Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1372958
XIN VÂNG
Xin vâng – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành, có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích: Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quãng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh nữ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Vâng, Mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc 1,30). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc 1,35). Như vậy việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bhao đảm tuyệt diệu: “vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác liền thưa: “Xin Vâng” (Lc 1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bô mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay cho tất cả, nhưng là tiếng “Xin vâng” liên lỉ trọn cả kiếp người. Từ tiếng “Xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “Xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
* Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm màu của Chúa. Nhất là, xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen.
8. Sinh một con trai
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Một tin vui đã được loan báo âm thầm trong một làng vô danh Na-da-rét: “Bà sẽ sinh một bé trai và đặt tên là Giê-su” (nghĩa là cứu thế).
Không ai biết, không ai hay, chỉ có một cô con gái “đầy ơn phước” lãnh nhận Tin Vui này. Nhưng hôm nay, tin vui đó đã lan tràn ra khắp thế giới, hơn hai mươi thế kỷ. Hôm nay, tất cả chúng ta cùng với Maria, đón nhận tin vui đó. Chúng ta đón nhận như thế nào?
Giáo Hội đang vui mừng. Chúng ta hãy nhảy mừng vì Giê-su, Đấng Cứu Thế sẽ đến. Giáo Hội vui mừng, nhưng quanh ta, thế giới vẫn dửng dưng hững hờ xem đó như một tin rao vặt, chẳng ích lợi gì cho ai, có chăng là một dịp tốt để những người kinh doanh có thêm một nguồn lợi khi bán những sao đèn giáng sinh…
Mặc cho người đời “thương mại hóa” Tin Vui đó, chúng ta, “những người nghèo của Thiên Chúa”, những người tin vào tình yêu, sẽ thắp lên trong tâm hồn chúng ta ngọn đèn hy vọng.
Chúa đến không ai hay…
Cả một lịch sử dài, cả một đoàn ngôn sứ đã chuẩn bị và đợi trông ngày trọng đại và thánh thiện này.
Người Do thái cũng nóng lòng đợi trông, nhưng họ đợi trông một Đấng Cứu Thế theo ý họ, một Đấng Cứu Thế oai hùng, sẽ đến đánh đông dẹp bắc, đưa dân Do Thái vào vinh quang trần thế, bá chủ hoàn cầu.
Họ chạy theo một ảo ảnh. Và Thiên Chúa không thỏa mãn ước mơ trần thế đó.
Ngài đến không ai hay: “Tư tưởng của Ta không như tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không giống đường lối các ngươi”.
Đường lối của các ngươi? Là cởi đầu thiên hạ… Thiên Chúa không như thế. Ngài xuống thế làm người, Ngài đến không ai hay, vì người ta đón Chúa trước cổng đền vua với lộng cờ đầy đủ. Nhưng Chúa lại đến trong một hang đá nghèo nàn, đáng thương.
Vậy đâu là đường lối của Chúa?
Người đến để cứu vớt, và để yêu thương.
Chúng ta đang chờ đón Thiên Chúa khiêm hạ và đầy tình thương.
Đấng đang đến, Đấng chúng ta đang đợi chờ là Con của Tình Yêu: “Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Người cho thế gian”.
Bao nhiêu đó đủ cho chúng ta vui chưa?
Cuộc sống này là gì? Một cuộc chạy đua gian khổ. Nhiều người không biết mình đang đi đâu. Thời gian cứ trôi không ngừng. Mọi thành công thất bại của chúng ta tàn lụi thê thảm như những lá khô trên đường.
Chúng ta cần bám vào cái gì vững chắc.
Chỉ có Thiên Chúa thường hằng bất biến mới vững chắc. Chúng ta chỉ bám vào Ngài thôi, không có nơi nào khác. Chúng ta được yêu thương tràn đầy và tình thương này không phai nhạt theo ngày tháng. Chúa Cha diễn tả tình thương của Ngài bằng một món quà vô giá: “Một người Con đã được ban cho chúng ta”.
Hôm nay, chúng ta nhớ lại cuộc trao đổi giữa trời và đất.
“Bà sẽ sinh một bé trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Thiên Chúa cao cả phải cần đến một người để cứu mọi người!
Maria có hiểu được những lời đó không? Chúng ta có thể nghĩ rằng Maria đã hiểu đầy đủ, vì ngài đã được nuôi dưỡng từ nhỏ bằng Kinh Thánh. Con Đấng Tối Cao có nghĩa gì? Chắc Maria không thể hiểu khác được. Các thanh nữ thời bấy giờ vẫn mơ ước được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Maria đã hiểu nhưng nàng không vội nhận lời. Nàng không nuôi mộng làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nàng là một cô gái vui tươi nhưng trầm lặng. Nàng hỏi lại: “Làm sao có thể như thế được, vì tôi không có chồng?”
Nàng quí chuộng sự trinh khiết hơn làm mẹ Đấng Tối Cao?
Không, không thể như thế.
Nàng không hiểu làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc cao cả như thế, làm sao nàng có thể sinh ra một em bé khi nàng không có chồng?
Một sự khôn ngoan lạ thường nơi một thiếu nữ quê mùa dốt nát, trong một trí óc non nớt của một thanh nữ vừa đến tuổi cặp kê!
Nàng đã được đính hôn với một thanh niên nghèo tên Giu-se, sao nàng lại có thể nói: “Tôi không có chồng?”
Thiên Chúa đã tiên liệu tất cả từng chi tiết. Đứa Con Thần Linh của Chúa sẽ đến trần gian… không lẽ là một đứa trẻ không cha? Hơn nữa Kinh Thánh từ xa xưa đã tiên báo, Đấng Cứu Thế sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít. Giuse sẽ đóng vai trò là cha của Đấng sẽ đến và thuộc dòng Đa-vít. Thật là tuyệt diệu! Tất cả đã sẵn sàng cho một Thiên Chúa nhập thể. Thánh vịnh bảo: “Hãy chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa” Đây phải chăng là một kỳ công?
Trước mặt thế gian, Giuse là chồng của Maria, trước mặt Thiên Chúa, người là tôi tớ. Người bạn hiền mà ông sẽ nhận về nhà, là “nữ tỳ khiêm hạ của Thiên Chúa” thì ngài chính là người bảo trợ trung thành. Ngài biết đứa trẻ là ai và Maria là ai. Chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nhờ sự vâng phục của con người. Thiên Chúa có thể làm mọi sự mà không cần đến ai, nhưng Chúa muốn sự tham dự tự do và chân thành của con người. Chúa tạo nên chúng ta không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng muốn cứu chuộc chúng ta, Ngài chờ chúng ta ưng thuận. Sự tôn trọng của Thiên Chúa đối với tạo vật của Ngài. Như thế, con người được mời gọi vào tạ ơn và tôn thờ.
“Làm thế nào có thể như thế được vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Bà”. Mọi sự đều được giải quyết. Thánh Thần sẽ can thiệp, Quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì con người không thể làm. Đây không phải là việc của con người mà là của Thiên Chúa toàn năng. Đứng trước quyền năng của Thiên Chúa, con người chỉ có quyền khuất phục. Sứ thần còn cho một bằng chứng: “Kìa bà Ê-li-sa-bet, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng còn cưu mang một người con trai… đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Maria không còn có thể hồ nghi hay thắc mắc gì cả: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói”.
Sự vâng phục của Maria đã khởi đầu cho một thế giới mới, thế giới của ân sủng. Trẻ nhỏ được báo tin là Con Đấng Tối Cao. Người sẽ nhận lãnh ngôi báu Đa-vít, tổ phụ Người và triều đại Người sẽ vô cùng tận. Sự vĩnh cửu đã tràn vào thời gian, ngập tràn thế giới. Sự hư vô sẽ mặc lấy vĩnh cửu. Hết rồi, những ngày u tối… Ánh sáng thần linh đã đến trong ngục tối của tội lỗi. Chúng ta có thể ngẩng đầu lên và tin cậy. Hy vọng có thể nở tràn như vườn hoa muôn sắc. Mùa xuân của nhân loại đã khởi đầu. Maria, người nữ quê mùa đã trở nên cung điện của Vua Cả trời đất. Linh thiêng biết bao giây phút “xin vâng”!
Niềm vui trào dâng từ nơi môi miệng của “nữ tỳ Thiên Chúa”! Sự Cao Cả vô song đã kết hợp với sự nhỏ hèn tro bụi của trần gian. Đấng mà trời đất không thể chứa nổi đã trở nên con cái loài người.
Ôi nhiệm mầu của yêu thương!
Hãy vui mừng lên, hỡi Giê-ru-sa-lem! Vì Thiên Chúa đã đoái nhìn đến “phận hèn tớ nữ” - tớ nữ không chỉ là Maria, mà là những tâm hồn biết xin vâng. Trong tiếng xin vâng của Maria tàng ẩn tiếng xin vâng của cả nhân loại thành tâm là chúng ta, những người đã được diễm phúc nhận lấy niềm tin.
Đấng đã đến trong lòng trinh nữ Maria, hôm nay cũng sẽ đến trong mỗi người nhờ tấm bánh thần linh, bánh từ trời xuống, bánh ban sự sống đời đời. Chúng ta hãy thưa với Ngài tiếng “xin vâng” của chúng ta, để cuộc sống đầy cơ cực lo toan này, trở thành lời ca ngợi không ngừng Đấng đã thân hành đến với chúng ta, và mang ơn cứu độ cho chúng ta. Hãy vui mừng và tạ ơn vì tình thương tuyệt vời của Chúa.
9. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng nhấn mạnh sự đối đáp tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin Mừng. Bài Đọc I đưa ra một điều khó hiểu, bản văn Tin Mừng đem đến một câu trả lời.
2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16
Bài Đọc I thuật lại chuyện vua Đa-vít có ý định xây dựng một Đền Thờ ở thành đô Giê-ru-sa-lem làm nơi đặt Hòm Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Ngôn sứ Na-than khuyên vua hoãn lại kế hoạch nầy vì chính Thiên Chúa sẽ xây cho vua một “nhà”.
Rm 16: 25-27
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho muôn dân mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Ngài, đó là sai phái Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô, đến ở giữa loài người.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng tường thuật biến cố Truyền Tin, trong đó “nhà” mà Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Hòm Bia thánh, Đền Thờ tuyệt mỹ vô song được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16)
Vào khoảng năm 1220-1200 trước Công Nguyên, dân Do thái vào Đất Hứa, tức xứ Ca-na-an, và sống theo từng chi tộc rải rác khắp xứ dưới thời các Thủ Lãnh hay còn gọi là Quan Án. Tuy nhiên, mối đe dọa xâm lăng thường hằng của dân Phi-li-tin đòi hỏi một cơ cấu chính trị và quân sự vững mạnh hơn cơ cấu các “Thủ Lãnh”. Chính vì hoàn cảnh đòi buộc, họ buộc phải quyết định chọn một vị vua trần thế, sau một thời gian dài ngần ngại, bởi vì chỉ có Đức Chúa là vua duy nhất của dân tộc họ.
1. Vua Đa-vít muốn xây dựng cho Thiên Chúa một nhà:
Sau khi trở thành vua của toàn thể dân Ít-ra-en, vua Đa-vít lập chiến công nầy đến chiến công khác, đoạn bắt đầu thôn tính các các cứ điểm của dân Ca-na-an kể cả thành Giê-ru-sa-lem vào năm 1000 trước Công Nguyên. Vua nghĩ đến việc thiết lập thành Giê-ru-sa-lem làm thủ đô. Ông định cư ở đó và truyền dời Hòm Bia thánh về thành đô. Thực tế, vấn đề được đặt ra là tại sao không xây dựng một nơi xứng đáng và bền vững cho thánh tích đặc biệt nầy, biểu tượng sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Ngài? Cơ hội thật thuận tiện, lãnh thổ được chinh phục này không thuộc vào bất cứ một chi tộc nào. Vì thế, việc thiết lập ở đây thành một nơi phụng tự chung cho toàn dân Ít-ra-en có thể củng cố sự hiệp nhất cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện tôn giáo.
2. Câu trả lời của ngôn sứ Na-than.
Với tư cách là vị cố vấn của vua, ngôn sứ Na-than không thấy bất kỳ trở ngại nào đối với thiện ý của vua Đa-vít, vị vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc, hơn nữa, Thiên Chúa cho thấy Ngài luôn luôn che chở bảo vệ vua. Vì thế, ngôn sứ Na-than trả lời một cách tích cực: “Các điều ngài đang dự tính, xin ngài cứ thực hiện, vì có Chúa ở với ngài”. Ở đây ông đóng vai trò của một người tôi trung của vua.
Nhưng khi ngôn sứ Na-than được Thần Khí linh hứng, mọi chuyện hoàn toàn khác. Ông đến yết kiến vua và báo cho vua biết rằng Thiên Chúa đảo lộn vai trò: chính không phải vua Đa-vít xây nhà cho Đức Chúa; nhưng hoàn toàn ngược lại, chính Đức Chúa sẽ xây “nhà” cho vua và sẽ làm cho “nhà của vua” được muôn năm bền vững. Đây là kiểu chơi chữ trên một từ với hai nghĩa:“nhà” vừa có nghĩa “nơi để ở” vừa có nghĩa “dòng tộc”, tức là “vương triều” đối với vua. Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà vị cố vấn của vua Đa-vít thực hiện chức năng của một vị ngôn sứ. Ông không nói với vua ý kiến của riêng mình, nhưng truyền đạt cho vua đúng như Lời Chúa phán với ông, cho dù Lời ấy đi ngược lại với thành tâm thiện chí của vua đi nữa.
Dù đã chuẩn bị vật liệu rồi, vua Đa-vít không tiến hành công việc xây cất. Chính con của vua là vua Sa-lô-môn, sẽ hiện thực giấc mơ của vua cha và sẽ cho xây một đền thờ nguy nga tráng lệ.
3. Tầm quan trọng của sấm ngôn.
Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than là một trong những sấm ngôn Cựu Ước quan trọng bậc nhất loan báo Đấng Mê-si-a. Quả thật, các lời hứa dần dần được vén mở. Lời hứa đầu tiên là lời loan báo mầu nhiệm về mối thù giữa dòng dõi của người nữ và tên cám dỗ (St 3: 15). Tiếp đó, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập giao ước với ông Nô-ê và các con của ông, trong số họ, ông Sêm là “người được Thiên Chúa chúc phúc” (St 9: 26). Quả thật, chính từ dòng dõi của ông Sêm mà tổ phụ Áp-ra-ham sinh ra. Với vị tổ phụ nầy, Thiên Chúa đã chọn một dân dành riêng cho Ngài giữa muôn dân tộc khác. Với tổ phụ Gia-cóp, mặc khải ghi nhận một điểm mới, chính từ chi tộc Giu-đa mà vua Mê-si-a sẽ xuất hiện: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa…cho đến khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49: 10). Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than xác định rõ hơn: “vị vua nầy sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít”.
Trong nhiều thế kỷ, mọi niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a sẽ được kết tinh ở nơi tử hệ Đa-vít này. Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa hứa ban được phác họa như một vị vua lý tưởng: trong triều đại của Ngài, nền hòa bình và công lý sẽ ngự trị. Chỉ sau khi nền quân chủ không còn nữa, dung mạo Đấng Mêsia sẽ mang lấy những sắc thái khác, đặc biệt là “Người Tôi Trung”.
Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà sứ thần Gáp-ri-en quy chiếu đến khi loan tin cho Đức Ma-ri-a: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai…Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cũng chính ở nơi sấm ngôn nầy mà trong hoạt cảnh truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần quy chiếu đến khi gọi thánh nhân là “con cháu vua Đa-vít” (Mt 1: 20) và yêu cầu thánh nhân đón nhận Đức Ma-ri-a và Con Trẻ để qua ông mà Con Trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít. Và cũng chính ở nơi sấm ngôn ầy mà trong hoạt cảnh Đức Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, đám đông dân chúng quy chiếu đến khi tung hô Ngài là “Con vua Đa-vít” (Mt 21: 9).
BÀI ĐỌC II (Rm 16: 25-27)
Chính ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 mà thánh Phao-lô viết bức thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân dự tính đến Rô-ma, vì thế, ngài viết thư gởi các tín hữu Rô-ma nầy để chuẩn bị cuộc hành trình sắp tới của ngài. Nhưng những biến cố bất ngờ xảy đến không cho phép thánh nhân thực hiện dự định của mình. Bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào mùa xuân năm 58, đoạn bị chuyển đến giam ở Xê-da-rê, tiếp đó bị điệu đến Rô-ma. Trong khi bị giam cầm ở Rô-ma, ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Giáo Đoàn Rô-ma nầy mà ngài đã mong ước biết bao.
Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý.
1. Mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời:
Đoạn trích nầy là một bài thánh thi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí đã “mặc khải mầu nhiệm tự ngàn xưa vốn được giữ kín, nhưng nay đã được bộc lộ nhờ Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô mượn chữ “mầu nhiệm” ở nơi văn chương Do thái, đặc biệt văn chương khải huyền, cũng như sách Khôn Ngoan. Trái lại, các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ sử dụng thuật ngữ nầy một lần duy nhất, trong khi Tin Mừng Gioan thì không bao giờ.
Chữ “mầu nhiệm” nầy mang dấu ấn kinh nghiệm cá nhân của thánh nhân. Nhờ ơn thần khải trên đường Đa-mát, thánh nhân đã ngộ được ý nghĩa Kinh Thánh. Chương trình của Thiên Chúa qua các sấm ngôn mà trước đó thánh nhân đã không thể nào hiểu được thì nay được sáng tỏ. Cuộc Giáng Trần của Đức Giê-su, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã vén mở mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Thiên Chúa. Trong ánh sáng nầy, việc đọc lại Kinh Thánh có sức thuyết phục đối với mọi dân mọi nước.
2. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô:
Bài thánh thi bắt đầu với lời “tôn vinh” và kết thúc với lời “chúc tụng” Thiên Chúa. Chúng ta lưu ý rằng thánh nhân chấm dứt bài thánh thi nầy với biểu thức “nhờ Đức Giê-su Ki-tô”, nghĩa là, Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất của chúng ta. Thần học Ki-tô giáo vẫn luôn luôn trung thành với viễn cảnh nầy. Phụng vụ thường kết thúc các kinh nguyện theo cùng biểu thức nầy. Sau cùng, bài thánh thi hoàn tất với lời tuyên xưng “A-men” theo cùng cung cách kinh nguyện Do thái.
Như vậy, bản văn nầy chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Giáng Sinh sâu xa hơn. Dù mầu nhiệm Cứu Độ vẫn còn ẩn kín ở nơi Hài Nhi Máng Cỏ, tuy nhiên chính ở nơi Con Trẻ nầy mà mầu nhiệm sẽ dần dần được hé lộ.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38).
Hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ thể thức song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: thời Cựu Ước và thời Tân Ước, với hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: tư tế Da-ka-ri-a ở thành đô Giê-ru-sa-lem và cô thôn nữ Ma-ri-a tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét xa xôi hẻo lánh, nhất là với hai hài nhi của họ: Gioan tẩy giả và Đức Giê-su.
1. Khung cảnh truyền tin.
Với câu mở đầu: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” làm nhịp cầu nối kết hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thuộc miền Giu-đê, được xem là thành đô của dân Do-thái, để thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả của làng quê Na-da-rét nhỏ bé và khiêm hạ thuộc miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì đôi vợ chồng tư tế tuổi đã cao, biểu tượng những truyền thống Ít-ra-en xưa và trung tín, giờ đây chúng ta gặp cô Ma-ri-a, một thiếu nữ trẻ trung, đã đính hôn với chàng Giu-se và hướng đến đời sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ka-ri-a nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiện hơn, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
2. Lời chào của sứ thần:
Sứ thần vào nhà và chào Đức Ma-ri-a: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.
“Hãy vui lên” là cách thức chào hỏi của người Hy lạp, tuy nhiên, “Hãy vui lên” cũng là lời mời gọi ngân vang niềm vui của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9) hay: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on…Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” (Xp3: 14-15). Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy, lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời cho Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ đến thời đại Mê-si-a và chuẩn bị lòng Mẹ trong tư thế sẵn sàng đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa sủng ái không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài, nhưng những suy tư thần học còn thấy ở đây nhiều đặc sủng mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội”, nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tổ tông truyền, vì Đức Giê-su nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; “ơn trọn đời đồng trinh”, nghĩa là Mẹ hoàn toàn trinh khiết sau khi sinh con, vì Con của Mẹ cũng là Con của Thiên Chúa; “ơn hồn xác lên trời”, nghĩa là sau khi chết, thân xác của Mẹ không bị hư hoại trong nấm mồ, nhưng được lên trời cả hồn lẫn xác, vì không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta, cho bằng Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với Con.
“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12) khi ông e ngại đón nhận sứ mạng giải phóng dân Ngài. Một cách tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập đi lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ trong cung lòng thanh khiết của Mẹ.
3. Sứ điệp về Đức Giê-su.
Cũng như ông Da-ca-ri-a, nghe những lời chào ấy, Đức Ma-ri-a bối rối. Vì thế, sứ thần trấn an Mẹ: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Đoạn, sứ thần xác định mặc khải của mình: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
A. Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô):
Tên của Hài Nhi là “Giê-su”, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua Con Trẻ của Đức Ma-ri-a. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” hay “Con Thiên Chúa”. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xảy ra chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Ma-ri-a là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Thiên Chúa” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị cho mặc khải tiếp theo sau.
B. Con Thiên Chúa.
Một vấn đề Đức Ma-ri-a đã thẳng thắng nêu lên: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?” Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào tính hiệu quả của Lời Chúa, nhưng muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ kinh thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Ma-ri-a chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải của mình: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Sứ thần muốn Mẹ nhớ lại vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: “Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” ban sự sống cho vũ trụ lúc còn nguyên sơ (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình Tạo Dựng mới mà Đức Ma-ri-a được mời gọi dự phần vào.
Để Đức Ma-ri-a có thể thấu hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là diễn ngữ Kinh Thánh, như xưa kia, trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Thật ý nghĩa biết bao, cũng chính thánh Lu-ca sử dụng diễn ngữ nầy để mô tả biến cố Biến Hình: “Bổng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9: 34). Do đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ hơn mặc khải của mình:“Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng là chân tính thần linh của Hài Nhi, Con của Đức Ma-ri-a.
4. Sứ điệp về Đức Ma-ri-a.
Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự ý đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần kết thúc mặc khải của mình trong cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, khi ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà lão Sa-ra, có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).
Đây là một trong những chủ đề chạy xuyên suốt sách Tin Mừng và sách Công Vụ, cả hai đều là tác phẩm của thánh Lu-ca. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà cụ Ê-li-sa-bét hiếm muộn và tuổi đã cao, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng một cách thức như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Ma-ri-a, Mẹ của Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.
Với diễn ngữ Kinh Thánh “Phủ bóng trên bà” nhắc lại Hòm Bia Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài, Đức Ma-ri-a được vinh quang rạng ngời của Ngài bao phủ, và Thánh Thần thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ đối với Thiên Chúa. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Hài Nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.
Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ Tình Yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “tớ nữ của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện kế hoạch yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Bài Đọc I nói cho chúng ta biết vua Đa-vít muốn xây một nhà nguy nga tráng lệ để làm chỗ xứng đáng cho Hòm Bia thánh, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nhưng gặp phải sự từ chối của Thiên Chúa. Việc chối từ nầy mặc lấy ý nghĩa viên mãn của nó trong hoạt cảnh Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến ở với loài người là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần. Cung lòng của Đức Trinh Nữ là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ tuyệt mỹ vô song, là nơi cực thánh mà Thiên Chúa nhập thể chọn để sống ở giữa chúng ta.
10. Nữ Tỳ của Chúa
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Chiều mùa đông đã thắp sáng đèn các cửa hàng lộng kính. Dòng người tất bật trên đường phố lát đá chẻ, tiếng nhạc réo rắt bắt đầu trổi lên. Vang vọng giữa các tòa nhà, phố xá, dội vào người qua kẻ lại, khiến họ tự hỏi nhạc phát xuất từ đâu. Một số cặp mắt đổ dồn về người đàn ông tuổi 60, đầu hói và lún phún râu quai nón, đứng đơn độc, khoan thai giữa chốn thị tứ, với một chiếc mũ dưới đường trước mặt.
Rồi người đàn ông bắt đầu cất tiếng hát. Dần dần nhiều người dừng chân lắng nghe. Giọng opera cao vút của ông phản ánh tài năng đẳng cấp cao. Buồn thay, vẫn có những người vô cảm tiếp tục rảo bước bỏ qua, vội vã mua sắm. Nhưng đám thính giả dần tăng lên. Bị quyến rũ bởi những giai điệu mượt mà, êm ái và sang trọng, vài người bỏ tiền vào mũ. Hai cháu bé hồn nhiên dắt tay nhau cho một đồng xu. Dăm ba nụ cười tươi tắn, đồng cảm, vài kẻ kín đáo, vụng về lau những giọt nước mắt xúc động, thấm thía lời thánh ca Ngài Nâng Đỡ Con (You Raise Me Up). Hình như khán giả đều ngây ngất, xuất thần theo giọng ca điêu luyện của Martin Hurkins, người chiến thắng của "Holland’s Got Talent 2010."
Từ lâu nay, Martin Hurkins, được dân chúng Hòa Lan thân thương gọi bằng biệt danh Paparotti (danh ca Italy Luciano Paparotti). Ông vốn là thợ làm bánh. Đã từng mơ ước làm ca sĩ, nhưng vì mưu sinh và trách nhiệm gánh vác gia đình, mà ông đành kiên nhẫn chờ đợi ngày hiện thực ước mơ của mình. Sau khi về hưu được hai năm, thì gia đình ông khuyến khích đi thi "Holland‘s Got Talent 2010.” Martin Hurkins đã đoạt giải trong sự khiêm nhu. Ông xúc động, quỳ gối cảm tạ Thượng Đế. Và từ đó ông thường đi hát rong, ca ngợi Chúa ở ngoài đường phố. Thật là một cách rao giảng Phúc Âm tuyệt vời, một tông đồ âm thầm của Thầy Giêsu.
Nhìn hình ảnh lần đầu tiên Martin ra mắt khán giả với bộ quần áo nghèo nàn, với hàm răng ngả vàng, cái còn cái mất vì tuổi tác, vì vất vả mưu sinh. Rồi so sánh với hình ảnh ngày vinh quang ông đạt được, một Martin ăn mặc bảnh bao, hàm răng trắng tinh không mất cái nào. Tiếp đến, nhìn ngắm ông đứng ngoài đường phố, thành kính cất lên bài Thánh ca Ave Maria của Schubert, thì không ai không rung động, đồng cảm và mến phục. Và họ cảm tạ Chúa đã dùng người thợ về hưu này làm vườn nho cho Ngài vào giờ thứ 11. Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho Martin. (Theo David A. Sargent & DT)
Người thợ Giờ Thứ 11 Martin Hurkins đã noi gương Mẹ Maria khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ. Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hôm nay Thánh Luca tường thuật Đức Mẹ Maria được Sứ thần Gabriel truyền tin.
Mẹ khiêm nhu
Cô Maria đang ngồi xe chỉ luồn kim, miệng thầm hát Thánh vịnh, thì Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel hiện đến bái lậy, cất lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô.” Khiến Cô giật mình, ngạc nhiên, hốt hoảng, đứng bật dậy, bẽn lẽn, dịu dàng cúi mình đáp lễ.
Sau khi nghe Sứ thần Gabriel loan báo tin vui, Cô bắt chéo tay trên ngực, cúi xuống rất sâu, kính cẩn thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời Sứ Thần truyền.”
Một Eva mới khiêm nhu, đơn sơ, hạ mình, xóa tan đi hình ảnh Eva xưa kiêu căng, ngạo mạn, tham lam, đồng lõa với con rắn gian xảo, lừa gạt, nổi loạn. Eva cũ dìm nhân loại vào cõi chết. Eva mới đồng công cứu chuộc, giải thoát con người khỏi bóng tối tử thần, dẫn vào đời sống huy hoàng, vĩnh cửu.
”Đức Maria càng khiêm tốn, thì càng trong sáng, vì càng thấy rõ những sự kỳ diệu Chúa làm trong lòng Mẹ. Như ánh sáng qua một bóng đèn thủy tinh không vướng bụi.” (Đường Hy Vọng, số 512)
Mẹ vâng phục
Mẹ Maria nhận mình là nữ tỳ hèn mọn, trở nên hư không trước mặt Thiên Chúa. Tuyệt đối xả kỷ, bỏ mình, coi mình chỉ là công cụ của Chúa, ngoan ngoãn vâng theo Thánh Ý nhiệm mầu, sẵn sàng đón nhận sứ vụ cao cả, cưu mang Đấng Cứu Thế. Hai tiếng ”Xin Vâng” đủ nói lên tấm lòng tùng phục vô điều kiện, lòng trung thành, biết ơn và hoàn toàn kính trọng. Hai chữ đó, còn bộc lộ tình yêu dâng hiến tuyệt đối của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Eva cũ bất tuân, bất trung, bất nghĩa, thì Eva mới hoàn toàn trái ngược. Mẹ trung kiên cho đến khi lìa trần về trời, dù chịu bao gian nan, đau khổ, thách đố từ khi Mẹ thưa hai chữ ”Xin Vâng.”
”Xem một tâm hồn vui vẻ và nhanh chóng vâng phục chừng nào, con đoán được tâm hồn đó thánh thiện chừng nấy.” (Đường Hy Vọng, số 392)
Mẹ yêu thương
Tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần, Mẹ không vị kỷ, giữ làm của riêng, nhưng yêu thương chia sẻ cho tha nhân. Mẹ mau mắn đi thăm bà chị họ Elisabeth già nua, cũng được đặc ân thụ thai được sáu tháng.
Trong tiệc cưới Cana, Mẹ yêu thương đôi tân hôn nghèo túng, khẩn cầu Con Mẹ ra tay cứu giúp, khỏi mất mặt, thất lễ với khách mời dự tiệc.
Được Chúa trao phó, Mẹ nhận lấy Gioan và các tông đồ làm con Mẹ. Rồi toàn thể tín hữu Kitô cũng được ưu ái, trở thành con Mẹ dấu yêu. Biết bao lần Mẹ thân thương hiện ra với những ai yêu mến Mẹ, tín thác vào Mẹ, khẩn nguyện, van xin Mẹ chở che, phù hộ.
“Mẹ có thể hiện ra nơi đô thị, trong các Vương Cung Thánh Đường, cho các nhân vật quan trọng, các nhà thần học. Nhưng Mẹ đã chọn nơi hoang vu, núi đồi, xa vắng, với những kẻ chất phác, vì Mẹ muốn đến với những người không ai thèm đến, đến những chỗ không ai muốn đến. Mẹ muốn con cùng đến với Mẹ.” (Đường Hy Vọng, số 930)
Mẹ phục vụ
Từ khi thưa hai tiếng “Xin Vâng,” Mẹ đã toàn tâm toàn ý hiến dâng trọn đời phục vụ Thiên Chúa. Âm thầm mang nặng đẻ đau, chăm sóc, dưỡng nuôi Hài Nhi Giêsu. Lo lắng bôn ba tỵ nạn xứ người. Thất thần lạc mất Con. Rồi cùng Con lận đận, rong ruổi trên đường rao giảng. Đau đớn theo Con lê bước trên đường chịu nạn. Thổn thức dưới chân thập giá với Con sinh thì. Mẹ lại tiếp tục cưu mang, đồng hành cùng những người con mới, ông Gioan, các Tông đồ và tín hữu Kitô. Mẹ xứng đáng nhận lời khen ẩn ý: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta."(Mc 3, 35)
“Không gì quý bằng món quà lòng Mẹ Maria tặng cho chúng ta: Chúa Giêsu, món quà duy nhất. Chính lòng Đức Mẹ cũng quý nhất, vì “Giêsu Con lòng Bà.” (Đường Hy Vọng, số 923)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ, để chúng con xứng đáng trở nên anh em của Người.
Lạy Mẹ Maria, nữ tỳ trung thành của Thiên Chúa, xin Mẹ dẫn dắt chúng con tiến triển con đường nhân đức, bằng cách học theo Mẹ, tuân theo Lời Chúa, để được hội ngộ cùng Mẹ vĩnh viễn. Amen.
11. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
Thiên Chúa đầy yêu thương. Ngài đã sáng tạo con người cách kỳ diệu và Ngài cứu chuộc còn diệu kỳ hơn nữa. Để thực hiện kế hoạch cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn một người phụ nữ thánh thiện, tốt lành, đẹp nết, đẹp lòng mến Chúa không ai sánh bằng.
Thiên Chúa quyền năng và đầy lòng yêu thương, Ngài đã có kế hoạch thực hiện công trình cứu chuộc một cách kỳ diệu. Trước khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa đã xây dựng và điểm tô một nơi được gọi là vườn địa đàng nhưng hai ông bà nguyên tổ đã đạp đổ chương trình tốt đẹp này và hạnh phúc loài người cũng tan vỡ theo. Chính trong lúc ấy, Thiên Chúa dự định một công trình tạo dựng thứ hai đó là cứu chuộc loài người. Để thực hiện chương trình mới này, Thiên Chúa cũng muốn tô điểm cho vườn địa đàng mới này. Trong vườn địa đàng này đó là cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, nơi con Thiên Chúa chọn làm con người. Vườn địa đàng này là công trình của Thiên Chúa nhập Thể, nơi này diễn ra một hôn ước quan trọng, hôn ước giữa Thiên Chúa với nhân loại. Và từ đó, tình yêu đã bắt lại nhịp cầu giữa Trời và Đất, khai mở một kỷ nguyên mới.
Từ vườn địa đàng này, xuất hiện một sự ưng thuận mới, một sự vâng phục hoàn toàn. Đức Maria đã trở thành một Eva mới. Nếu Eva xưa đã chối bỏ kế hoạch tình yêu của Chúa mà đã làm theo kế hoạch đen tối của ma quỷ và đem tội lỗi cùng cái chết vào trần gian cho con cái loài người thì nơi Đức Maria, một Eva mới đã coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ nên đã trở thành người diễm phúc xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người và làm mẹ của cả loài người.
Giống như Đức Maria, mỗi người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa. Lời xin vâng của Đức Maria cũng là mẫu gương của cúng ta, chúng ta hãy tin tưởng, cậy trông và phó thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, sống đức tin giữa cuộc đời. Sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, "vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được".
Thiên Chúa dựng nên chúng ta một cách tự do nhưng để cứu chuộc chúng ta thì Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do, tự do đáp trả, thậm chí Ngài hoàn toàn lệ thuộc chúng ta. Như thế, con người được dựng nên có sự cao quý chính là được tự do đáp trả lời mời gọi đầy yêu thương và nhân lành của Thiên Chúa. Nếu như sứ thần đến báo tin và mời gọi Đức Maria cộng tác với Thiên Chúa thì trong cuộc sống hằng ngày, trước bao nhiêu biến cố Thiên Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đáp trả, thuận phục, Yes, thưa "Xin vâng" đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã tạo điều kiện cho Thiên Chúa làm người trong thân phận người Con của mẹ để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng được mời gọi đáp trả lời mời gọi sống chứng nhân cho Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta hãy để Ngài có thể tháp nhập và thể hiện Mầu nhiệm Tình yêu của Ngài trong thân phận làm người của chúng ta.
Thiên Chúa đòi hỏi một đáp trả tự do. Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do. Ngài không ép buộc ai làm điều gì. Như thế, sự đáp trả của chúng ta sẽ càng có giá trị hơn. Muốn đáp trả chúng ta cần phải có một tình yêu thuộc về Thiên Chúa, một tình yêu giống Thiên Chúa. Công trình cứu chuộc tự nó là công trình yêu thương tuyệt vời. Tiếng xin vâng của Đức Maria xuất phát từ trái tim đầy tình yêu và tín thác nơi Mẹ. Đó cũng là cách đáp trả mà mỗi người chúng ta cũng phải thưa lại với Thiên Chúa như Đức Maria xuyên suốt trong đời sống làm người của mình.
Từ lời xin vâng của Đức Maria đã hoàn toàn tận hiến mình để thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chúa cũng đang chờ đợi lời xin vâng, đời xin vâng của chúng ta để Chúa có thể làm nên những điều kỳ diệu cho chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho họ đạo chúng ta và còn cho cả thế giới nữa. Lời Xin vâng trọn vẹn, tuyệt đối, dứt khooát, vượt lên trên những lý luận khôn ngoan của loài người. Bắt chước Đức Maria, chúng ta đừng sợ hãi và hoàn toàn dấn thân vào cuộc "mạo hiểm tình yêu cao cả nhất". Noi gương Đức Maria, chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến với tha nhân, mở đường cho Thiên Chúa đi vào xã hội loài người.
Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng lòng mình lắng nghe tiếng Chúa và thực thi ý Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ giúp đỡ chúng ta có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con mở rộng lòng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và can đảm sống vâng phục, yêu thương như Thiên Chúa mời gọi. Amen
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam