa Chiên Lành” năm nay đặc biệt nêu bật khía cạnh hy sinh: Người mục tử tốt hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Chúng ta cầu nguyện để Thiên Chúa ban thêm cho Họi thánh những mục tử “như lòng Ngài mong ước”.
Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 10,11-18
Trong truyền thống Cựu ước, hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài tuyển chọn, tức Israel. Khi Đức Giêsu nói: “Tôi chính là Mục tử nhân lành” (cc. 11.14), thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (điều này được nhắc lại 5 lần trong bản văn: cc. 11.15.17.18 [2x]). Giữa Đức Giêsu và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Người và đoàn chiên (c. 14), cũng như giữa Người cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).
Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt qua và sự hy sinh chính bản thân Người.
ª Người mục tử đích thật (11-13).
Đức Giêsu là “Mục tử nhân lành”, cũng có nghĩa là “Mục tử xinh đẹp”. Điểm này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành) nhưng Người còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách mục tử nhân lành của Người chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.
Người có một cảm thức về trách nhiệm: “các chiên thuộc về Người” (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói “nghề chăn chiên” là một “ơn gọi” chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên ; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là “người làm thuê” (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ở đâu có cảm thức về sự “thuộc-về”, ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta vui sướng làm việc dù không được trả công.
Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng hy sinh thậm chí cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).
Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sự sống: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Đức Giêsu làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho con chiên.
ª Người mục tử ưu việt (14-18).
Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.
Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, về thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): “Như Chúa Cha biết Tôi…” (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. “Tôi biết chiên của Tôi…” (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu với chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, thắm thiết. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: “chiên của Tôi biết Tôi” (c. 14b). Tác giả nói đến “biết” thay vì tình yêu, bởi vì “tình yêu” hệ tại việc “biết” riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số ; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta – tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiệp thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, “Giêsu” không được chỉ đơn giản là một cái tên ; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như “những con chiên tốt, đẹp”, và phát triển một tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.
Tương quan với Đức Giêsu, Mục tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta ; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.
Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu của Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có “hiểu biết”, nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hiệp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì “kết hợp”.
Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu – Mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là nhắm đạt đến mọi dân tộc. “Đoàn chiên duy nhất” này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết quá khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai); và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những người không tin.
Qua Đức Giêsu, là Mục tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị Mục tử duy nhất. Tính chất cao quí của mỗi mục tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hiệp nhất tại nơi người ấy hiện diện – một sự hiệp nhất không tập trung lại quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.
Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hiệp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về “mầu nhiệm Vượt qua”. Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hiệp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời “Tôi hy sinh mạng sống” để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất ; rồi mở đầu c. 18, lại có lời “Tôi tự ý hy sinh mạng sống”. Đây là cấu trúc “đóng khung” để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được “sự hiệp nhất vĩ đại” này. Bởi vì Người chết chắc chắn “không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha “đóng khung” các câu 17 và 18: “Chúa Cha yêu mến Tôi…” và “đó là mệnh lệnh của Cha mà Tôi đã nhạn được”, trong đó nói ba lần đến việc “hy sinh mạng sống”. Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là người mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi “hiến tặng [hy sinh]” và “đón nhận [lấy lại]”, trong sự “tự chủ” (Tôi có “quyền”) và “trách nhiệm” (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: “Tôi đã nhận được”).
Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: “Chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”, rồi Người nói tiếp: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Nói cho cùng, “quyền” của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là “hiến mình”. Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu mến). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng “sự sống dồi dào” cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.
Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Bản văn này, khi giới thiệu Đức Giêsu là người Mục tử nhân lành, với giọng văn đơn giản nhưng súc tích, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục tử của Cựu ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mọi ước mong. Người sẽ mãi mãi là Đấng nuôi dưỡng, giáo huấn chúng ta, và dẫn đường cho tất cả chúng ta về cùng Chúa Cha.
Gợi ý bài giảng:
1. Nói tới “mục tử” là nói tới tương quan.
Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v… Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Người với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng Ngôn sứ Êdêkien (ch. 34).
2. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên.
Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm của mình đối với đoàn chiên. Người mục tử bên Paléttin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh thánh: Am 3,12; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục tử sống hoàn toàn cho con chiên, người ấy chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1Sm 17,34-35). Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Thánh vịnh 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4; Ed 34,16).
3. Một sự hiểu biết sâu sắc.
“Tôi biết chiên của Tôi…, như Chúa Cha biết Tôi”. Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Thánh Phaolô đã làm chứng về tình yêu ấy qua một đoạn văn hùng hồn là Rm 8,35.38-39: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta”.
Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.
30. Chúa là Mục tử và là người phục vụ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày Thế Giới lần thứ 55 cầu cho ơn gọi sẽ được cử hành vào ngày 22-2-2011, Chúa nhật thứ 4 Phục Sinh, mời gọi chúng ta suy tư về đề tài: “lắng nghe, biện phân, và sống”. Chúng ta bị chìm đắm trong một xã hội ồn ào, giao động vì nhiều thứ kích thích và thông tin tràn ngập bủa vây chúng ta. Để nhận ra tiếng Chúa gọi, cần có thái độ mặc niệm trong thinh lặng, lắng nghe (x. Sứ Điệp Cầu Cho Ơn Gọi 2018). Chăm chú lắm mới khám phá ơn gọi đặc thù và cách riêng mà Chúa đã nghĩ ra cho mỗi người chúng ta. Nhưng để sống, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Giêsu là Mục Tử.
