Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 81

Tổng truy cập: 1365984

VỘI VÃ LÊN ĐƯỜNG

Vội vã lên đường _ Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu, SJ.

 

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta gặp hai phụ nữ.

Cả hai đang mang thai lần đầu cách diệu kỳ.

Cả hai đều được Thiên Chúa đoái thương tuyển chọn.

Theo lời sứ thần, Ðức Maria đi thăm bà Êlisabét.

Hai bà mẹ gặp nhau tạo điều kiện cho hai thai nhi gặp nhau.

Ðấng Cứu độ nhân loại đi thăm vị Tiền hô của mình.

Cuộc gặp gỡ thật bình thường, nhưng lại rất linh thánh,

được diễn ra trong bầu khí tràn ngập Thánh Thần.

Thánh Thần vẫn luôn tác động trên Ðức Maria,

và làm cho thai nhi Giêsu lớn lên từng ngày.

Thánh Thần đã đầy tràn Gioan từ trong lòng mẹ

khiến ông nhận ra Ðức Kitô và nhảy mừng chào đón.

Thánh Thần bỗng chốc đến với bà Êlisabét

làm bà nhận ra điều mắt thường không thấy được,

đó là chuyện cô em Maria thụ thai Ðấng Cứu Thế.

Maria đem đến cho Êlisabét niềm vui và sự phục vụ,

nhưng chính Mẹ cũng nhận được sự đỡ nâng.

Mẹ xác tín hơn về lời thiên sứ loan báo cho mình,

khi Mẹ thấy quả thật bà chị hiếm muộn đã có thai.

Mẹ ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm kín ẩn

mà Mẹ âm thầm đón nhận trong lòng tin,

nay lại được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ.

Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà

đã khiến Mẹ cất lời ngợi khen Thiên Chúa (x. Lc 1, 46-55).

Cuộc đi thăm nào cũng làm tôi hiểu hơn về mình,

và ý thức sâu hơn về những ơn tôi đã lãnh nhận.

Maria biết mình có phúc hơn mọi phụ nữ

vì Mẹ được chọn để cưu mang Ðấng Mêsia.

Maria biết mình diễm phúc, vì dám tin vào Lời Chúa.

Cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét giúp Maria vững tin hơn

vào tính khách quan của kinh nghiệm mình được gặp Chúa.

Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang.

Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ.

Ngài được thụ thai cách lạ lùng trong lòng một trinh nữ,

và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ.

Dạ mẹ là mái nhà êm ấm đầu tiên,

là Ðền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.

Khi được nuôi bằng sự sống của Mẹ Maria,

Con đã thánh hóa tất cả những gì thuộc về Mẹ.

Tất cả những gì nằm trong tiến trình làm người

như thụ thai, mang thai, sinh đẻ, dưỡng nuôi bú mớm…

đều trở nên thánh thiêng, vì được Con Thiên Chúa đảm nhận.

Con Thiên Chúa đã từng là thai nhi trước khi chào đời,

nên mỗi thai nhi đều là hình ảnh Chúa cần trân trọng.

Như Gioan nhảy mừng lúc còn trong dạ mẹ,

mỗi thai nhi đã biết diễn tả buồn vui, đã cần được yêu mến.

Lễ Giáng Sinh đòi ta quan tâm đến các bà mẹ và thai nhi.

Hàng năm có cả triệu vụ phá thai trong nước…

Kính trọng thân xác phụ nữ, tôn trọng sự sống thai nhi:

đó là Tin Mừng Giáng Sinh cho khắp thế giới.

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,

xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ

tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.

Xin ban cho con quả tim đơn sơ,

mau quên những nỗi buồn phiền.

Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,

dịu dàng để cảm thông.

Một quả tim trung thành và quảng đại.

không quên ơn, không báo oán.

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.

yêu mà không mong được yêu lại,

hân hoan xóa mình đi

để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.

Một quả tim vĩ đại và bất khuất,

không khép lại trước những vô ơn,

không chán nản trước người lạnh nhạt.

Một quả tim khắc khoải

lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,

quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,

vết thương chỉ lành

khi được sống với Ngài trên trời. Amen.

 

 

 

 

 

2. Chia sẻ Niềm vui của Tin mừng _ Lm G.B Trần Văn Hào, SDB

 

Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này. Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.

Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii

Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái  trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2)để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.

Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót (x. số 34–36).Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xótnhững ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.

Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng, tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “Hỏa ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.

Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng.

Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49). Ngài viết “Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.

Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa, tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa, ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để chúng ta quy hướng về.

Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng đến cho mọi người.

Kết luận

Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “Thiên Chúa luôn khởi đầu những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại thì rất tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và có ý nghĩa.

 

 

 

 

 

3. Xin vâng ý Chúa

Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

 

Chúa nhật I mùa Vọng báo tin ngày Chúa đến. Chúa nhật II cho thấy Gioan đến dọn đường. Chúa nhật III nói về niềm vui nổi lên vì Chúa đến gần. Còn Chúa nhật IV mùa Vọng hôm nay, chúng ta biết nói gì khi thấy Mẹ Chúa đến viếng thăm? Chắc chắn Phụng vụ, muốn chúng ta gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Ðức Mẹ. Và các bài Kinh Thánh hôm nay, sâu xa đều vẫn muốn nói về Người. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh bài Tin Mừng; Và trong bài Thánh thư nói đến tâm tình của Chúa Kitô khi nhập thể chúng ta có thể thấy chính lòng của Ðức Mẹ.

Và điều này đúng, nghĩa là nếu tâm tình của Chúa Giêsu cũng là tâm lý của Ðức Mẹ thì Chúa nhật hôm nay của Ðức Mẹ cũng là Chúa nhật của chính Ðức Giêsu Kitô, chúng ta thấy cả hai đấng. Chúng ta thấy Ðức Mẹ mang Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở nơi Ðức Mẹ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi Ðức Mẹ, khiến chúng ta trong đời sống chờ ngày Chúa đến, phải biết mến yêu Ðức Maria và bắt chước Người.

1/ Một người nữ thụ thai

Bài sách Mica hôm nay rất thời danh. Nó được coi như lời tiên tri rất sáng sủa về Ðức Giêsu Kitô cứu thế. Nó nói Người xuất thân từ Belem, sinh bởi một người nữ “đồng trinh” và mang uy quyền của Thiên Chúa. Nhưng đọc ở thời Cựu ước, ý nghĩa của nó không rõ rệt như thế đâu.

Trước hết, ở thời xưa không chắc nhiều người đã để ý đến lời tiên tri này. Chính Mica cũng là một nhân vật ít được chú trọng. Ông là một tiên tri nhỏ, sống ở thế kỷ thứ VIII trước Chúa Giêsu Giáng Sinh. Ông hoạt động ở Giuđa, tức là miền Nam. Và chắc ông cũng chỉ tuyên sấm chung chung như mọi ngôn sứ khác. Ðại khái ông tố giác đời sống tội lỗi ở Giêrusalem, tiên báo hình phạt sẽ đến, nhưng khuyên nhủ tin cậy vào thời Phục hưng. Tác phẩm của ông chia làm ba phần rõ rệt như thế, nên người ta có lý để nghĩ rằng nó đã được một bàn tay nào sắp đặt, chứ khi ông rao giảng các tư tưởng không cách nhau như vậy đâu. Nhất là khi nhìn vào đoạn văn trích đọc hôm nay, người ta tưởng đã có một nhà thần học, sống sau ông rất nhiều và đã đào sâu tư tưởng của ông mới có thể viết ra được những lời tiên tri giá trị như vậy. Dù sao chúng ta cũng rất mừng được một bản văn như thế. Và khi đem đọc nó dưới ánh sáng của Tân ước, chúng ta càng thấm thía ý nghĩa của chính tên tác giả. Là vì trong tiếng Do Thái, Mica có nghĩa là: Ai như Thiên Chúa? Ðọc sách Mica, chúng ta sẽ thấy không ai như Thiên Chúa chúng ta. Người thật lạ lùng và công việc của Người thật kỳ diệu.

Quả vậy, ai có thể nghĩ như người? Ðang khi Israen đang bị chà đạp dưới gót giày của các đế quốc khổng lồ, Người tuyên sấm sẽ cứu đoàn dân nhỏ bé của Người. Người sẽ chọn một mục tử để chăn dắt, không những các chiên của Israen mà cả thế giới cũng chỉ là chiên của Người. Ý tưởng Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ là một mục tử, là một ý tưởng rất phổ thông trong sách Cựu Ước. Người ta còn được biết Người thuộc dòng dõi Ðavít nữa. Có lẽ góp hai quan niệm ấy lại, tác giả bài sách Mica hôm nay đã dám bạo viết rằng:

Phần ngươi hỡi Bêlem Ephrata nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa.

Chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta, vị có định mệnh thống lĩnh Israen.

Nhà tiên tri đã được linh ứng để thấy trước việc Ðấng Thiên Sai sẽ xuất thân từ Bêlem, một làng rất nhỏ trong đất Giuđa, hay vì theo lời giao ước Ngài thuộc dòng Ðavít và sẽ là mục tử, nên ở đây nhà tiên tri muốn diễn tả Ngài như một Ðavít mới thật sự và do đó phải xuất từ Bêlem cũng như sẽ phải là một mục tử, như sẽ viết sau này?

Dù sao ý tưởng tác giả muốn nhấn mạnh ở đây không phải là chính Bêlem cho rằng tính cách nhỏ bé nhất của nơi này. Ông muốn nói rằng xét theo lai lịch xác thịt, Ðấng Cứu Thế không có gì đáng kể, nhưng như lời viết sau đây: Nguồn gốc của Ngài lên tới những ngày thuở xưa. Ngài là Con Người mầu nhiệm. Ngài có vẻ sinh ra từ một nơi tối tăm, không có danh tiếng gì; nhưng thật sự Ngài đã hiện diện từ xa xưa, từ thời có những lời hứa đầu tiên và trước cả đó nữa. Ðề cập đến Ngài như vậy Mica còn tỏ ra đáng phục hơn là khi ông nói Ðấng thống lĩnh Israen sẽ xuất thân từ Bêlem. Biết quê hương một người đâu quan trọng bằng biết bản chất con người ấy?

Thế mà Mica không dừng lại ở điểm này. Những lời ông viết tiếp đã được giải thích nhiều cách.

Thông thường thì người ta hiểu rằng: Chúa còn bỏ rơi dân Người cho đến ngày một người nữ sẽ sinh con và khi ấy con cái Israen sẽ được đoàn tụ. Tức là ở trên nhà tiên tri đã nói đến quê quán Ðấng Thiên Sai, giờ đây ông bàn đến thời đại Ngài ra đời cũng như dòng họ của Ngài. Ngài sẽ sinh ra sau thời gian Chúa thử thách dân Người và việc Ngài đản sinh là dấu Chúa đã đoái thương, muốn cứu lại dân và cho họ về đoàn tụ. Còn ai sẽ sinh ra Ngài? Isaia đã nói về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai. Lời tiên tri ấy mầu nhiệm đến nỗi đã ám ảnh tâm trí mọi người. Mica ở đấy chỉ lặp lại… Nhưng dường như ông nghĩ rằng người nữ sinh con kia không là ai khác chính dân Chúa, và chính số dân sót còn lại sau thử thách, số dân nghèo đạo đức còn lại sau nhiều phấn đấu cam go. Ðấng Thiên Sai sẽ sinh ra từ dòng dõi những người này. Ngài sẽ là mục tử dùng sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa để cai trị cả thế giới và ban hòa bình cho muôn dân.

Và như vậy, ở đây chúng ta lại thấy tính cách mầu nhiệm nghịch thường của con người Ðấng Thiên Sai. Ngài sẽ sinh ra từ dòng dõi khó nghèo, nhưng sức mạnh và quyền lực Ngài có lại là của Thiên Chúa.

Do đó toàn bài sách Mica hôm nay đã nói về Ðấng Thiên Sai cứu thế. Tác giả nhấn mạnh đến con người mầu nhiệm của Ngài. Bề ngoài Ngài nghèo khó hèn mọn nhưng thật sự Ngài cao cả quyền uy. Ðấng cứu độ là Thiên Chúa ở trong dân khó nghèo…

Tuy nhiên chúng ta cũng được phép đọc câu “Một người nữ sẽ sinh con” và dừng lại để nghĩ đến Ðức Mẹ. Người cũng bình dị nhưng cao cả vì Người sẽ sinh Ðấng thống lĩnh nhà Israen. Và Ðức Mẹ cũng chính là Dân Chúa, là bông hoa kết tinh của Cựu Ước và là gương mẫu của Hội Thánh ngày nay bắt chước. Chúng ta hiểu lời tiên tri ấy về Người, thì cũng phải hiểu về Hội Thánh và về chính chúng ta, như Mica đã làm cho thế gian thấy Chúa cứu thế đến cứu đời. Và chúng ta sẽ làm được việc ấy nếu biết chiêm ngưỡng Ðức Mẹ và bắt chước Người. Do đó chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay.

2/ Bà là Mẹ Thiên Chúa

Chúng ta hết thảy đều biết: Buổi đầu khi các Tông đồ khởi sự truyền giáo, các ngài đã rao giảng về Ðức Giêsu cho người ta, theo một dàn bài rõ rệt, tức là khởi sự từ ngày Người chịu Gioan rửa cho tới khi Người chịu chết – sống lại – lên trời – và sai Thánh Thần xuống. Nhưng bên cạnh công thức huấn giáo Tông đồ ấy, dần dà đã có những câu chuyện truyền tai nhau về thời thơ ấu và niên thiếu của Ðức Giêsu. Thánh Luca, khi viết tác phẩm Tin Mừng, đã nhặt một số các câu chuyện này và đem viết thành những chương đầu tiên. Người chẳng làm công việc này nếu những câu chuyện kia không ăn khớp với những chương sau trình bày giáo huấn chính thức của các tông đồ. Nói cách khác, Người đã quan niệm những chương nói về cuộc đời niên thiếu của Chúa phải như tiền đề dẫn vào những chương nói về cuộc đời công khai của Ngài. Do đó chúng ta có thể tìm thấy mầm mống những chương sau đã nằm nơi những chương đầu tiên rồi. Và chúng ta chỉ hiểu được những chương này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô sẽ phát huy trong việc Ngài tử nạn phục sinh.

Ðoạn văn hôm nay nằm trong những chương đầu tiên này. Tác giả Luca thuật những chuyện về Ðức Giêsu với những chuyện về Gioan Tẩy Giả để làm nổi bật sự mật thiết cũng như sự khác biệt giữa vị tiền hô và vị cứu thế, giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa luật pháp và ân sủng. Ở đây chúng ta thấy Ðức Maria đi thăm bà Isave.

Người lên đường sau ngày được sứ thần truyền tin. Nên cuộc viếng thăm ngày hôm nay gắn liền với sự việc ngày hôm trước. Theo như Kinh Thánh luôn cho biết, Thiên Chúa nói sao là có vậy. Thế mà sứ thần đã bảo Ðức Maria thụ thai Con Thiên Chúa để Ngài sẽ được gọi là Giêsu tức là cứu thế. Ðồng thời sứ thần cũng loan tin bà Isave đã thụ thai trong tuổi già được 6 tháng rồi. Có cái gì ở giữa hai sự việc này đây? Maria cứ lên đường và sẽ biết. Người đon đả ra đi là vì lẽ đó. Vậy khi Người vừa vào nhà và chào bà Isave, thì lập tức bà này đã lớn tiếng kêu lên: “Trong nữ giới có Người là diễm phúc. Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng Người”. Làm sao Isave có thể nói lên được những lời ấy; và nếu bà không giải thích thì ai mà hiểu được? Hơn nữa bà còn nói về Maira là Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi. Làm sao bà biết được Maria đã cưu mang Chúa Cứu Thế? Nỗi vui của bà quả thật là niềm vui cứu độ mà các tiên tri đã từng hứa cho thiếu nữ Giêrusalem; và Mica đã loan báo sẽ xảy đến cho Bêlem nhỏ nhất trong xứ Giuđa. Chúng ta hãy nghe và giải thích: “Vì này thoạt tiếng Người chào vừa đến tai tôi, thì hài nhi trong dạ tôi nhảy mừng”.

Như vậy Gioan đã bắt đầu đóng vai trò “tiền hô của ông”. Ngay từ trong bụng mẹ, Gioan đã báo tin Chúa đến. Nhờ sự vui mừng của ông, mẹ ông đã được chỉ cho biết ân sủng đã đến trong con người Ðức Maria. Và nhờ việc ông nhảy mừng chúng ta thấy rõ Lời Chúa phán với Ðức Maria đã công hiệu. Chúa nói là Chúa làm. Ngài sẽ được gọi là Giêsu vì Ngài đã cứu thế. Ngài đã cho Gioan được sự vui mừng cứu độ. Và Gioan đã được chia sẻ niềm vui ấy; để rồi Ðức Maria không thể nào dấu được nữa những ơn cao cả Người đã được và đang mang trong mình.

Do đó, câu chuyện đi viếng hôm nay là để xác nhận việc Con thiên Chúa đã đến để cứu đời. Vị tiền hô còn nằm trong dạ mẹ đã loan báo điều ấy. Và Mẹ Chúa hôm nay xuất hiện là để chúng ta biết ơn cứu độ đã gần.

Thiên Chúa đã không dùng những hành vi và khung cảnh thật nhỏ mọn để bày tỏ quyền năng cao cả của Người đó sao? Nếu Bêlem nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa, như lời sách Mica viết, thì câu chuyện thăm viếng xảy đến trong nhà bà Isave ở một làng không tên tuổi nào đó lại còn nhỏ bé hơn nữa. Nhưng tất cả những gì có vẻ nhỏ bé trong câu chuyện lại đều hết sức lớn lao. Nhờ sự nhảy mừng của Gioan trong bụng mẹ, chúng ta được biết chúc tụng hoa quả của lòng Người. Tác giả thư Hipri là một trong những người sớm biết làm công việc này. Chúng ta hãy nghe lời ông trong đoạn trích hôm nay.

3/ Bà đã thưa: Xin vâng ý Chúa

Tác giả muốn diễn tả tâm trạng của Chúa Kitô “lúc vào trần gian”, tức là lúc nhập thể cứu đời. Do đó, đoạn văn này hợp với Phụng vụ hôm nay, vì bài Tin Mừng cũng vừa nói đến “Hoa quả của lòng Ðức Trinh Nữ”.

Nhưng làm sao tác giả có thể biết được cảm nghĩ của Chúa khi nhập thể? Ông chỉ có thể tìm thấy những ý nghĩ ấy trong chính cuộc đời trần gian của Người. Thế mà khi còn tại thế và trong lúc giảng dạy, Chúa Giêsu vẫn không ngớt nhấn mạnh rằng: Ngài đến không để làm theo ý mình nhưng để thi hành ý của Chúa Cha. Và tất cả các sách Tân Ước đều khẳng định cuộc khổ nạn cứu thế của Chúa Kitô là một sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Do đó tác giả thư Hipri có lý để viết về Chúa Kitô lúc vào trần gian rằng: Người nói: Này con đến để thi hành ý muốn của Chúa. Tác giả có vẻ muốn căn cứ vào lời trong một cuốn sách đã viết về Ngài. Nhưng cuốn sách nói đây không phải là một cuốn sách nào đó trong bộ Kinh Thánh mà là toàn bộ Kinh Thánh, kể từ “Môsê cho đến hết các tiên tri”, như lời Chúa Phục sinh nói với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các tông đồ.

Nhưng điều đáng để ý ở đây là mạch văn của tất cả đoạn thư này. Tác giả đang nói rằng tất cả các lễ dâng đạo cũ đều không có sức tẩy rửa tâm hồn và làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì lẽ “các điều ấy được hiến dâng chiếu theo lề luật”. Bấy giờ, lúc vào trần gian, Chúa Kitô đã nói: Này con đến để thi hành ý muốn Chúa. Chính trong ý muốn ấy, tức là trong thánh ý của Thiên Chúa mà chúng ta đã được tác thành, nhờ việc tự nguyện hiến thân vâng lời của Chúa Kitô.

Nói cách khác, ơn cứu độ chúng ta nằm nơi thánh ý Chúa đã xót thương thí ban Con Một của Người cho chúng ta và sự vâng lời của Chúa Con đã hiến thân như ý Chúa Cha đã định. Và nơi đang thực hiện những điều này là chính lòng Trinh Nữ Maria, người mà bà Isave hôm nay đã nhận ra là “kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho Người!” Với câu này, rõ ràng tác giả Luca có ý gợi lại thái độ và lời “xin vâng” của Ðức Maria khi được thiên thần đến truyền tin.

Và như vậy, chúng ta có thể hiểu cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay về Ðức Maria cũng như về Chúa Giêsu, về Ðức Maria cưu mang Ðức Giêsu cứu thế trong thân phận nhỏ bé và vâng lời, và về Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi cung lòng Ðức Trinh Nữ cũng trong thái độ nhỏ bé và vâng lời. Phải chăng phụng vụ chẳng muốn cho chúng ta nghĩ rằng khó nghèo và vâng lời là môi trường và điều kiện để ơn cứu độ của Chúa thể hiện? Và gần đến lễ Giáng sinh, cũng như để chuẩn bị ngày Chúa đến trong vinh quang, thái độ của chúng ta há chẳng phải là khiêm nhường trước mặt Chúa và tuân giữ các giới răn của Người? Việc nhìn nhận tội lỗi của mình rồi đến với Chúa trong tòa cáo giải là cách dọn mình để đón nhận ơn Chúa Giáng Sinh. Cũng như khiêm cung thi hành các đỏi hỏi của Tin Mừng trong đời sống là con đường chắc chắn nhất làm cho ơn cứu độ của Chúa tỏ hiện một cách vinh quang.

Thánh lễ này cho chúng ta được tiếp xúc với Chúa trong mầu nhiệm cứu thế, là mầu nhiệm thật cao cả nhưng diễn ra trong khung cảnh đơn sơ khó nghèo biết bao! Ước chi chúng ta được niềm tin như tiên tri Mica để khẳng định có ơn cứu độ. Niềm tin ấy sẽ giúp chúng ta được như Ðức Maria, đón nhận Chúa Cứu Thế vào lòng. Rồi như Người, chúng ta sẽ khiêm tốn ra về để đến với anh em. Chúa sẽ làm cho anh em biết ơn Người cứu độ nếu niềm tin của chúng ta được thể hiện trong đời sống phục vụ khiêm tốn.

home Mục lục Lưu trữ