Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 42
Tổng truy cập: 1371118
XIN ĐỪNG THEO Ý CON
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chung ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngai bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
42. Sự Thương Khó và Thập Giá của Đức Giêsu
Nếu dừng lại ở thương khó và thập giá thì là ngõ cụt đáng sợ hãi và trốn lánh. Nhưng thực tế Đức Giêsu đã vượt qua và đã mở ra con đường tới sự sống và vinh quang. Bề ngoài xem ra là thất bại thê thảm nhưng thật sự là chiến thắng vẻ vang.(les plus grandes défaites sont des plus grandes victoires).
Ai có thể làm được như Đức Giêsu? Vậy không phải là Người đã chiến thắng sao? Trốn tránh hoặc nhờ bạo lực hoặc nhờ sự can đảm anh hùng? Bỏ trốn là hèn nhát. Than van, khóc lóc là yếu hèn. Đương đầu và vượt qua, không khuất phục, vẩn giữ được sự công chính, không làm hại đối phương, vẫn dịu dàng yêu thương và cuối cùng còn cầu nguyện xin Thiên Chúa tha thứ cho họ và hứa nếu họ sám hối thì sẽ được sống. Có phải tuyệt vời không? Ai làm được như Ngưới? Chiến thắng vẻ vang: yêu kẻ thù.
Người Do thái coi thập giá là gương mù. Người Hy lạp coi là điên rồ. Thiên Chúa lại dùng làm khôn ngoan và sức mạnh. Đừng chỉ thấy nơi thương khó và thập giá khốn khổ và sỉ nhục. Hãy suy tư tìm ý nghĩa tiềm ẩn mà Thiên Chúa thực hiện và muốn chúng ta nhìn thấy: sự đương đầu can đảm và vượt thắng tất cả.
Động lực là Tình yêu. Tình yêu mới phi thường.
Tin chắc “tà không thắng chính”. Công chính cho đến cùng sẽ chiến thắng dù có bị giết chết cũng sẽ sống lại vinh quang. Thắng vượt mọi cám dỗ bên trong cũng như bên ngoài là chiến thắng toàn diện.
Thắng nhân giả hữu lực. Tự thắng giả cường. Thắng thiên binh vạn mã, nhiều người làm được. Tự thắng thì mấy ai?
Bị khổ và chết vì có tội là ác giả ác báo. Chấp nhận vì yêu thương là anh dũng. Chỉ tình yêu mới làm nổi. Đức Giêsu đã chống lại mọi cám dổ cho tới cơn cám dỗ cuối cùng “không làm cứu độ nữa, vất vả quá, xuống khỏi thập giá làm mỗt nguời bình thường” thôi! ĐG không sa chước cám dỗ. Người vượt qua trung kiên đến cùng.
Chiến thắng của Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của việc cứu chuộc. Cứu chuộc là lật lại, đổi lại. Loài người từ thuở ban sơ không vâng phục Thiên Chúa, chóng lại, phản nghịch cùng Thiên Chúa. Bây giờ Đức Giêsu đại diện dâng lên Thiên Chúa việc tôn thờ xứng đáng nhất là hiến tế chính mình làm lễ vật tinh tuyền, không tì ố, không nhiễm một chút nào tội của loài người, làm con chiên vô nhiễm, Cung kính không bằng vâng phuc. Vâng lời trọng hơn của lễ. Người đã vâng lời cho đến chết và chết thập tự. Là con chiên hiền lành bị đem đi giết mà không mở miệng.
Tất cả mọi khốn khổ Người chịu là tự nguyện để dâng lên Thiên Chúa sự vâng phục tột đỉnh, chuộc lại sự không vâng phục của loài người qua mọi thế hệ. Sự vâng phục chuộc sự không vâng phục để ai theo Người thì chuộc được mạng mình bằng đời sống vâng phục.
Chiến thắng của Đức Giêsu là không thua cuộc truớc cái xấu nhờ tình yêu, yêu cả kẻ thù. Kể chuyện.
Một người nhờ một tu sĩ cao thâm dẫn đi tìm một vị thần có thể chỉ cho bí quyết “khỏi đau khổ”. Gặp vị thần này rồi vị thần nọ, nghe bí quyết này bí quyết nọ chỉ con đường “không đau khổ”. Nhưng chưa chịu. Tới vị thần chịu treo thập giá thì ông nói “‘tôi chịu ông này, tôi theo ông này” vì ông này không tránh né mà đương đầu, vuợt qua và chiến thắng. Chỉ có cách này là thực hiện được và hiệu quả. Có chịu đau khổ mới cảm thông được với người đau khổ, mới giúp được người đau khổ vượt qua đau khổ. Đau khổ chỉ có thể vượt qua, chiến thắng chứ không thể tránh khỏi. Không có bí quyết để khỏi đau khổ ngoại trừ bí quyết của Đức Giêsu. Người không dạy nhưng trải nghiệm trên chính bản thân mình và kêu gọi đi theo còn hứa luôn ở bên để trợ giúp.
Thập giá là chiến thắng của người công chính can đảm.
43. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert – Đan Quang Tâm dịch)
“Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”
Cũng như Thánh Máttheu và Thánh Luca, Thánh Máccô sử dụng lời ngôn sứ của Dacaria mô tả việc Đức Giêsu vào Giêrusalem. Điều lý thú về lời ngôn sứ này là sự tương phản: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9).
Ta có thể hỏi liệu có thể nào vừa khải hoàn và chiến thắng mà đồng thời vừa khiêm tốn. Bằng cách chọn đi vào Giêrusalem theo phương cách Người đã làm, Đức Giêsu cho người ta thấy Người thực sự thuộc loại vua nào. Người khải hoàn nhưng không đắc thắng. Người đã giảng dạy như một mục tử, chứ không phải như một vị tướng quân. Những ai nghe Người nói hoặc chứng kiến phép lạ Người làm thì bây giờ được gọi để làm chứng về các kinh nghiệm của họ. Họ làm chứng bằng cách tuyên xưng Đức Giêsu là “Con của Đavít”, ca tụng Thiên Chúa Cha đã gửi đến đấng cứu thế mà người ta mong đợi từ lâu.
Theo Thánh Máccô, Đức Giêsu chắc chắn biết ý nghĩa của điều Người chuẩn bị làm. Người sai các môn đệ đi tìm con lừa con, giải thích một cách chi tiết điều sẽ xảy ra. Khi ta đồng hành với Đức Giêsu và các Tông đồ trong mấy ngày sắp tới, ta sẽ thấy một số hình ảnh sẽ nhắc nhở ta về sự kiện Đức Giêsu, Con Đavít, đã đến cứu chúng ta và giải thoát chúng ta.
Điều lý thú cần ghi nhận là, theo các Phúc âm Nhất lãm, câu truyện thương khó không trực tiếp theo sau việc đi vào thành Giêrusalem. Trong Phúc âm Máccô có hai chương tách việc vào thành với trình thuật Bữa Tiệc Ly.
Chương khải hoàn vào Giêrusalem dịu giọng một chút và lại tập trung vào Sách Ngôn sứ Isaia. Ta nghe về “Người Tôi Trung của Chúa” – lời tiên tri thứ hai trong ba lời tiên tri của Isaia nói về Đấng Mêsia. Trong những đoạn này, ta đi đến chỗ nhận biết bản chất đích thực của Đấng Mêsia – Người xuất hiện không phải như một vị vua vinh quang mà như người tôi tớ khiêm tốn.
Trong Thư gửi Tín hữu Philípphê, Thánh Phaolô kiện toàn sự nhận biết đó. Trong “bài thánh ca Philípphê”, ông bảo ta rằng Đức Giêsu này thực sự là ai và Người đã làm gì cho ta: “…Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự!” Tất cả đieu này cho ta thấy rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Những lời hứa trong Cựu Ước được thành sự và chúng ta trở thành các nhân chứng. Với tư cách là người làm chứng, ta được kêu gọi hãy đáp ứng lại.
“Nơi Người, luôn luôn có thể nhận ra dấu chỉ sống của tình yêu khôn lường và siêu việt đó của Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta, Đấng mang lấy những thương tích tật bệnh của dân mình, đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhat họ nên một. Trong Người và nhờ Người, có thể tái khám phá cuộc sống trong xã hội, dù cuộc sống còn đầy mâu thuẫn đối kháng và nhập nhằng tranh tối trang sánh, như một nơi chan chứa sự sống và hy vọng: đó là dấu hieu của ân sủng không ngừng được đề nghị ban tặng cho mọi người, và đó cũng là lời mời gọi hãy vươn đến những hình thức chia sẻ ngày càng cao hơn và tích cực hơn.
Đức Giêsu Nadarét đã làm cho mối dây liên kết giữa liên đơi vào bác ái sáng chói trước mặt mọi người, chiếu sáng toàn bộ ý nghĩa của mối dây liên kết này: “Dưới ánh sáng đức tin, liên đới tìm cách vượt qua chính nó, mang lấy các chiều kích Kitô giáo cụ thể là trao ban một cach hoàn toàn vô điều kiện, tha thứ và hoà giải. Lúc ấy, người gần bên chúng ta không những chỉ là một con người có những quyền lợi và về cơ bản, bình đẳng với hết mọi người, mà còn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, đã được máu Đức Giêsu Kitô cứu chuộc và được đặt dưới tác động trường kỳ của Thánh Thần. Thế nên, phải yêu thương tha nhân, cho dù đó là kẻ thù, bằng cùng một tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương họ; và chính vì ích lợi của người ấy mà ta hãy sẵn sàng hy sinh, thậm chí hy sinh đến mức cuối cùng: hy sinh tính mạng vì anh em” (x. 1 Ga 3,16) (Sách Tóm lược HTXHGH, 196).
Khi nghe trình thuật Thương Khó theo Thánh Mátthêu, bắt đầu với việc thoả thuận phản bội Đức Giêsu và chấm dứt với việc Philatô lệnh cho chính quyền canh gác ngôi mộ, ta nhìn các lời tiên tri trong Cựu Ước dưới một ánh sáng mới. Ta cũng thấy diễn tiến của các biến cố xoay quanh cuộc thương khó, bắt đầu với trình thuật Bữa Tiệc Ly và việc thiết lập Bí tích Thánh Thể theo đúng sứ mạng mục vụ của Đức Giêsu. Người đã đến với chúng ta và đã đề nghị tặng ban một món quà vĩ đại. Nếu ta chấp nhận món quà đó, ta được mời gọi đáp trả lại Người trong cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người.
44. Ai là bạn của tôi?
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: “Trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới biết ai sẽ là người đối đãi với bạn thật lòng. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không biết đưa than trong những ngày đông. Lại có những người chỉ biết thêm dầu vào lửa, chứ không biết đối đãi chân thành”.
Nhiều người vẫn tự hào có đông bạn bè, nhưng người thật sự hết lòng vì mình liệu có được mấy ai?
Có một người kể rằng vì vấn đề trong làm ăn nên anh đang cần gấp một số tiền. Anh liền gọi điện cho những bạn bè thân thiết của anh. Đều được trả lời là không thể giúp với nhiều lý do. Anh đã dựa vào độ thân thiết mà gọi 9 cuộc điện thoại kêu cứu, nhưng càng gọi về sau thì càng không có lòng tin. Cho tới cuộc gọi thứ 10 chỉ là thử vận may mà thôi, thế mà anh lại được một người bạn ít thân thiết sẵn lòng cho mượn.
Cuối cùng anh kết luận rằng: “Nếu không phải lần mượn tiền này, tôi còn tưởng rằng mình có rất nhiều bạn bè, bây giờ tôi mới hiểu thì ra tôi cô đơn đến như vậy!”
Đời người, gặp nhau là do duyên Trời, ấm áp bởi tình, tan rã bởi thiếu chia sẻ với nhau, tệ hơn là bạn bè nhưng lại chơi xấu nhau. Đời thị phi là vậy. Con người chỉ nghĩ đến lợi cho bản thân. Khi chơi với ai có lợi thì thân. Ngược lại khi mối lợi không còn thì tình thân cũng tan biến. Có khi còn vì bản thân mà đạp đổ danh dự của nhau…
Chúa Giê-su dường như cũng nếm trải nỗi đau của chơi xấu, của bỏ rơi nơi các môn đệ. Giu-đa môn đệ được tin tưởng giao cho làm thủ quỹ thì biển thủ, thì tham lam, cho tới khi có cơ hội lại bán Thầy với giả rẻ mạt chỉ 30 đồng thôi. Các môn đệ khác thì bỏ mặc Thầy trong nguy khó. Một mình Thầy cô đơn. Một mình Thầy trải qua cuộc thương khó. Có chăng Gioan và Phê-rô theo Thầy, nhưng chỉ lén lút đi trong đêm tối, và rồi khi đối diện với khó khăn, Phê-rô đã chối Thầy đến 3 lần.
Đúng như người ta nói: “Lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai!”. Con người ta chỉ một lần sa cơ, mới biết ai thật lòng, ai quan tâm đến mình nhất. Điều mà thời gian lưu lại không phải là tài phú, không phải là vẻ đẹp, mà là sự chân thật dành cho nhau. Hoa nở rồi sẽ tàn, thời gian trôi đi sẽ không quay trở lại. Lâu ngày không hẳn sẽ sinh tình, nhưng nhất định sẽ thấy được lòng người chân thành hay chỉ là đãi bôi.
Quang cảnh lễ lá hôm nay cũng tương phản với hình ảnh thứ sáu tuần thánh nơi dân thành Giê-ru-sa-lem. Hôm nay họ trải lá lót đường đón Chúa. Ngày mai họ ném đá đòi đóng đinh Chúa. Hôm nay họ tung hô Chúa là vua, ngày mai họ đóng đinh Ngài vào thập giá. Xem ra Chúa vẫn cô đơn trong tiếng reo hò của hàng ngàn người dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngày lễ lá họ reo mừng vì thấy Chúa là mối lợi cho dân tộc. Ngày thứ sáu họ kết án vì muốn lợi dụng Ngài “chết thay cho cả dân được nhờ”. Chúa vẫn cô đơn trong chính dân tộc của mình và ngay cả nơi nhóm nhỏ môn đệ thân tín của Ngài.
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong nhà thờ, vì người ta đến với Chúa chỉ vì thói quen, vì muốn tìm cái phao cứu mình khỏi khó khăn?
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong dòng đời, vì đâu mấy ai dám hy sinh cho Ngài khi phục vụ giúp đỡ người ốm đau, nghèo khó hay tật nguyền?
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong các mái gia đình, vì còn mấy gia đình vẫn sáng lễ chiều kinh, nhưng họ chỉ dành thời gian cho công việc và nghỉ ngơi?
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? Có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy tình thân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không!
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy lợi nhuận để mà cân đo đong đếm tình yêu. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen.
45. Thế thái nhân tình là thế
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những tình người và thói đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về lối sống, về cách ứng xử của người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được ghi lại dường như chỉ là những thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó phản ánh về những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Nguyễn Công Trữ ngày xưa khi nhìn vào đời cũng ngán ngẩm than rằng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Tình người dễ phôi pha. Cuộc sống thì bon chen, tranh dành, đầy khổ ải cũng chì vì lắm bất công.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Đã có đồng tiền dở cũng hay
Ở trong cuộc đời lắm thị phi ấy con người phải khôn ngoan chưa đủ mà còn phải khôn ranh, ma mãnh:
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Chung quy sự đời vẫn là bạc bẽo và mong manh của tình người:
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nhìn thế thái nhân tình mà ngán ngẩm, cuộc sống quá khắc nghiệt, lòng người đổi trắng thay đen khiến nhiều khi chúng ta chẳng dám tin vào một ai. Tình nghĩa hôm qua, hôm nay hóa hận thù, ganh ghét nhau, hãm hại nhau cũng chỉ vì một chút danh, một chút bổng lộc trần gian.
Cuộc đời Chúa Giêsu dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình lắm đổi thay ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đúng như có ai đó đã nói:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn bè với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Dân thành Giê-ru-sa-lem tính thật chi li. Họ sum vầy quanh Chúa khi Chúa làm phép lạ. Họ bỏ rơi Chúa khi Ngài chịu đóng đinh. Họ tung hô Chúa khi muốn Chúa làm vua để tìm mối lợi. Họ kết án Chúa để Chúa chịu chết thay cho cả dân tộc…
Con người hôm nay cũng tính với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giêsu. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen.
46. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được viết như sau:
Thành phố bé thế thôi
Mà tìm hoài chẳng được
Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông người
Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan tâm…
Thành phố bé đến thế thôi
Mà tìm hoài không thấy
Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình người với nhau.
Rồi có những đêm mưa
Nằm nghe câu ca rất xưa
Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm)
Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy
Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!!
Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người nhan, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn cách của coi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có lắm kẻ cô đơn.
Chúa Giêsu cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng: “Các con không thức với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người.
Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác nơi Cha”. Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào” thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giêsu để tín thac mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy của cuộc đời. Amen.
47. Hoan hô! Vạn tuế!
(Suy niệm của Lm Mark Link, SJ)
Chủ đề: “Đời sống mặc khải Ngài là Đấng Thiên Sai.
Tuy nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai đem an bình chứ không phải vị Thiên Sai mang chinh chiến“
Gilbert Frankau kể lại câu chuyện của một người bạn ông từng là sĩ quan pháo binh trong Đệ nhất thế chiến. Thời đó không có rađa để hướng dẫn pháo binh vào đúng mục tiêu. Vô số trái đạn chỉ lăn lỏng chỏng trên các ngọn đồi và bụi cây tựa như người ta lấy đá ném vào tấm bia. Thỉnh thoảng, một binh sĩ được lệnh dùng một nhiệt khí cầu bay trên không để hướng dẫn các tay súng. Anh ta từ cao nói như hét xuống “Qua bên trái một chút” hoặc “Qua phải một chút!”. Anh bạn của Frankau nói: “Hễ cứ leo lên khí cầu là tôi chết khiếp đi được. Tôi biết rõ mình trở thành mục tiêu tuyệt hảo cho họng súng quân thù. Chẳng bao giờ tôi chế ngự được nỗi sợ nhưng tôi cũng chẳng hề để cho nỗi lo sợ giữ tôi nán lại ở mặt đất”.
***
Câu chuyện trên đây sẽ gíup chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc.
“Đức Giêsu phải can đảm kinh khủng khi tiến về Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua đặc bịêt này. Ngài can đảm đến độ không thể nào tin nổi. Phúc Âm thánh Gioan giai thích cho chúng ta biết như sau: ‘Sắp lễ vượt qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm đến Đức Giêsu và… hỏi han nhau” bạn nghĩ sao? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu!’ Bọn tư tế và biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài” (Ga 11,55-57)
Điều đó khiến chúng ta hồi hộp lo ngại cho việc Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Ý nghĩa sâu xa đằng sau cách thức Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem và cách thức dân chúng chào đón con Ngài là gì? Để trả lời cho câu hỏi ấy, chúng ta hãy xem lại cách thức Đức Giêsu tiến vào thành. Phúc Âm thánh Gioan kể lại: “Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh thánh dạy: Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con” (Ga 12,14-15)
Khi Đức Giêsu tiến vào thành, dân chúng vẫy các nhành thiên tuế và reo lên: “Hosanna! vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hoan hô vua Irsael” (Ga 12:13)
Thánh Gioan kết thúc bài mô tả bằng lời phê bình khác thường như sau: “Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được đưa lên chốn quang vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài” (Ga 12:16)
Vậy ý nghĩa xâu xa đằng sau cách thức Chúa Giêsu vào thành và cách thức dân chúng vẫy các nhành thiên tuế và hô to lời “Hosanna” để chào đón Ngài là gì?
Thật là khôi hài, chìa khoá để trả lời câu hỏi này lại nằm nơi chú lừa Đức Giêsu cỡi. Đối với thế giới hiện nay, con lừa chẳng phải là một ý niệm hấp dẫn gì! Chúng ta thường nghĩ lừa là một con vật đần độn.
Gilbert Keith Chesterton đã làm một bài thơ phổ biến ý niệm này. Trong bài thơ ấy, chú lừa quan sát vẻ xấu xí của mình và tự nhủ:
“Chắc hẳn ta sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu,
khi cá lượn trên không,
lúc cây rừng cất bước,
và vả mọc trên gai… ‘Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm,
Đôi tai khác nào đôi cánh lạc loài, dáng đi qủi quái nhất trong các loài động vật bốn chân…’
“Hỡi lũ điên rồ! ta cũng có “giờ” của ta chứ,
Một giờ thực hiện oanh và êm dịu,
khi bên tai ta vẳng vẳng tiếng hò reo
Và nhành thiên tuế chập chờn trước bước chân ta đấy”
Và thế là chú lừa ta thốt lên:
“Qúi vị thời nay có lẽ cười nhat tớ
nhưng nên nhớ rằng tớ đã được chọn,
trong tất cả giống thú vật trần gian
để cõng trên mình Đấng Cứu Tinh thế giới”.
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng giống lừa nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh đã khen ngợi chúng. Lừa là một giống vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa là giống vật dành cho chiến tranh thường chở chiến binh vào chiến địa.
Giacaria đã tiên báo Đấng Mêsia sẽ cỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Giờ đây Đức Giêsu đang thực hiện lời tiên báo ấy của Giacaria. Làm thế Ngài đã thực hiện hai điều xác quyết: Thứ nhất: Ngài xác nhận mình là Đấng Mesia của Israel. Thứ hai; Ngài mặc khải cho biết sứ mệnh thiên sai của Ngài là gì.
Vào thời Chúa Giesu, việc mặc khải này không được cho là hay ho gì cả bởi nhiều người hiểu rất mơ hồ về sứ mệnh của Đấng Mêsia. Chẳng hạn, có nhiều người nghĩ rằng sứ mệnh của Đấng Mêsia phần lớn hệ tại việc đoàn kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestine, đẩy chúng ra ngoài biển. Đức Giêsu cỡi trên mình con vật hiền lành tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại ý tưởng ấy. Nó mặc khải cho thấy Đấng Mêsia không phải là ông vua chinh chiến, bắt đám quân đến để ngồi trên ngôi báu và bắt đám dân bị chinh phục hầu hạ. Ngài đã đến quì gối xuống trên sàn nhà và rửa chân cho các thần dân của mình.
Đức Giêsu đã không đến để đoàn kết dân chúng sau lưng mình và đi giao tranh với các dân tộc khác. Ngài đến liên kết họ lại với nhau sau lưng Ngài để chiến đấu chống lại nghèo khổ, đói khát, thù hận và tất cả mọi hình thức bat công, Đức Giêsu không đến để kết án kẻ khác, Ngài đến để tha thứ cho họ, Đức Giêsu không đến để phá đổ những giấc mơ của quần chúng. Ngài đến để làm cho những giấc mơ đó thành hiện thực bằng một phương cách lạ lung nhất, không thể tưởng tượng nổi. Đức Giêsu không đến cưỡng bức quần chúng theo Ngài, Ngài đến để kêu mời họ.
Hôm nay chúng ta đón mừng một Đức Giêsu như thế đấy. Chính Đức Giêsu đó muốn đi sâu vào tâm hồn chúng ta một cách đặc biệt trong Tuần Thánh sắp tới. Chính Đức Giêsu như thế đang hiện diện giữa chúng ta ngay lúc này đây, lúc chúng ta bắt đầu nghi thức phụng vụ rước lá chung quanh giáo đường.
Vậy chúng ta hãy vui mừng và cùng hát với các tín hữu khắp mọi nơi:
“Hosanna! Vạn tuế Đấng nhân danh mà Chúa mà đến! Vạn tuế Đức Vua của Israel!”.
48. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu, là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi Kitô hữu.
1. Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê được thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài không muốn chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức” (Mc 14,33-34). Ngài cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn” (Mc 14,36).
Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con người cho đến cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm tin và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy, không có nghĩa những người không là Kitô hữu không thể có cái chết an bình, trong trường hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương tâm họ.
2. Đức Giêsu vâng phục cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30), “không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11,27), “ông này phạm thượng. Ai có quyền tha tội ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc 2,7), “trước khi có Abraham, đã có Ta” (Ga 8,58), “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc 14,62).
Không những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì làm sao các ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay “Thiên Chúa làm người.” Tất cả những điều này hoàn toàn xa lạ với con người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn về Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Ga 16,13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga 10,30). Ngài có quyền tha tội (Mc 2,7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc 14,62). Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm” (Ga 1,1.14). Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa” (Pl 2,6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc 1,35), qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga 4,34), đến độ Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc 14,36; Mt 6,9-10). Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên Chúa.
3. Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt nhành cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa” (Ga 19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Người Do Thái không thể hiểu tại sao một người lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt 27,25). Sự thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một tên phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy, họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm điều phải làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở thành gương và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người công chính phải đau khổ và phải chết?
2. Tại sao Đức Giêsu, người công chính, bị hành hạ và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy?
3. Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại?
49. Cuối đời – Lm. Vũ Đình Tường
Những người có đức tin mạnh mẽ thích cầu nguyện và mong được tham dự Thánh Lễ và các bí tích vào những ngày cuối đời. Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài cũng thích đến thánh đường. Ngài và các tông đồ tiến về đền thờ trong dịp lễ trọng, lễ ‘Bánh Không men và Vượt Qua’. Hai lễ này xảy ra cùng dịp- ‘Không Men’ vì dân Israelites dời bỏ đất Ai Cập, đến vùng đất chảy sữa và mật ong Chúa hứa ban. Họ ra đi trong hấpt ấp, vội vã. Vội vàng đến độ không đủ thời gian chờ cho bánh lên men trước khi nướng. Vượt Qua còn mang một ý nghĩa trọng đại nữa vì Chúa dùng quyền năng rẽ sóng biển giúp họ vượt qua biển an toàn. Vượt Qua còn mang ý nghĩa siêu nhiênlà vượt qua thời gian nô lệ tiến đến thời gian làm con cái Chúa, vượt qua bóng tối của sự chết tâm linh, thiếu tự do tôn giáo, quyền làm người để tiến đến cuộc sống mới tự do, tương lai huy hoàng.
Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài và các môn đệ biết rõ nhà nước đang tìm cách giết Ngài. Các môn đệ Đức Kitô biết rõ điều này và các ông đã phản đối việc Đức Kitô về đền thánh khi các ông nói: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy. (Ga 10,16)
Đức Kitô còn nói rõ hơn khi người phụ nữ đến xức dầu chân Ngài bằng chai dầu thơm đắt giá. Một số người ngồi cùng bàn cho rằng phụ nữ đó kia phí phạm chai dầu đắt giá tốt hơn nên dùng tiền đó bố thí cho người nghèo khó. Đức Kitô biết họ nghĩ thế Ngài lên tiếng bênh vực cô ta và nói rõ lí do: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng tôi” (Mc 14,8)
Đức Kitô trong những ngày cuối đời Ngài xem ra có vẻ bận rộn hơn ngày thường vì còn một số việc Ngài cần làm xong trước khi bị bắt. Đó là việc chuẩn bị bữa tiệc cuối cùng được biết đến là ‘Bữa Tiệc Ly’. Ngài đã âm thầm chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết cho ngày lễ, từ nơi chốn đến thực phẩm, phòng ốc và ngay cả phương tiện di chuyển. Các môn đệ dù sống cạnh bên vẫn không hề hay biết chi cho việc Ngài âm thầm chuẩn bị. Họ chỉ biết làm điều Đức Kitô sai bảo và mọi sự đã xảy ra đúng như những gì Ngài chuẩn bị.
Người ta thường chuẩn bị cho ngày chết. Đức Kitô không chuẩn bị cho ngày chết nhưng chuẩn bị cho ngày sống lại. Bữa Tiệc Ly là bữa tiệc chuẩn bị cho sự sống lại vinh quang. Tiệc Ly có thể hiểu là li trần, dời khỏi trần thế. Dời khỏi trần thế không có nghĩa là chết mà là vượt qua trần thế đến cuộc sống thanh bình muôn thuở. Nếu Tiệc Ly không là tiệc sống lại thì không thể giải thích cho việc lập Bí Tích Thánh Thể. Đức Kitô từ lời nói đến việc làm luôn mang ý nghĩa trọng đại, vượt trí tưởng. Trong bữa Tiệc Ly Đức Kitô cầm bánh và rượu dâng lời chúc tụng Chúa Cha rồi nói cùng các môn đệ;
Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Ta (Lc 22,19)
Nếu không có sự sống lại thì việc lập bí tính Thánh Thể không có mục đích. Đức Kitô biết rõ Ngài sẽ chết cách đau khổ và Ngài sẽ sống lại vinh quang. Cử hành bí tích Thánh Thể là tuyên xưng việc Chúa sống lại và đoàn liên kết cùng Đức Kitô trong việc bẻ bánh.
Kitô hữu không chuẩn bị chết lành như thường nghe nói nhưng chuẩn bị để gặp Đức Kitô, đoàn tụ cùng Đức Kitô. Theo ý nghĩa đó Kitô hữu chuẩn bị cho sự sống lại, cho cuộc sống trường sinh bên cạnh Đức Kitô. Kitô hữu chuẩn bị chết bình an trong Chúa. Lễ an táng là an táng thân xác còn tâm linh thuộc về Chúa nên các bài đọc và lời cầu trong lễ an táng luôn hướng về sự sống lại, sống trường sinh.
50. Mặc khải – Lm Vũ Đình Tường
Nhìn vào lá cành người ta có thể học biết được nhiều điều. Dù không chuyên về thực vật học, nhìn vào lá cây, người ta cũng có thể biết được nhiều điều. Lá cây cho biết về thời tiết trong thời gian qua. Lá xanh, tươi tốt; mưa nhiều; lá khô, cằn cỗi, nắng hạn; lá rách tả tơi, cành cây sơ xác, bão tố vừa qua. Nhìn vào lá người ta còn có thể nói về tình trạng của cây. Lá xanh mát, tươi đẹp cây được chăm sóc cẩn thận, cắt tỉa đàng hoàng; lá cằn cỗi, già chát, cây thiếu nước, thiếu chăm sóc, lâu ngày không xén tỉa. Lá rỗ chằng, rỗ chịt cho biết cây bị sâu rầy phá hoại mà không ai chăm lo xịt thuốc sâu. Lá không những cần cho cây sinh sống, làm mát mắt, tạo sinh khí sống động cho khung cảnh mà còn sinh ích cho chim muông, sâu bọ và ngay cả cho con người dùng lá lợp nhà, che vách. Sau khi dùng xong lá bị vất rơi bên vệ đường.
Không phải ngẫu nhiên các trẻ em Do Thái bẻ cành lá đón Đức Kitô vào thành thánh Giêrusalem. Việc các em đón rước Đức Kitô cho biết ‘giờ của Ngài sắp đến’. Vinh quang của Ngài sắp được tỏ hiện. Đây cũng là điềm báo trước ‘giờ’ các nhà lãnh đạo Đền Thờ âm thầm hội họp quyết định thi hành dã tâm mượn tay nhà cầm quyền lợi dụng chức vụ có trong tay đưa ra bản án bất công, ra tay tiêu diệt người vô tội vì chỉ muốn làm vừa lòng các nhà lãnh đạo đền thờ. Họ sẵn sàng để tay dính máu hòng làm vừa lòng người khác.