Mục Tử giầu lòng thương xót
Trong Cựu Ước hình ảnh người mục tử có một tầm quan trọng. Khi nói về mục tử, người ta liên tưởng ngay đến điều đã viết trong sách Ngôn sứ Ezekiel nhân danh Thiên Chúa ông nói: “Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta. Chính Ta, Ta sẽ cho chúng được an nhàn. Sấm của Ðức Chúa Yavê. (Chiên) thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. (Chiên) tản mác, Ta sẽ lùa về. (Chiên) xây xát, Ta sẽ băng bó. (Chiên) bịnh hoạn, Ta sẽ bổ sức. Còn con nào béo, mạnh, Ta sẽ diệt đi. Một cách công minh, Ta sẽ chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Lời tiên tri này được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử nhân lành như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay. Vị Mục Tử giầu lòng thương xót biết và thương từng con chiên, ôm ấp con chiên ốm, chiên gặp nạn thì băng bó vết thương, chiên lạc đi tìm về. Chữ “mục tử” gợi lên sự dịu dàng và cảm động, khiến mỗi người chúng ta muốn trở thành con chiên lạc (Lc 15,3-7) được Người Mục Tử quyết tâm đi tìm bằng được và vác trên vai.
Mục Tử tốt lành trao ban mạng sống mình.
Hình ảnh người mục tử không chỉ quan trọng trong Kinh Thánh, mà chính trong Giáo hội hôm nay hình ảnh này vẫn con hấp dẫn. Điều mà Thiên Chúa hứa với dân xưa rằng: “Ta sẽ ban cho những mục tử như lòng Ta mong muốn” (Gr 3,15) là kinh nghiệm hàng ngày của Giáo hội, dân mới của Thiên Chúa. Giáo hội biết rằng chính Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao hoàn thành cách sống động lời Thiên Chúa hứa: “Ta là Mục Tử tốt lành” (Ga 10,11); Người là “Mục Tử vĩ đại” (Dt 13,20) ủy thác cho những người kế nhiệm là các tông đồ nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên Chúa (x. Eph 21,15… 1 P.5,2). Nhờ các linh mục vâng theo lệnh Chúa Giêsu truyền: “Hãy đi, làm cho môn dân trở thành môn đệ của Thầy” (Mc 16,19) mà dân Chúa có thể sống dồi dào.
Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa sai các thợ gặt lành nghề đến gặt lúa của Người và xin cho các mục tử ngày hôm nay theo gương Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành. Ước mong họ dâng hiến sự sống mình và can đảm cống hiến mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên. Xin cho họ yêu mến đoàn chiên như Chúa Kitô đã yêu mến ngõ hầu họ có thể dẫn chiên đến sự hiệp nhất với Chúa Kitô.
Sự tốt lành của người mục tử được thể hiện trong hồng ân mà vị ấy làm cho đoàn chiên được giao phó được sống và sống dồi dào trong sự nhận biết chiên của mình. Người mục tử biết từng con chiên một với tình yêu cao cả và chăm sóc mỗi con chiên. Chiên “cảm nhận” được điều đó và biết mục tử của mình thật tốt lành.
“Biết” trong Kinh Thánh có nghĩa là biết trong tình yêu: biết vì tình yêu và trong tình yêu. Như một người mẹ, trong bóng tối đêm đen “cảm thấy” con mình bị bệnh, bà thức dậy để chăm sóc cho con, ngay cả khi người con ấy không phàn nàn, người con “cảm thấy” người mẹ chăm sóc cho mình. Tình yêu đích thực là sự biết hoàn hảo. Giống như Người Mục Tử tốt lành, các mục tử và đoàn chiên sống trong sự hỗ tương để lớn lên trong sự qui chiếu vào Chúa Kitô.
Thuộc về Đức Kitô
Chúng ta bởi Chúa mà ra và chúng ta thuộc về Chúa, Chúa biết mỗi người chúng ta để thí mạng và sống lại vì đoàn chiên. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ có được sự sống của chính Chúa. Chúa Giêsu nói: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nghe lời Ta và tin vào Ðấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống” (Ga 5,24). Với đức tin, chúng ta hoàn thành bước quyết định: đi từ cõi chết đến cõi sống, bỏ miền đất của kẻ chết và bước vào miền đất của kẻ sống.
Giáo hội đề nghị các mục tử suy niệm đoạn Tin Mừng này: để suy ngẫm về chính mình. Tại sao vậy? Thưa mỗi mục tử đơn giản chỉ là “dấu chỉ” của Chúa Giêsu là Mục Tử. Vậy chúng ta suy gẫm trang Tin Mừng này và tìm cách sống bằng cách sống hiệp thông giữa chúng ta để chúng ta hiểu biết Chúa Kitô cách sâu xa và thuộc trọn về Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, tương quan giữa mỗi người với Chúa Phục Sinh được chỉ ra trước hết là mối quan hệ “thuộc về”: chiên không thuộc về kẻ trộm nhưng thuộc về mục tử. Thuộc về trước hết là sự nhận biết hỗ tương: “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Sự nhận biết này rất quan trọng, chúng ta thuộc về Chúa khi chúng ta đón nhận Lời Chúa Giêsu (“chúng sẽ nghe tiếng Ta”). “Biết Chúa Giêsu là Mục Tử” là nghe tiếng Chúa và đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Nhớ lại lời đề nghị của Chúa Giêsu: “Mùa lúa thật nhiều, mà thợ gặt lại ít! Chúng con hãy cầu xin Chủ Mùa sai nhiều thợ đến gặt lúa!” (Mt 9,37), chúng ta ý thức thật nhiều về nhu cầu phải cầu nguyện cho những ơn gọi linh mục và ơn gọi sống đời tận hiến. Chúng ta hãy xin Chúa Cha trên trời đốt nóng tâm hồn những người trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng Chúa, đồng thời xin Chúa phù giúp các linh mục mà Chúa đã ban cho cộng đoàn Dân Chúa. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam