Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1370585

VIẾN TƯỢNG GIÁO HỘI CHÚA KITÔ

Viễn tượng Giáo Hội Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

 

Viễn tượng của Giáo Hội duy nhất mà Chúa Giêsu tiên báo trong đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 6,30-34 gợi cho dân Chúa nhiều suy nghĩ sâu sắc. Hình ảnh nói đến đoàn chiên không người chăn dắt là hình ảnh của Giáo Hội còn bị chia năm sẻ bảy, còn sống rải rác, tản mác thành nhiều khối. Đức Kitô đau buồn, suy tư về viễn ảnh đàn chiên trở nên một cũng là hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô hôm nay.

Đức Kitô đã đến trần gian, sự hiện diện của Người nói lên tình thương bao la của Người đối với thế giới, nhân loại và con người. Chúa Giêsu đã sống giữa con người, sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã tham dự vào mọi biến cố của con người, mọi trạng huống của lịch sử con người. Nhiều người đã nhận ra Ngài, nhiều người đã tôn kính mến phục Ngài, nhưng còn biết bao người sống giữa Ngài, bên Ngài, từng tiếp xúc với Ngài, nhưng không bao giờ nhận ra Ngài. Thậm chí có người còn khinh chê, phỉ báng và mắng nhiếc Ngài. Lịch sử nhân loại kéo dài, Đức Kitô can thiệp vào lịch sử ấy với ý định cứu chuộc con người và ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Nhiều người từ chối sự có mặt của Ngài, chối bỏ bản thể của Ngài, thậm chí có người lại còn lên án Ngài và muốn giết Ngài. Chính những người sống bên cạnh Chúa, sống cùng Chúa đã lên án Chúa. Giuđa Iscariốt là một người trong mười hai môn đệ của Chúa đã bán và nộp Ngài cho quân dữ đem đi đóng đinh.

Sống với Chúa, nhưng vẫn từ chối Chúa, đó là hình ảnh của Giáo Hội bị phân ly, chia năm sẻ bảy, chưa thống nhất, chưa liên kết với nhau trong niềm tin. Cây nho đích thực chính là Chúa Giêsu. Mọi thành phần trong Giáo Hội là chi thể của Ngài. Chi thể có liên kết với thân, với đầu mới có sự duy nhất, liên kết trong một khối. Hình ảnh ấy phải là hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Giêsu Kitô trong Tin Mừng Marcô 6,30-34 đưa ta tới hình ảnh của ràn chiên. Chiên có ở trong ràn mới gợi lên sự duy nhất của nó. Nếu chiên sống rải rác, sống phân lìa sẽ chỉ nói lên tính rời rạc, tan tác của ràn chiên. Viễn ảnh này làm nổi bật tính phân lìa của Giáo hội: Một Chúa, nhưng nhiều giáo phái. Mỗi giáo phái đều nhân danh Chúa nói lên sự thật, nhưng vẫn sống xa nhau, chưa trở nên một như Đức Kitô mong muốn: “…để hết thảy chúng nên một cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta. Và thế gian tin là Cha đã sai con” (Ga 17,21). Lời nguyện cầu của Chúa Giêsu có sức mạnh nối kết mọi người trong niềm tin (Ga 17,20-26) và sẽ làm cho thế giới tin vào sứ mạng của Chúa Giêsu đối với nhân loại (Ga 3,17).

Đức Giêsu đã thiết lập Giáo Hội của Ngài nơi trần gian này. Thoạt đầu, Ngài đã chọn mười hai môn đệ. Các môn đệ thường xuyên ở bên Chúa, nghe Ngài giáo huấn về giáo lý của Ngài. Ngài huấn luyện các môn đệ để các Ngài trở thành những kẻ đánh cá người (Mc 1,17). Vì là một tổ chức, nên Chúa đã chọn Phêrô làm đầu Giáo Hội. Ngài nói: “Ta bảo thật với con, con là Phêrô (nghĩa là đá) và trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta” (Mt 16,18). Việc Ngài chọn

Phêrô làm đầu Giáo Hội, có nghĩa Ngài xây dựng Giáo Hội trên nền móng các tông đồ. Nhờ nền móng ấy, Giáo Hội luôn tồn tại và vững bền. Ngài còn so sánh Giáo Hội với tấm lưới thả xuống biển trong đó có lẫn cá tốt và cá xấu. Ngài cũng gọi Giáo Hội là thuở ruộng mà cỏ lùng và lúa chỉ được phân loại lúc gặt lúa. Hay, Ngài còn so sánh Giáo Hội của Ngài là đàn chiên và Ngài là chủ chiên. Việc so sánh của Chúa Giêsu về Giáo Hội với cánh đồng lúa, mạng lưới, đàn chiên là để nói lên sự duy nhất của Giáo Hội Chúa Kitô. Một sự duy nhất có đầu, có cuối: đầu là Chúa, chi thể là mọi người. Ngài thiết lập Giáo Hội như một xã hội có tổ chức hẳn hoi với mọi quyền năng Ngài ban cho các môn đệ và những người kế tục sứ vụ của các môn đệ. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Những gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Những gì các con cỏi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 18,18). Quyền hành Chúa trao cho các môn đệ, như một đoàn thể, Ngài đã trao cách đặc biệt cho Phêrô, Người được chọn làm thủ lãnh Giáo Hội. Chúa ra lệnh cho Phêrô và mọi tông đồ: “Hãy đi khắp nơi, giảng dậy muôn dân, rửa tội họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; dậy họ tuân giữ mọi điều Ta truyền cho các con và này Ta hằng ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế” (Mt 28,18-20). Sự duy nhất của Giáo Hội còn được thể hiện qua việc, Chúa Giêsu nguyện cầu cho mọi người được nên một:” Xin cho họ được nên một” (Ga 17,21), cũng như Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người được nên một trong Giáo Hội của Chúa và xin Ba Ngôi Thiên Chúa cầu cho mọi người liên kết mật thiết trong tình thương của Thiên Chúa.

 

 

 

 

 

72. Chúa Nhật 16 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

 

Hình ảnh người chăn chiên xuất hiện thường xuyên trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia đã minh chứng Thiên Chúa luôn lo lắng cho dân như một mục tử nhân lành lưu tâm, săn sóc cho từng con chiên một và thánh vịnh 23 cũng nói lên nguồn cảm hứng sâu xa ấy: Thiên Chúa xuất hiện qua Con Người của Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Ngài, Chúa Giêsu tự coi mình là Đấng Chăn chiên hiền lành chăm sóc, hướng dẫn đoàn chiên, ban lương thực cho chiên và nhất là đem Lời của Người để nuôi dưỡng đức tin cho đàn chiên của mình.

Thực tế, trong cuộc đời phục vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, cái ưu tư lớn nhất và khẩn thiết nhất của Ngài là nuôi dân đang khát khao nghe lời bằng chính lời của Ngài. Vì thế, khi các môn đệ vâng lệnh Chúa đi rao giảng, trở về bao quanh Chúa Giêsu, họ muốn kể lại mọi chuyện cho Chúa nghe, nhưng đám đông dân chúng cứ bám sát các Ngài, đòi Chúa phải thực hiện những điều ngoạn mục để họ hoan hô, tôn vinh. Còn Chúa, Ngài không bao giờ muốn dân chúng đề cao Ngài hay tôn vinh Ngài, Chúa chỉ làm bổn phận của mình vì Chúa Cha, vì tình hiếu thảo của Ngài đối với Cha của Ngài. Chúa muốn các môn đệ rút vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, dưỡng sức và thư giãn để tiếp tục sứ mạng rao giảng, nhưng dân chúng cứ ùa theo các Ngài khiến các Ngài không có giờ ngơi nghỉ và ăn uống, trời lại tối và cảnh tĩnh mịch, hoang liêu, xa nhà, xa làng, dân chúng lại đói, nên Chúa Giêsu đã nghĩ tới lương thực nuôi họ và như thế phép lạ hóa bánh ra nhiều đã xẩy ra. Ở đây, cuộc đời của Chúa Giêsu có thể gồm tóm trong câu: “Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương” (Mc 6,34) và Tin Mừng viết tiếp: “vì họ như bầy chiên không người chăn dắt và Người bắt đầu dậy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,34). Đây là tất cả mạc khải về tình yêu của Chúa Giêsu đối với nhân loại, đối với con người. Trong thời Chúa Giêsu, nơi dân Do Thái có biết bao kẻ giỏi giang, thông thái, các luật sĩ, biệt phái là những người có đủ sức để dậy dỗ dân, nhưng những lời dậy dỗ của họ không phát xuất tự Thiên Chúa mà do họ bầy ra, những lời của họ đáng lẽ giải phóng dân, làm cho dân được cởi mở, nhưng trái lại những lời của họ sai sự thật, trái với lương tâm cho nên nó trở thành ách nặng nề đối với dân, dân Chúa vẫn đói, vẫn khao khát sự thật. Chính vì thế, nhân loại muôn thời sẽ hiểu tại sao dù bất cứ Chúa Giêsu và các môn đệ ở đâu, dân chúng cũng ùa tới với các Ngài, khiến các Ngài không còn một chút thì giờ để ngơi nghỉ, để ăn uống. Chúa Giêsu quả thực đã cho dân thấy rõ sự khác biệt giữa lời giảng dậy của Ngài, của các môn đệ Ngài với lời dậy dỗ của các ký lục, biệt phái và luật sĩ. Chúa Giêsu đã chỉ ra rằng lời giảng

dậy của các luật sĩ, biệt phái, ký lục đưa dân tới chỗ chia rẽ, đẩy dân ra khỏi đền thờ, khỏi hội đoàn, khỏi xã hội loài người. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã cho dân tiếp xúc với tình thương, với con tim quảng đại, với sự nhạy cảm tha thứ của Ngài. Chúa Giêsu đã đưa dân vào nước trời, vào tình thương vô biên của Chúa hay như ngôn sứ Giêrêmia và tác gỉa thánh vịnh 23 đã nói: “Chúa chính là Đấng chăn chiên lành đã dẫn chiên tới những cánh đồng xanh mát”. Chúa chính là mục tử nhân hậu Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.

Chúa Giêsu đã không ngừng gặp gỡ dân của Ngài, mỗi lần tiếp xúc, mỗi lần giảng dậy, loan báo một sứ điệp, Chúa Giêsu luôn tỏ ra ân cần, Ngài thấy trước những nhu cầu, những khát vọng của dân. Phép lạ vẫn xẩy ra khi con người có lòng tin, khi con người sẵn sàng cộng tác với Chúa. Chúa làm phép lạ cho cá và bánh hóa ra nhiều để nuôi đoàn lũ đông đảo dân chúng đi theo Ngài. Trước khi làm phép lạ, Chúa đã trao ban cho họ lời sự thật, lời hằng sống. Chúa trao cho dân những gì là quí nhất, những gì là đẹp nhất của Ngài. Ngài chạnh thương đám đông, đang náo nức kéo đến và háo hức gặp Chúa Giêsu cùng các môn đệ của Ngài vì thực ra họ không biết đi đâu. Đám đông dân chúng không biết phải nói gì, nhưng họ đang chờ đợi, và đợi chờ tất cả nơi Chúa. Sự nô nức, nôn nao, háo hức của đám đông dân chúng đã được Chúa đáp trả bằng tình thương của Ngài. Chúa đã nói với họ bằng lời sự sống, Ngài đã mở mắt cho họ và khơi dậy trong lòng họ ngọn lửa đức tin để họ nhận ra Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài. Ở muôn thời, Chúa vẫn tiếp tục làm phép lạ và phép lạ lớn nhất là chính phép lạ Chúa sống lại khải hoàn sau khi yêu nhân loại đến hy sinh cả mạng sống của mình. Chúa tiếp tục mời gọi nhân loại tin và sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống mới, sự sống vĩnh cửu của Ngài và sống theo ý của Ngài. Phép lạ đã xẩy ra sau khi Chúa thấy đám đông nhiệt tình theo Chúa để lắng nghe Chúa dậy bảo… Chúa không những nuôi nhân loại bằng Lời, nhưng còn cả bằng lương thực trần gian. Chúa là một con người rất thực tế, gần gũi và hiểu con người. Tin Mừng là con người, là Đức Giêsu Kitô và tin vào Đức Kitô, phép lạ vẫn tiếp tục xẩy ra trong cuộc sống…

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm Chúa đang có mặt và đồng hành với chúng con từng phút giây trong cuộc đời.

 

 

 

 

 

73. Đồng xanh yêu thương

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Con người rất yếu đuối. Hứa nhiều mà chẳng giữ đươc bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao lần. Cả đời biết bao lần ăn năn mà vẫn chưa “nên người”. Đúng là không có Ơn Chúa thì con người không thể làm được gì (Ga 15:5), và Chúa đòi buộc chúng ta phải “từ bỏ mọi sự” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Thế nên, sách Huấn ca có những lời cầu nguyện để chúng ta học hỏi: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Chúa Tể đời con, xin đừng để mặc con chiều theo sở thích của môi miệng, đừng để nó làm con vấp ngã. Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều, con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười” (Hc 23:1-3). Rất nhiều thứ nguy hiểm vây quanh chúng ta hằng ngày, sơ sảy một chút là “mắc mưu ma chước quỷ” ngay lập tức. Vì thế, chúng ta không chỉ phải cảnh giác mọi sự mà còn phải canh chừng chính mình: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mắt con trâng tráo, xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:4-6).

Ai cũng mong muốn được sống an bình thư thái, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy ở nơi Chúa. Muốn vậy thì phải biết khước từ tội lỗi và sống phó thác cho Ngài quan phòng. Khi đó, chúng ta có thể hạnh phúc nói: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. Thật vậy, chúng ta không thể im lặng khi niềm vui dâng trào, nên phải thổ lộ: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” [Tv 22 (23):2-3]. Và rồi vui mừng với niềm tin tưởng thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” [Tv 22 (23):4]. Không nói Chúa cũng biết, nhưng bổn phận người hàm ơn phải biết ơn và không thể không bày tỏ điều đó ra: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” [Tv 22 (23):5]. Niềm hạnh phúc đó còn được “khoe” với người khác, đó là chia sẻ với tha nhân để cùng vui mừng với nhau: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” [Tv 22 (23):6].

Sau thời gian sống u buồn ảm đạm vì vắng bóng Thiên Chúa, giờ đây chúng ta sống bình an trong niềm hạnh phúc kỳ diệu “và con tim đã vui trở lại” (ca khúc của Ns Đức Huy).

Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Vì yếu đối, vì sa ngã, vì tội lỗi mà chúng ta xa cách Chúa, nhưng nhờ giá Máu cứu chuộc của Ngài mà chúng ta lại được tiếp cận Ngài, được Ngài thương nhận là con cái. Thật hạnh phúc biết bao! Đó là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa mà thôi. Lòng thương xót ấy phát xuất từ Thánh Tâm nhân từ của Đức Giêsu. Không có lòng thương xót đó thì chúng ta phải trầm luân đời đời!

Con cái phải lìa xa cha mẹ là nỗi khổ, yêu nhau mà không được gần nhau là nỗi khổ. Khổ thì mệt. Mệt tinh thần kéo theo mệt thể lý. Mệt nào cũng cần được nghỉ ngơi hợp lý. Khi gia đình đoàn tụ, khi những người yêu nhau được gần nhau, niềm vui bừng lên và dâng cao như nước thủy triều.

Thật vậy, chính Ngài là bình an của chúng ta: “Ngài đã liên kết dân Do-thái và dân ngoại thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Ngài đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” (Ep 2:14-15). Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Ngài đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài. Hai “đối thủ” hài hòa và sống hòa bình trên cánh đồng xanh mướt yêu thương. Đó là “nhờ thập giá mà Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho chúng ta là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và cũng chính nhờ Ngài, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2:18).

Theo tường thuật của Thánh sử Mác-cô, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy. Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Công việc bận rộn, làm gì cũng mệt, làm ít mệt ít, làm nhiều mệt nhiều. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài cũng rất tâm lý nên thương các ông mà bảo các ông “nghỉ ngơi đôi chút”, tức là Ngài bảo chúng ta làm gì thì cũng cần có những giây phút tịnh tâm (tĩnh tâm hoặc cấm phòng) để không chỉ để phục hồi thể lý mà quan trọng hơn là phục hồi tinh thần, đặc biệt là tâm sự với Chúa để tâm hồn được nghỉ ngơi và bình an. Cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận nói: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động”.

Hôm đó, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Thế nên thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy thầy trò đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Chúa Giêsu thu hút mọi người không chỉ vì Ngài luôn nói lời hay ý đẹp, dạy chân lý cao siêu, làm những việc kỳ diệu, mà chắc hẳn Ngài ăn nói rất có duyên và chí lý nên người ta mới tâm phục khẩu phục như vậy. Chính Ngài đã từng khuyên nhủ: “Khôn như rắn, hiền như bồ câu” (Mt 10:16).

Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6:34). Thánh Tâm thương xót của Ngài không thể chịu được khi thấy người ta nghèo khổ và vất vưởng giữa cuộc đời, thế nên Ngài luôn động lòng trắc ẩn, và Ngài muốn chúng ta cũng phải biết xót thương nhau như vậy, không chỉ xót thương bằng lời nói suông mà còn phải thể hiện bằng hành động thực tế. Như Thánh Giacôbê đã xác định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17). Là ích kỷ nếu tôi được nghỉ ngơi trong đồng xanh yêu thương của Chúa khi người khác phải long đong khốn khó, cũng là ích kỷ nếu tôi chỉ lo cho phần rỗi của tôi mà bỏ mặc người khác!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết kết hợp và cân bằng giữa hoạt động với cầu nguyện. Xin giúp chúng con biết cùng dìu nhau vào Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

74. Chạnh lòng – Trầm Thiên Thu

 

Một danh nhân đã nhận định: “Chỉ có những người biết yêu thương thì mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Một câu nói khá nhẹ nhàng mà lại khiến lòng người “nhức nhối” lắm.

Trong những ngày vừa qua, các phương tiện truyền thông “nóng lên” về chuyện những người có “máu lạnh” – tài xế cho xe ủi đất cán chết một phụ nữ trong vụ tranh chấp đất đai ở Hải Dương, hoặc sát thủ Nguyễn Hải Dương ra tay hạ sát 6 nạn nhân tại Bình Phước. Họ là ai? Họ là con người nhưng không hề biết chạnh lòng thương người khác.

Ai cũng phải yêu thương vì đã được Thiên Chúa xót thương. Không yêu thương là ích kỷ, là chống lại chính Thiên Chúa. Mà dám chống lại Thiên Chúa thì số phận học sẽ như thế nào? Chắc hẳn ai cũng biết. Người đời cũng vẫn nói: “Không sợ người hại, mà chỉ sợ Trời hại”. Chắc chắn “chạy trời không khỏi nắng”.

Bất cứ ai không biết chạnh lòng trước cảnh khổ của người khác thì đều là kẻ bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nếu người đó là người lãnh trọng trách chăm lo cho người khác. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!

Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!

Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!

Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!

Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,…

Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23:5-6).

Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).

Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.

Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).

Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.

Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.

Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.

Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.

Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Ngài dạy họ cách sống vì thương xót họ, thương xót vô điều kiện.

Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!

Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,…

Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!

Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.

Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.

Trong Tông thư Laudato Si (Chúc Tụng Thiên Chúa), ĐGH Phanxicô có đề cập một cách sống độc đáo theo tinh thần của Đức Giêsu Kitô: “Hãy sống khôn ngoan, hãy suy nghĩ sâu sắc, hãy yêu thương rộng lòng”. Ước gì mỗi chúng ta đều biết thể hiện lòng thương xót đối với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn, những người bị xã hội ruồng bỏ, có làm vậy thì chúng ta mới xứng đáng nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Lòng Chúa Thương Xót, đời đời con ca tụng – Misericordias Domini in aeternum cantabo” (Tv 89:1).

Lạy Thiên Chúa giàu lòng xót thương, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ (Tv 51:12) để con biết thương xót tha nhân như chính mình. Xin cho các Kitô hữu luôn cố gắng sống xứng đáng kiếp người trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

 

 

 

 

75. Chuyện ăn uống

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

“Có thực mới vực được đạo”. Đó là câu người ta thường nói, cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết cơ bản nhất để duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường.

Chúa Giêsu là người rất thực tế. Ngài chăm lo từ những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, và chính Ngài cũng đã xác định tại Bêtania: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).

Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người ta khinh miệt, và vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869-1948).

Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8-9).

Chuyện ăn uống bình thường mà quan trọng. Điều đó liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.

Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!

Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!

Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!

Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!

Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,…

Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23:5-6).

Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).

Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.

Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).

Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.

Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.

Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.

Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.

Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Tuy nhiên, bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Ngài và thưa chuyện về việc cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn, vì ở đó hoang vắng và trời đã khá muộn. Nhưng Ngài nói tỉnh bơ: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!”. Mèn ơi! Các ông vừa gãi đầu vừa nói với Ngài: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?”. Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phh tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8), gấp 10 lần số tiền ông Giuđa bán Thầy.

Ngài biết các ông chỉ có nước “bó tay” mà thôi, thế nên Ngài bảo các ông đi xem có mấy chiếc bánh. Khi dò hỏi, họ thưa với Ngài là có năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh, ngồi thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. Rồi Ngài cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng, cả hai con cá cũng được chia đều như vậy. Ai nấy đều ăn và được no nê, người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông. Nếu tính cả số phụ nữ và trẻ em “ăn theo”, con số có thể lên tới chục ngàn người.

Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là “dấu chỉ” báo trước về Bí tích Thánh Thể, đồng thời cho chúng ta thấy rằng nhu cầu ăn uống liên quan chuyện sinh tồn – cả thể lý và tâm linh. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Vâng, quả thật là “có thực mới vực được đạo”.

Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!

Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,…

Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!

Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.

Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con không dám xin Ngài ban cho con những điều con muốn, mà con xin được can đảm chấp nhận và mau mắn thay đổi theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin ban cho mọi người có đủ lương thực hàng ngày, để nhờ đó mà họ có thể sống xứng đáng con người, đồng thời an tâm phụng sự Ngài hết linh hồn và hết sức lực. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ giàu lòng xót thương. Amen.

THIÊN CHÚA MỜI GỌI

Được làm người là lời Chúa mời gọi

Cố nuôi dưỡng và sống trọn đức tin

Sống yêu thương chân thành cả con tim

Biết trắc ẩn, chạnh lòng thương người khác

Sống khiêm nhu, biết chấp nhận thua thiệt

Sống đoàn kết huynh đệ một gia đình

Biết phục vụ, dấn thân và quên mình

Sống đại lượng, mọi chuyện đều tha thứ

Sống cương trực, quyết bảo vệ công lý

Vì chân lý, sống trong hy vọng luôn

Sống đơn sơ, giản dị và nhân hiền

Thu nhỏ mình để Thiên Chúa lớn mạnh

Trầm Thiên Thu

 

 

 

 

 

76. Suy niệm của Lm. Đan Vinh

KHIÊM HẠ VÀ NHIỆT TÌNH PHỤC VỤ NOI GƯƠNG MỤC TỬ GIÊSU

 

HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Đức Giêsu là một mục tử tốt lành. Người đã bảo các môn đệ đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi sau những ngày truyền giáo vất vả. Nhưng khi thuyền cập bến, thấy đám đông dân chúng từ xa kéo đến muốn được nghe giảng Tin Mừng thì Người lại “chạnh lòng xót thương” nên không nghỉ ngơi nữa để tiếp tục phục vụ họ.

CHÚ THÍCH:

– C 30-31: + Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu và kể lại cho người biết mọi việc: Sau cuộc thực tập truyền giáo, các Tông Đồ đã họp lại quanh Thầy để báo cáo công tác rao giảng kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12), hành động trừ quỉ và xức dầu chữa bệnh nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13). + Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút: Lời này cho thấy Đức Giêsu cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi làm việc truyền giáo nên cần có thời gian thư giãn để hồi phục sức khỏe cả về thể xác cũng như tâm hồn. + Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống:Dân chúng kéo tới tấp nập gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đã đi theo Mô-sê trong hoang địa Xi-nai trên đường về Đất Hứa. Đây cũng là kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo vừa qua của các Tông đồ: Các ông đã làm cho người ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và khao khát đi tìm Người để được ơn cứu độ.

– C 32-33: + Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng: Đức Giêsu muốn cho các Tông Đồ vào nơi thanh vắng để họ được sống thân tình với Người và được hồi phục sức khỏe thể xác tâm hồn. + Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài: Thấy thầy trò lên thuyền, nhiều người đoán các ngài sẽ đến miền Bét-sai-da và Giu-li-a cách đó chừng 10 cây số. Họ không ngại đường xa, đi bộ ven bờ hồ và đến nơi trước các ngài. Khi đã yêu mến Chúa thì tình yêu ấy sẽ thôi thúc người ta vượt qua trở ngại để đến với Người, như lời Thánh Phao-lô: “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).

– C 34: + Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương: “Chạnh lòng thương” hay “Động lòng trắc ẩn”, là một tình cảm sâu xa bắt nguồn từ nội tâm và biểu lộ ra bằng hành động. Tin Mừng đã nhiều lần thuật lại các phép lạ Đức Giêsu làm do động lòng thương” như: Chữa hai người mù tại Giê-ri-cô (x. Mt 20,34), phục sinh con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,13), chữa một đứa bé mắc bệnh động kinh vì bị quỷ ám (x. Mc 9,22). + Vì họ giống như đoàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt: Đây là hình ảnh đáng thương của dân Ít-ra-en thời bấy giờ. Những người đầu mục là các tư tế và các kinh sư, lẽ ra phải dạy dỗ dân thì lại lười biếng và chỉ lo tìm kiếm tư lợi như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình ! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên đó sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi giết, còn đàn chiên thì các ngươi lại không lo chăn dắt: Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; Chiên bệnh tật các ngươi không chữa lành; Chiên bị thương các ngươi không băng bó; Chiên đi lạc các ngươi không đưa về; Chiên bị mất các ngươi không đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta vì thiếu mục tử chăn dắt nên biến thành mồi ngon cho dã thú, chúng chạy toán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,1-6). + Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Đức Giêsu đặt nặng sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời, nên khi cần, Người sẵn sàng vượt qua chương trình nghỉ ngơi đã định trước. Tin Mừng Lu-ca viết: “Đức Giêsu tiếp đón họ, nói về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9,11).

CÂU HỎI:

1) Các Tông Đồ đi truyền giáo về đã họp lại báo cáo những gì với Đức Giêsu?

2) Câu nào cho thấy Đức Giêsu luôn nghĩ đến người khác, nghĩ đến nỗi vất vả của các Tông Đồ khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời?

3) Kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo của các Tông Đồ là gì?

4) Đức Giêsu muốn cho các Môn đệ vào nơi thánh vắng để làm gì?

5) Dân chúng biểu lộ lòng yêu mến Đức Giêsu và hâm mộ nghe lời Người giảng qua hành động nào?

6) Chạnh lòng thương nghĩa là gì? Tin Mừng ghi nhận Đức Giêsu làm gì khi “chạnh lòng thương” dân chúng?

7) Tin Mừng dùng hình ảnh nào để diễn tả sự đáng thương của dân chúng lúc đó? Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tuyên sấm Lời Thiên Chúa quở trách các mục tử Ít-ra-en như thế nào?

8) Đức Giêsu đã làm gì để đáp ứng nhu cầu của dân chúng?

SỐNG LỜI CHÚA

LỜI CHÚA: Đức Giêsu bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.- “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,31.34):

CÂU CHUYỆN: Hai thái độ phục vụ phát sinh hai hiệu quả khác nhau:

Pri-Mơ-Năng (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại kinh nghiệm truyền giáo trong cuốn tự thuật sau: “Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là: “Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau: Bản thân tôi hay bất cứ ai trong số các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người Ấn Độ có trình độ cao, theo đạo rồi hay chưa, mà lại có thái độ nóng nảy miễn cưỡng… với lý do không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghỉ trưa… thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất liên lạc với người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giơ quay trở lại nữa!”.

Pri-Mơ-Năng tiếp tục đề cập đến câu chuyện về một vị giám mục người ngoại quốc lúc đó đang cai quản giáo phận Băng-gan thuộc Ấn Độ như sau: Một hôm, ông Păng-Đi Vi-Đi-Sa-Ga (Pandit Vidyasagar); sáng lập viên trường cao đẳng Ấn Độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ông được các người theo Ấn giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng giao hảo với cộng đồng Giáo hội Công giáo mà vị giám mục là đại diện. Nhưng sự việc đã xảy ra lại thật đáng tiếc: Vị giám mục đã không trực tiếp gặp gỡ phái đòan, mà chỉ sai linh mục thư ký ra tiếp qua loa, khiến ông Păng-Đi ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ mình bị coi thường. Sau đó, ông ta đã thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như quí tộc, trí thức, những người giàu có và có thế lực… Đảng này thề chống lại Giáo hội Công giáo, và tìm mọi cách ngăn chặn sự bành trướng của Ki-tô giáo tại nước Ấn Độ.

THẢO LUẬN:

Một thanh niên kia tính tình ngang bướng đã gặp nhiều khó khăn khi tiến hành thủ tục hôn phối. Sau khi lấy được vợ, anh luôn cảm thấy uất ức và căm ghét đạo Công giáo, đặc biệt là các vị mục tử. Anh cho biết lý do bỏ đạo như sau: “Tôi đã gặp bao nhiêu phiền hà về thủ tục hành chành nơi các viên chức ngòai đời. Hy vọng sẽ gặp được thái độ khoan dung nhân ái nơi các vị mục tử trong đạo. Nhưng một lần nữa tôi lại gặp phải bao nhiêu rắc rối phiền hà về thủ tục hành chánh trong đạo!” Từ đó anh không thèm đi nhà thờ dự lễ Chúa Nhật mà đưa vợ con đến các buổi giảng Thánh kinh tại nhà thờ Tin Lành gần đó. Về sau, khi được một bà cô đạo đức khuyên bảo thì anh đã trả lời như sau: “Cháu cám ơn cô đã khuyên bảo. Nhưng từ nay xin cô đừng bao giờ nói về đạo với cháu nữa. Vì từ khi cháu bỏ được cái đạo Công Giáo này, cháu cảm thấy tâm hồn thật thoải mái bình an, giống như trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân. Xin cô thông cảm và cho cháu được tự do theo ý cháu muốn!”.

1) Theo bạn, lý do chàng thanh niên trong câu chuyện trên nêu ra để biện minh cho việc bỏ đạo là đúng hay sai? Tại sao?

2) Bạn sẽ phản ứng thế nào nếu gặp phải hòan cảnh như chàng thanh niên trên để chứng tỏ bạn có một đức tin trưởng thành?

SUY NIỆM:

Thật đáng tiếc khi chỉ vì cách ứng xử thiếu khôn ngoan tế nhị của người có trách nhiệm trong Giáo hội mà một cơ hội thuận lợi cho việc truyền giáo đã bị bỏ qua! Chính do thái độ câu nệ hình thức và quan liêu của một vị mục tử đã biến một con người đang có thiện chí muốn giao hảo trở thành một kẻ thù nguy hiểm cho Hội thánh sau này. Ngày nay vẫn không thiếu những cách xử sự cứng nhắc vụ luật, thiếu cảm thông và thiếu bác ái của một vài vị mục tử, trái với thái độ dấn thân phục vụ và biết “chạnh lòng xót thương” của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Người không nặng lời trách mắng và từ chối những người tội lỗi công khai đến với mình, không ngại tiếp xúc và tận tình phục vụ những người nghèo hèn đau khổ và bất hạnh. Người lắng nghe các môn đệ báo cáo công tác đã thực hiện được và sẵn sàng thích nghi thay đổi dự định nghỉ ngơi để tiếp tục công việc rao giảng và chữa bệnh cho nhiều người, vì “họ bơi vơ như bầy chiên không người chăn dắt”.

a) Ân cần phục vụ:

Mỗi người chúng ta hôm nay tuy cần phải tổ chức sắp xếp nhà cửa và sinh hoạt theo thời khóa biểu hợp lý, nhưng luôn phải ưu tiên cho việc loan báo Tin mừng. Những ai có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn cần phải tránh lối hành xử quan liêu, cứng nhắc và thiếu bác ái mục tử… vì dễ gây sự bất mãn có hại cho sứ vụ loan Tin mừng. Làm cho nhiều người lương hay những người kém đức tin bị bức súc không còn muốn đến nhà thờ để gặp gỡ các vị chủ chăn.

b) Cảm thông phục vụ:

Đức Giêsu luôn thể hiện sự cảm thông với nỗi đau của con người: Người đã khóc thương thành Giê-ru-sa-lem sắp bị hủy diệt (Lc 19,44), Ngừơi cảm thông với tiếng khóc của một bà góa đang khóc thương đưa xác đứa con trai duy nhất đi chôn tại thành Na-im và Người đã phục sinh đứa con ấy trao lại cho bà (Lc 7,11-17); Người khóc thương anh Lazarô đã chết chôn trong mồ được bốn ngày và đã truyền cho anh hãy trỗi dậy ra khỏi mồ (Ga 11,1-14)… Đức Maria cũng thể hiện thái độ bác ái khi cảm thông nâng đỡ đôi tân hôn tại thành Ca-na. Mẹ đã cầu xin Đức Giêsu làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon để giúp đỡ cho đôi tân hôn (x. Ga 2,1-11). Thánh Phaolô cũng dạy các tín hữu chúng ta phải biết cảm thông và phục vụ tha nhân: ”Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).

c) Dấn thân phục vụ:

Đức Giêsu luôn quên mình khi phục vụ tha nhân: Người sẵn sàng đi đến nhà ông trưởng hội đường tên Gia-ia để chữa cho con gái của ông ta sắp chết (Mc 5,21-24.35-43). Người sẵn sàng đến nhà viên đại đội trưởng ngọai giáo để chữa bệnh cho người đầy tớ được ông ưu ái. Người dành tòan bộ thời gian cho việc rao giảng Tin mừng và chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền trong dân… Trong thực hành, thái độ hy sinh quên mình phục vụ tha nhân thật không dễ làm chút nào. Chỉ khi có tình thương thực sự, chúng ta mới có thể hết mình dấn thân phục vụ tha nhân. Một bà mẹ đang nuôi con thơ, sẽ không khó chịu khi phải thức dậy nhiều lần trong đêm để dỗ dàn, chấp nhận nằm chỗ ướt trên chiếu và nhường chỗ khô ráo cho con, sẵn sàng thay đổi dự tính dành tiền đầu tư cho việc chữa trị bệnh nặng cho đứa con đau liệt. Còn chúng ta cần phải phục vụ tha nhân như thế nào trong những ngày sắp tới noi gương Đức Giêsu mục tử?

LỜI CẦU:

Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và cầu nguyện tha thiết với Chúa Cha.

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng, xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ganh ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Hiệp cùng Mẹ Maria

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

 

home Mục lục Lưu trữ