Thánh Marcô nhắc đến nhiều địa danh Đức Kitô đi qua như Galilê, Bêthania hoặc núi cây dầu cho biết dân chúng tung hô, chúc tụng Ngài là Đấng Cứu Thế. Những nông dân, công nhân, dù không có học thức nhưng khi nói đến đức tin họ sáng suốt nhận định; trong khi những nhà lãnh đạo Đền thờ, lãnh đạo đất nước tự nhận mình là người có học thức, có bằng cấp lại trở thành người không nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và họ lại chống đối bằng cách ra tay giết chết, để tỏ ra nhóm họ có quyền sinh sát trong tay. Họ dùng luật hiện hành để thi hành bản án bất công nhưng pháp luật không thể làm gì được họ vì họ là kẻ cầm cán cân công lí, họ muốn cho cán cân nghiêng về bên nào thì bên đó thắng. Dân chúng đi trên đường may mắn cùng lúc Đức Kitô và các môn đệ Ngài tiến vào thành thành Giêrusalem và họ bẻ cành lá bên đường tung hô chúc tụng Đức Kitô- Hoan hô con Vua Đavít- Câu này chính là câu mà người mù từ lúc mới sinh ngồi bên vệ đường nghe tin Đức Kitô đi qua, anh lớn tiếng hô Hoan hô Con Vua Đavít, xin cứu đến con- Đức Kitô đã chữa sáng mắt anh. Người bên đường mắt sáng nhận ra Đức Kitô Luc 18,38; Anh đâu biết Đức Kitô đến cứu phần xác anh và cứu phần hồn nhân loại. Kẻ lãnh đạo hội đường tự nhận mắt sáng, họ nhìn thấy tiền buôn bán trong đền thờ nhưng tại tối mắt không nhìn thấy Đức Kitô. Họ mù quáng đến độ không nhìn ra Người mở mắt cho người mù đến nỗi chính người mù cũng thắc mắc làm sao Đấng mở mắt cho anh quyền phép thế mà các nhà lãnh đạo đền thờ lại không nhận ra Ngài. Thành thánh Giêrusalem là chặng đường cuối cùng của cuộc đời công khai rao giảng của Đức Kitô. Lúc 12 tuổi Ngài bắt đầu trả lời thắc mắc của các kinh sư và lãnh đạo đền thờ và họ đã kinh ngạc về giáo lí của Ngài. Hai mươi mốt năm sau cũng tại nơi đây họ kết án Ngài. Đối với các tông đồ Giêrusalem là nơi các Ngài khởi đầu hành trình rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, khởi đầu cuộc đời truyền giáo cho muôn dân. Các tông đồ trên đường Emaus cũng nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài bẻ bánh trên đường họ đi về quê. Điều này cho biết Đức Kitô là đường và ai đi cùng đường sẽ nhận biết Thiên Chúa và cuối đường sẽ được vào chung hưởng vinh quang Phục Sinh với Ngài.
Chúa Nhật lễ Lá cho biết vương quyển của Đức Kitô. Đối với xã hội trần thế kẻ thuộc quyền tổ chức dân chúng đón chào vua chiến thắng vinh quang trở về. Đối với Đức Kitô dân chúng trên đường gặp Ngài họ vui mừng đón tiếp, dân lời ca chúc mừng, ngọi khen. Họ đâu biết rằng việc họ làm tác động bởi Thánh Thần Chúa đón tiếp vị vua cao cả sắp sửa chiến thắng tội lỗi, dẹp tan sự chết, đè bẹp chúng, bắt chúng nhốt vào ngục tối còn Đức Kitô bước ra khỏi ngục tối, khỏi mồ, sống lại vinh quang. Vương quyền của Đức Kitô là phục vụ, là hy sinh, là hiến thân cho người mình yêu để làm hoà với họ và đón nhận họ vào trong nước Chúa. Kitô hữu, môn đệ Đức Kitô, khi làm việc tông đồ cũng cần đi qua con đường đó, con đuờng dấn thân phục vụ có giá phải trả. Đức Kitô trả giá đó bằng chính mạng sống mình bằng vác thập giá, đổ máu mình ra; môn đệ Đức Kitô không phải đổ máu mình ra nhưng đổ mồi hôi và nước mắt làm chứng cho sự thật, đau khổ vì làm chứng cho công lí và bị thiệt hại và sống công bằng, nhân ái. Cái giá đó nhiều khi rất cao nhưng đâu sánh bằng được hưởng vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Vinh quang đó không mất mát trần gian nào có thể sánh bằng vinh quang Phục Sinh, sống muôn đời trong nhà Chúa Cha.
51. Niềm vui rực sáng – Lm. Vũ Đình Tường
Con người quả có nhiều cách khác nhau để diễn tả niềm vui. Cách thông dụng nhất là lời nói. Dùng ngôn từ nói lên lời chúc tụng, tung hô. Để niềm vui được vui hơn, người ta mượn tràng pháo tay kèm theo lời cổ võ. Theo sau tràng pháo tay là những tiếng cười hoan lạc. Đôi khi còn kèm theo bài ca vui, nhảy múa diễn tả hết tâm tình, bộc trực niềm hạnh phúc. Thời giờ dư giả, tài chánh thảnh thơi hơn người ta còn tổ chức bữa tiệc mừng, cụng li, chung chén, kéo dài niềm vui. Khi có tiệc mừng là có xuất hiện y phục thời trang mới. Cách ăn mặc lịch sự của thực khách, cử chỉ trang trọng mọi người dành cho nhau. Bên cạnh đó còn có trang hoàng màu sắc, sặc sỡ, từ ngoài ngõ đến nhà cửa, kể cả mọi người xa, gần, đều là những dấu chỉ rõ ràng nhất của tâm tình chia sẻ niềm vui. Đây là những cách diễn tả niềm vui.
Hôm nay Phúc âm ghi lại một hình thức diễn tả niềm vui nội tâm hoàn toàn khác lạ so với cách thông thường. Trên đường vào thành thánh Giêrusalem, đám đông dân chúng bất ngờ gặp Đức Kitô họ vui mừng quá đỗi. Vì không chuẩn bị hay nói rõ hơn không ai biết để chuẩn bị nên người ta sáng chế ra cách bày tỏ niềm vui dạt dào trong tâm hồn. Một người lên tiếng Hoan Hô Con Vua Đavít. Hoan hô Đấng đến Nhân Danh Chúa. Một tiếng cất lên, hai ba tiếng hoà nhịp vang vọng và rồi cả con đường, mọi nghõ ngách đều chung ca bài hoan hô Con Vua Đavít. Nhà chức trách thấy thế lên tiếng can ngăn. Họ cũng không thể ngờ được phản ứng mãnh liệt của đám đông. Họ không thể dự đoán Đức Kitô xuất hiện đột ngột như thế. Họ lên tiếng ngăn cản, cấm đoán. Cấm sao được sức mạnh của đại chúng, ngăn sao được tiếng hát vui mừng. Áp chế sao nổi bước chân nhảy nhót diễn tả niềm vui. Một cành lá làm cờ, hai cành lá làm cờ, ba cành lá làm cờ và cứ thế cành lá, cành lá biến thành rừng cây di động. Rừng cây đủ sắc thái của mọi cành lá bên đường tung bay, múa may theo nhịp phất của đôi tay. Đâu đó có người không tiếc tấm áo mới, cởi áo lót đường đón Con Vua Đavít. Mình trần, tay cầm cành lá đón chào, đám đông ca tụng Ngài là vua. Vị quân vương của đại chúng, quân vương không tiến vào thành bằng vó ngựa và cung tên nhưng cỡi lừa con, chân bước trên thảm vải áo và đi giữa rừng cành lá vẫy chào. Cảnh chào đón thật đơn sơ, giản dị nhưng chan chứa tình người, lòng ái mộ, cảm mến hết sức chân tình. Sáng kiến bẻ cành lá vẫy chào để lại cho chúng ta một ngày lễ kính với tên đơn sơ, mộc mạc đến quê mùa, nhưng lại diễn tả tâm tình rất chân thật của đám đông xưa may mắn trên đường đi gặp được Đức Kitô Con Vua Đavít. Ngày lễ kính đó chính là ngày lễ lá. Ai không biết được lịch sự của sự việc nghe sẽ chẳng hiểu tại sao lại gọi là lễ lá.
Đám đông đâu biết rằng họ là những người đầu tiên chào đón vinh quang, vinh danh Con Chúa Cứu Thế. Vinh Danh đó không lộ ra ngay trong ngày Ngài tiến vào thành thánh Giêrusalem. Vinh Danh đó hé mở rồi ẩn mất mãi cho đến ngày Ngài vinh quang sống lại từ cõi chết. Đây mới là chiến thắng thật, vinh quang thật và là niềm vui thật cho những tâm hồn thiện tâm.
52. Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(Fx. Phạm Đình Phước – viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall’ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là “thánh giá”, nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, “yêu mến cho đến tận cùng” (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mátthêu và Máccô thuật lại cho chúng ta rằng có “đoàn lũ đông đảo” theo Chúa Giêsu từ thành Giêricô.
Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”, và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10,48-52).
Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay” (Mt 21,2-3). Thánh Máccô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12,15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên Chúa.
Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9,13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11,9; Tv 118,25).
“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel.
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 “Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em”, là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng “khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao”. Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mt 21,15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ.
Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.
53. Thật, Người này là Con Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật Lễ Lá năm B hôm nay, Phụng vụ Giáo hội cho chúng ta đọc và nghe bài Thương Khó theo thánh Marcô. Tác giả Tin Mừng đã làm nổi bật lời của viên sĩ quan Rôma, người ngoại quốc, sau khi tham dự vào số những người hành quyết Chúa Giêsu, chứng kiến tận mắt cảnh Chúa bị đánh đòn, bị ngược đãi, bị treo trên thập tự giá và trút hơn thở, ông đã phải thốt lên cách ngạc nhiên: “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Câu “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39) không phải dễ để viên sĩ quan tuyên xưng như thế. Anh đã thấy gì nơi khuôn mặt hầu như không còn hình dạng người ta nữa, để đưa ra một tuyên bố như vậy. Bằng mọi cách, anh phải khám phá ra Chúa Giêsu là người vô tội, bị bỏ rơi, và thậm chí bị phản bội; hay có thể là một con người bị đối xử không công bằng trong một xã hội bất công; Người không hề mở miệng, chịu đau khổ mà chẳng than van, chấp nhận mọi sự xảy đến cho mình, thật không hiểu nổi. Có lẽ, viên sĩ quan này cảm thấy mình là một kẻ đồng lõa với sự bất công khi thấy người vô tội mà anh không giơ ít là một ngón tay lên để ngăn chặn nó, anh nghĩ mình giống như bao người đã rửa tay trước những khó khăn của người khác.
Hình ảnh của viên sĩ quan người Rôma là hình ảnh của người có cái nhìn với lòng thương xót. Cùng lúc đó, niềm tin của một người ngoại đạo được tuyên xưng. Chúa Giêsu là Đấng vô tội, đã bị đánh đòn, bị bỏ rơi và bị giết chết, đồng thời, anh tin vào ý nghĩa sâu xa của sứ mạng, với “cái còn lại của tình yêu” và tin vào ý nghĩa sứ mệnh cao cả của Chúa, mà những vết thương còn hằn trên thân xác là bằng chứng.
Nhưng trước khi những điều điều trên xảy đến, Chúa Giêsu đã tiến vào Giêrusalem và được dân chúng tung hô là Đấng nhân danh Chúa mà đến (x.Mc 11,9). Hôm nay, chúng ta cũng hô cũng hát, nhưng tiếng hô hát của chúng ta không phải là ảo tưởng và vô thức, giống như của dân thành Giêrusalem xưa. Lời tung hô của chúng ta hướng về Đấng đã trải qua thử thách đến nỗi hiến thân hoàn toàn và đã chiến thắng.
Sau cùng, nếu khi xưa dân chúng cầm cành lá dừa vừa đi vừa hát, họ còn trải áo lót đường Chúa đi. Thì hôm nay chúng ta sẽ không trải áo hoặc càm cành lá vô tri, những cành cây chỉ làm vui mắt trong chốc lát. Bước vào Tuần Thánh, chúng ta giục lòng tin thật, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng đã chịu đau khổ, chịu chết và đã sống lại để cứu chuộc chúng ta. Amen.
54. Niềm vui – Thập Giá – và ơn cứu độ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Với Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.
Niềm vui
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12,12-16)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón: “Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!” Họ trải áo trên đường để Chúa đi” (Mc 11,8-10). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô…” thấy thật là vui.
Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng,đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồn và tỏ lòng từ bi đối với họ.
Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.
Thập giá
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Marcô, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50,6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (x. Mt 15,34). Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2,6-8).
Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi vàtình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ.
Sống Tuần Thánh
Bước vào Tuần Thánh, Giáo hội cùng với con cái mình doi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người
Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.
Chúa Giêsu không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.
Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như: sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.
Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.
55. Tại làm sao Chúa chết?
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Marcô. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc: một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.
Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế và luật sĩ “ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu” (Mc 14,1); “tìm chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người” (Mc 14,55), chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến vị thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu: “ Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?” (Mc 14,61). Chúa Giêsu đáp:“Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây” (Mc 14,61). Ông liền đứng lên xé áo mình và kết án: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” (Mc 14,62) Họ quyết định lên án tử cho Người (Mc 14,64).
Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô” (Mc 15,1). Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13,1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Ông nói đúng” (Mt 15,2). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.
Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên hỏi dân “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” (Mc 15,9); “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?” (Mc 15,12). Những câu hỏi trên chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15,13). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to hơn: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15,14). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “Ông liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho họ mang đi đánh đòn và đóng đanh vào thập giá” (Mc 15,15).
Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).
Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “tại sao Chúa chết?” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).
Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.
56. Những im lặng sau tiếng hoan hô
(Suy niệm của Lm. Trịnh Ngọc Danh)
Lần thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo về sự chết và sự sống lại của Ngài: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người, và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. (Mc 10,33)
Thế là Thầy trò lên đường đi lên Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước các môn đệ và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. (Mc 10,32)
Khi đến gần thành Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphagê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp một con lừa cột sẵn, trên lưng nó chưa hề có ai đã cỡi, các con hãy cởi dây mà dắt về đây.” Nếu có ai hỏi thì bảo Chúa cần dùng rồi Ngài sẽ trả lại ngay. Hai môn đệ dẫn lừa con về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi trước, người theo sau tung hô: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Đavít tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Chúa Giêsu đã long trọng tiến vào thành Giêrusalem bất chấp những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt Ngài. Đến thành Giêrusalem, Ngài tiến vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi sự, thấy trời đã xế chiều, Ngài về Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ Lá chỉ là một thoáng qua và sau đó là những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội phản, những trốn chạy, những a dua và những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa xét xử, Ngài đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín vào thời đó, nhưng lại là người có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn biết cặn kẽ về Ngài, nhưng ông cũng không khai thác được gì, vì Ngài vẫn một mực giữ thái độ im lặng. Tức giận, ông truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho Caipha, con rể của ông đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72 thành viên của Thượng Hội Đồng, tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều vị đã đứng lên tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, đã công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại trong ba ngày, đã nhiều lần vi phạm qui luật về ngày Sabbat… Trước những lời tố cáo ấy, Chúa Giêsu vẫn im lặng không một lời phân bua, biện hộ. Và Ngài chỉ trả lời cho Caipha những gì Ngài cần phải nói khi ông hỏi Ngài có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không, Ngài đã trả lời: “Đúng như lời ngài nói”. Và Caipha bực tức, xé áo và tuyên bố: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa! Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” Ai nấy đều lên án Ngài đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự ưng thuận của chính quyền Rôma. Nên sáng hôm sau, họ lại áp giải Chúa Giêsu tới tòa tổng trấn Philatô, một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, thay vì tố cáo Chúa Giêsu về tội thuộc lãnh vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố cáo sang lãnh vực chính trị: tội tự xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không có gì đáng kết tội, nhưng thấy họ lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh Chúa vào thập giá; vì muốn tránh né trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho Hêrôđê, một người từ lâu đã muốn gặp Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại thất vọng vì Ngài chẳng thỏa mãn được tính tò mò ham vui của ông. Ông đã hùa với lính để chế diễu Chúa, rồi trao trả lại cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng Philatô rửa tay thanh minh mình vô can trong việc đổ máu người vô tội và sau cùng đã buông xuôi trao Chúa Giêsu cho họ để mặc cho họ hành động theo ý họ. Họ đã bắt Chúa vác thập giá, đóng đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã chết trên thập giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc kết thúc, Chúa Giêsu đã im lặng trước những gì người ta vu khống. Không một lời kháng cáo, không một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa Giêsu là vâng phục, là chấp nhận trong tinh thần tự nguyện, không oán trách, không kêu ca: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý Con mà xin vâng theo ý Cha.” Chính vì tinh thần tuân phục theo ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng chấp nhận những gì sẽ xảy đến.
Sự im lặng như thế phải chăng là một hình thức im lặng như Euripide đã nói: “Im lặng là thú nhận”, là xác nhận những lời người ta tố cáo như: “phá đền thờ, ba ngày sẽ xây dựng lại, tự xưng là Con Thiên Chúa, là vua dân Do thái”. Tất cả những lời tố cáo ấy là đúng như Chúa đã từng nói; nhưng khi bị người ta xuyên tạc, bóp méo tố cáo là “xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Xêsarê…” thì Chúa Giêsu lại im lặng không một lời thanh minh, cải chính! Với suy nghĩ của con người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là chân lý, là đúng sự thật thì tại sao con người lại kết tội. Phải chăng tiếng nói thiện tâm đã bị tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì ghen ghét mà người ta đã nộp Ngài (Mt 27:18), đã tuyên bố:“ Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi” (Mt 27:24), “Ta không thấy người này có tội gì” (Lc 23:4), “Ta không thấy nơi người này có lý do để kết án” (Ga 18:38). Thế mà ông lại không dám quyết định, lại sợ đụng chạm đến uy thế và quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp Con Thiên Chúa ngang hàng với một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và toàn thể công nghị cố tìm cho được một chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết Ngài, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian, nhưng chứng cớ của họ không ăn khớp. Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một người vô tội như thế là hợp tình, hợp lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự thật; vậy lương tâm ngay thẳng của họ ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã buộc phải im hơi lặng tiếng để cho ác tâm, thù hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng lõa với những gì sai trái, những gì không đúng sự thật là im lặng với chân lý, với lẽ phải. Một sự im lặng khó hiểu!
Lòng tin và lòng mến im lặng
Hơn ai hết, các môn đệ là những người theo Chúa, được Chúa yêu thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối công việc của Ngài, thế mà vào những giấy phút gay go nhất thì có người đã đang tâm bán đứng Thầy mình với mấy chục đồng bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã nhiều lần thề thốt sống chết với Thầy, nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối bỏ Thầy mình: Tôi không biết, tôi không quen. Dường như tất cả các môn đệ đã rút vào bóng tối vì sợ liên lụy, sợ nguy hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ đã từng theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm nhiều phép lạ, đã được cho ăn no nê. Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con vua Đavít, thì hôm sau lại gào thét: Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và nhục nhã hơn, họ xem người họ đã từng tin tưởng không bằng tên trộm khét tiếng là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời hợt, a dua, phản bội… phải chăng đó là bất trung, bất tín! Là những im lặng khó hiểu nơi những người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của các môn đệ và của dân Do thái, có lẽ đây cũng là cơ hội để chúng ta xét đến thái độ im lặng của chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu im lặng để nghe theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận những nghịch cảnh, những bất ưng vì Thiên Chúa và có những lúc chúng ta không được im tiếng khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin mừng đến cho muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ, chân thật, chất phát của trẻ em, chúng ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang ca tụng: Hoan hô Con vua Đavít; chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như dân Do thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, lại xin tha Baraba, một tên trộm cướp và giết Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam