Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1373007

XIN VÂNG ĐỂ CHÚA ĐẾN

"Xin vâng" để Chúa đến

Gương "xin vâng" của Đức Maria được nêu lên làm mẫu trong phụng vụ tuần IV Vọng để kêu gọi mọi người hoàn tất việc chuẩn bị Mừng lễ Giáng Sinh. Tuỳ mức độ "xin vâng" mà đón được Chúa đến nhiều ít. Đức Maria đã xin vâng tuyệt vời, trọn vẹn, đã được Lời nhập thể ngự xuống trong lòng không những cách thiêng liêng mà xuống thai, bắt đầu đời làm người ở giửa loài nguời, làm Đấng Emmanuel, để có lễ Noel.

Vài điểm chú giải

- Mừng vui lên, hởi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà: được đấy ân sủng và có Chúa ở cùng là lý do thật sự để được mừng vui. Có Chúa thì đầy ân sủng nên được vui mừng. Đức Maria đựoc vậy là tại sao? Phần tiếp theo của đoạn Phúc Âm nầy là lời giải thích.

- Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa: Lý do thứ nhất nhưng phần tiếp theo mới nói rỏ.

- Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu..: Giêsu nghĩa là Cứu Chúa. Ngưòi Do thái hiểu là Đấng Messia mà họ mong đợi. Ân sủng quá lớn "vô song" ngoài sự mong đợi của Đức Maria "làm bà sợ".

- Mà làm sao được vì tôi không muốn việc vợ chồng: Maria chỉ muốn hiến thân phụng sự Chúa cách đơn sơ đồng trinh trọn đời.

- Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao phủ bà...: Cách Thiên Chúa thực hiện điều sứ thần loan báo (theo tự nhiên thì không hiểu đươc). Với Thiên Chúa toàn năng thì không gì là không thể. Thiên sứ giải thích cho Maria.

- Vâng, tôi là nữ tỳ của Chúa xin Chúa cứ làm cho tôi theo lời sứ thần bảo: Đức Maria đã cho Thiên Chúa điều kiện quyết định cuối cùng như chúng ta đọc trong kinh Truyền tin "Chốc ấy Ngôi Hai đã xuống thế làm ngưòi và ở cùng chúng ta". Thiên Chúa "xin" một tiếng "xin vâng" yếu ớt của một thụ tạo nhỏ bé. Trí tự nhiên không hiểu nổi việc lạ lùng của Thiên Chúa cả khi sự việc đã xảy ra. Đức tin làm cho chúng ta xin vâng theo gương Đức Maria.

Thiên Chúa toàn năng, không gì là không làm được. Trí khôn loài người hạn hẹp, nhỏ bé làm sao hiểu nổi những việc lạ lùng của Thiên Chúa.

Con Thiên Chúa, Lời quyền năng nhờ đó mà Thiên đã tạo dựng và làm mọi sự, bây giờ được thiên sứ bảo là xuống thai trong lòng Đức Maria để rồi đủ ngày giờ sẽ sinh ra làm một bé thơ, làm Thiên Chúa ở với con nguời và thực hiện ơn cúư độ đã hứa từ xưa. Lý luận không hiểu được, lớn lao quá.

Chỉ Đức Maria, người đầy ân phúc, đẹp lòng Chúa, có Chúa ở cùng và nhất là đã thưa xin vâng bằng cả cuộc đời như một nữ tỳ mới nhận được. Ân huệ lớn lao của Maria, công trình kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện với những điều kiện ấy, những điều kiện rỏ ràng và rỏ rang là không có những điều kiện ấy thì Thiên Chúa dù quyền năng đến đâu cũng chịu bó tay.

Cũng vậy dù Chúa có muốn đến, dù chúng ta có muốn Chúa đến, có xin Chúa đến mà không có ít là một phần nào những điều kiện ấy thì Chúa cũng bó tay. Tuỳ theo mức độ mà chúng ta xin vâng, mà chúng ta có Chúa ở cùng, mà Chúa có thể đến và ở lại với chúng ta. Người ta cứ nói Chúa ban ơn nhưng không để cứ làm xấu, không hối cải, không vâng lời Chúa dạy, mà cứ xin Chúa đến "tội nghiệp Chúa", Chúa không làm được.

Chúa đến ở với thì có Chúa, Chúa là nguồn ân sủng. Có Chúa là có ân sủng. Đầy Chúa là đầy ân sủng. Nhưng phải đẹp lòng Chúa. Cứ nói Chúa thương con Chúa cứ đến, cứ ban ơn, cứ ở với con dù con chèm nhèm, hôi hám, "tội nghiệp Chúa", dù Chúa sinh ra trong chuồng gia súc, trong cỏ rơm hèn mạt nhưng Chúa vẩn là Thiên Chúa cao trọng vô cùng. Chúa hạ mình làm một trẻ thơ hèn mọn trong đóng cỏ rơm là để ai cũng đến và rước Chúa về ở với mình được mà không phải sợ.

Muốn Chúa đến và đem hồng ân đến cho thì phải chuẩn bị cho mình có ít thì cũng một phần nào đời sống "xin vâng" của Đức Maria. Đẹp lòng Chúa mới có Chúa, mới có ân sủng và sự vui mừng của Chúa.

 

25. Thiên Chúa đến xây nhà Ngài – Guy Morin

Thiên Chúa xây dựng cách mạnh mẽ và tự do.

Nhà, cũng như thức ăn và áo mặc, là một nhu cầu sơ đẳng của con người. Nó mang đủ mọi hình thức: nhà ở, trường học, bệnh viện. Khi có xây cất, thì có sự sống. Ngay cả những làng ma, như là Val Tal Jalbert, cũng chứng tỏ là có sự sống trong quá khứ. Để bao đảm đời sống của mình, con người đưa ra những dự tính về nhà cửa.

Thiên Chúa, Đấng hằng sống, cũng vạch ra những dự án. Thánh Kinh thường trình bày Ngài như Đấng xây cất. Nhưng lối xây cất của Ngài khác với chúng ta, những dự án của Ngài cũng vậy. Những bài đọc hôm nay nêu cho chúng ta hai thí dụ.

Dự án của Đavít.

Khoảng 1000 trước Công nguyên, Đavít đang thống trị ở Israel. Ông đã thắng kẻ thù, thống nhất đất nước, biến Giêrusalem thành thủ đô và xây cất lâu đài của ông ở đó.

Là một vị vua đạo đức, ông cảm thấy áy náy lương tâm: “Tôi ở một ngôi nhà bằng gỗ bá hương còn hòm bia Thiên Chúa lại ở trong lều”. Ông quyết định xây một đền thờ cho Thiên Chúa. Ông muốn dâng cho Thiên Chúa một nơi ở ổn định. Đây là một dự án phát xuất từ một bản tính tốt nhưng lại quá giống cách người ngoại giáo cư xử với những thần minh của họ. Đavít muốn đặt Giavê vào trong thủ đô của mình, sở hữu Ngài, nắm Ngài trong tay mình. Nhưng Giavê khác hẳn. Ngài tự do và độc lập đối với con người. Ngài không chịu bị nhốt vào một chỗ vì Ngài di động và hoạt động. Chính Ngài đã đưa Israel từ xứ Ai Cập lên.

Ngôn sứ Nathan cho Đavít biết sự từ chối của Thiên Chúa. “Có phải ngươi sẽ xây cho Ta một nhà để Ta ở chăng?”… Thiên Chúa cho ông biết rằng chính Ngài sẽ tự làm nhà cho Ngài… “Dòng dõi ngươi và vương quốc của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta”.

Thiên Chúa từ chối dự tính của Đavít nhưng trái lại, Ngài hứa với ông một điều tuyệt vời: một dòng dõi, một hậu duệ vĩnh viễn. Thiên Chúa cam kết tương lai, tương lai của Ngài với dân Ngài. Ngài nắm sáng kiến vì Ngài là Thiên Chúa tự do. Ngài đặt dự tính của Ngài bên dự tính của con người.

Dự tính của Thiên Chúa.

Một ngàn năm sau, Thiên Chúa đã tự tay thực hiện lời hứa với Đavít. Con Một Ngài sẽ mặc lấy xác phàm và sẽ làm con của dòng họ Đavít, vì Maria, mẹ của Con Ngài, đã đính hôn “với một người thuộc dòng họ Đavít tên là Giuse”. Như vậy Thiên Chúa thể hiện cách tuyệt vời dự định của Ngài là ở với loài người. Thánh Luca kể lại cho chúng ta việc này đã được thực hiện như thế nào. Cũng như trong trường hợp với Đavít, Thiên Chúa nắm tất cả sáng kiến: Ngài điều khiển, nhưng trong sự tôn trọng tự do của Đức Maria.

Trong việc thực hiện dự tính của Ngài, Thiên Chúa gạt sang một bên các cơ cấu tôn giáo của Israel. Biến cố sẽ không xảy ra tại Giêrusalem, thành thánh và có danh tiếng, nhưng tại Nadaret, một ngôi làng không ai biết đến. Cũng không phải tại Đền Thờ nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng trong một ngôi nhà tầm thường. Ngài không ngỏ lời với một vị tư tế như trong trường hợp Gioan Tẩy Giả, nhưng với một thiếu nữ đơn sơ không chức quyền.

Thiên Chúa hành động theo phong cách của một vị vua. Ngài sai thiên thần Gabriel đến loan báo cho Đức Maria bằng những lời lẽ chính xác: “Này bà sẽ thụ thai…”. Ngài đặt tên cho con trẻ: “Bà sẽ gọi tên Người là Giêsu”. Trước câu hỏi của Đức Maria Ngài đã có sẵn câu trả lời: “Thánh Thần sẽ rợp bóng trên bà”. Đức Maria không xin dấu chỉ nhưng cũng được ban cho một dấu chỉ: Isave mang thai. “Vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được”.

Thiên Chúa hành động cách tự do và mạnh mẽ. Tuy nhiên Ngài tôn trọng tự do của Đức Maria trong việc chấp nhận hay không dự tính của Ngài. Ngài không đòi điều gì hết ngoài sự ưng thuận. Một thứ giấy phép xây cất. Vì Thiên Chúa không xây cất một tòa nhà vật chất bằng đá hoặc bằng gỗ nhưng là con người sống động. Nhà của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đền Thờ thật sự sẽ là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và con vua Đavít. Thiên Chúa làm điều mới mẻ nhờ sự công tác của Đức Maria.

Sứ điệp.

Thiên Chúa không ngừng thực hiện việc xây cất của ngài. Hôm nay nữa, Ngài vẫn đề ra những dự án để thực hiện mục tiêu của Ngài: Qui tụ toàn thể nhân loại dưới quyền Chúa Kitô. Nếu, như Đức Maria, chúng ta lắng nghe Thiên Chúa, nếu chúng ta đón nhận lời Ngài, Ngài sẽ làm cho chúng ta trở thành những cộng tác viên của Ngài. Tuy nhiên ta đừng chờ đợi Thiên Thần hiện ra! Ta hãy tìm hỏi nơi Tin Mừng và nơi những nhu cầu của Giáo Hội. Thiên Chúa có những dự tính của Ngài nơi mỗi người chúng ta. Ta phải tìm cho ra và dấn thân thực hiện.

 

26. Truyền tin cho Đức Maria

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Phụng vụ công bố bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria (Lc 1,26-38) để nói với chúng ta về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp giáng sinh, đồng thời mời gọi chúng ta sống thái độ tâm linh thánh thiện đích thực như Đức Maria để đón Người.

“Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (cc.26-27).

Thiên sứ Gabriel là sứ giả của biến cố cánh chung, mở ra thời kỳ của sự hoàn tất, thời viên mãn. Thiên sứ được Thiên Chúa sai đến (tác giả Tin Mừng không nói ngài “hiện ra”) với một trinh nữ. Tác giả Lc mô tả Đức Maria với ba chi tiết: trinh nữ, tên là Maria, và đã thành hôn (hay đính hôn, hay kết hôn, tùy cách dịch). Người ta tranh luận nhiều về việc nên dịch là đính hôn hay thành hôn hay kết hôn. Thực ra, cả ba cách dịch đều... chính xác hoàn toàn. Điều quan trọng nhất, vì thế, không phải là hạn từ tiếng Việt nào cần chọn, mà là điều tác giả sách Tin Mừng muốn trình bày.

Tiến trình lễ cưới của người Do Thái gồm hai bước. Bước thứ nhất là việc kết hôn về mặt pháp lý. Sau việc này, cô gái đã trở thành vợ về phương diện pháp luật, như vẫn còn ở nhà cha mẹ khoảng một năm nữa, và do đó, vẫn chưa có quan hệ tình dục với người chồng. Cuộc hôn nhân đã có giá trị về phương diện luật pháp. Ta tạm gọi là ‘đã kết hôn’. Bước thứ hai: việc đón cô dâu về gia đình người chồng, ở đó, lễ cưới được hoàn thành.

Khi thiên sứ đến, Đức Maria đang ở trong giai đoạn đã kết hôn với thánh Giuse về phương diện pháp luật, nhưng các ngài chưa về chung sống với nhau, và do đó, Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Nơi sự già nua và son sẻ của bà Êlisabét, quyền năng của Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sinh hạ lạ lùng, như từng xảy ra trong Cựu Ước nhiều lần. Với sự đồng trinh của Đức Maria, Thiên Chúa thực hiện một sự can thiệp mang bản chất sáng tạo. Cuộc chào đời lạ lùng của Gioan Tẩy Giả thuộc về chuỗi những trường hợp đặc biệt của Cựu Ước, và như thế, với Dacaria và Êlisabét, Thiên Chúa đã làm một “tổng hợp” những sự can thiệp trong Cựu Ước. Nhưng với Đức Maria đồng trinh thì hoàn toàn khác: có một khởi điểm mới, một sự can thiệp hoàn toàn chưa có tiền lệ.

Vậy “thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (c.28). Thiên sứ Gabriel đã không gọi Mẹ bằng tên riêng “Maria”, mà gọi là “Đầy ân sủng” (theo văn phạm tiếng Việt, chúng ta phải dịch là “Đấng đầy ân sủng”). “Đầy ân sủng” là lối nói mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện điều gì nơi Đức Maria và do đó, Đức Maria đã trở nên điều gì đối với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc; Người đã ban cho Mẹ tất cả vẻ duyên dáng nhờ những ân điển của Người; Người đã làm cho Mẹ trở thành vô cùng đáng yêu trong mắt Người; và vì vậy, ân huệ của Người và tình yêu của Người luôn hướng về Mẹ; Người bị hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng do chính Người tạo nên bằng các ân huệ thiêng liêng của Người. Đức Maria đã xứng đáng được Thiên Chúa lưu tâm và yêu mến. Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc, đến nỗi tình yêu và sự quan tâm của Người lại bị thu hút bởi chính vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng mà ân sủng của Người đã làm nên. Và đó thực sự là một mầu nhiệm của mối tương quan giữa Thiên Chúa với Đức Maria. Với tất cả sự ngạc nhiên, với tất cả sự thán phục, với tất cả lòng tri ân, chúng ta được mời gọi suy niệm: làm sao Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường, lại đã nghiêng mình một cách đặc biệt như thế trên cô thôn nữ Nadarét và đã làm cho cô thôn nữ ấy trở nên xứng đáng với tình yêu của Người như vậy? Đó vẫn thực là một mầu nhiệm vượt quá trí hiểu của con người.

“Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (c.29). Sự bối rối ở đây là một yếu tố trong cấu trúc của các trình thuật truyền tin trong Kinh Thánh. Ông Dacaria cũng bối rối (1,12). Nhưng ông Dacaria bối rối vì nhìn thấy thiên sứ (liên quan đến cái nhìn) và ông trải qua một cơn sợ hãi điển hình của những cuộc giáp mặt với một thực tại cõi trời. Trường hợp Đức Maria thì hoàn toàn khác: Đức Mẹ không hề sợ hãi, và sự bối rối xảy ra do nghe lời thiên sứ nói (liên qan đến sự nghe). Điều này cho thấy cần phải hiểu câu 29 không phải như một chi tiết tiểu sử, và do đó, không cần phải tìm cách giải thích sự bối rối này theo quan điểm tâm lý học.

Thật ra, với c.29b: “[Đức Maria] tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”, chúng ta có quyền và cần phải hiểu chi tiết Đức Maria bối rối chỉ là một chi tiết có chức năng chính yếu là văn chương, cho phép thiên sứ đào sâu diễn từ đang được trình bày. Nói cách khác, chi tiết này có vai trò chuyển tiếp từ lời tuyên bố thứ nhất sang lời tuyên bố thứ hai của thiên sứ Gabriel.

“Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (cc.30-31). Ơn sủng được nói ở c.28 bây giờ được diễn tả trong một cách nói khác: đẹp lòng Thiên Chúa. Và ơn sủng đó làm nên tứ cách làm mẹ của Đức Maria, hay nói cách khác, ơn sủng đó trước hết nằm ở người Con mà Mẹ sẽ sinh hạ từ cung lòng mình.

“Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (cc.32-33). Các câu này nhấn mạnh sự lớn lao của Đấng sẽ được sinh ra từ cung lòng Đức Maria.

“Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (c.34). Căn cứ vào phong cách văn chương được sử dụng để viết trình thuật truyền tin, và căn cứ vào câu trả lời của thiên sứ ở c.35 tiếp sau, có thể nói: câu 34 này là một kỹ thuật hành văn của thánh Luca, và đảm nhận một chức năng kép. Một đàng, nó có chức năng khẳng định sự thành thai đồng trinh của Đức Giêsu, và đàng khác, nó có chức năng chuẩn bị, về mặt văn chương, cho mạc khải tối hậu về Đức Giêsu ở câu 35.

“Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35). Với câu này, tác giả sách Tin Mừng đặt trên miệng thiên sứ Gabriel lời trình bày một truyền thống Kitô giáo rất đậm đặc về nội dung. Ông sử dụng động từ “rợp bóng” để ám chỉ đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, dấu chỉ sự hiện diện của Đức YHWH giữa dân Người: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức YHWH đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,35.38; Ds 9,18; 10,34...). Đàng khác, chúng ta gặp ở c.35 lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh tiên khởi, cho thấy sự chờ đợi Đấng Mêsia của dân Do Thánh đã bị vượt quá. Quyền năng Đấng Tối Cao và sự rợp bóng của Thánh Thần không xảy đến trên vị vua nhà Đavít, mà là trên thân mẫu Ngài. Và Đấng sẽ được sinh ra lại chính là Con Thiên Chúa.

“Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (cc.36-37). Những gì đang xảy ra cho bà Êlisabét chính là dấu chỉ của tính cách hữu hiệu của lời thiên sứ: quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình kỳ diệu nơi Đức Maria. Thiên sứ kết thúc câu chuyện với Đức Maria bằng việc khẳng định tính cách hữu hiệu của lời Thiên Chúa nơi Đức Maria.

“Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (c.38). Đức Maria diễn tả sự vâng phục tuyệt vời của Mẹ với chương trình của Thiên Chúa. “Tôi tớ của Đức Chúa” là danh hiệu rất phong phú về ý nghĩa, thường được Kinh Thánh áp dụng cho các nhân vật như Abraham, Môsê, Đavít, các ngôn sứ, Vị Tôi Trung đau khổ... Đó là những con người được Thiên Chúa chọn vì dân Người.

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta những khẳng định thần học quan trọng về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp được sinh ra, đồng thời khắc họa dung mạo của Đức Maria trong tư thế người tin và người tôi tớ tuân phục. Đó cũng là hai thái độ tâm linh căn bản mà chúng ta phải có khi chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh.

 

27. Đức Chúa ở cùng chúng ta

(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ)

“Quyền năng Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà” (Lc 1,35).

Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng của Gioan Tiền hô. Lời Chúa hôm nay trình thuật biến cố truyền tin cho Đức Maria, khi Gioan còn trong bụng mẹ. Xét về trình tự thời gian, có vẻ như không hợp lý, nhưng các bài đọc Kinh Thánh lại ẩn chứa một ý nghĩa thần học rất sâu xa. Gioan Tiền hô tổng tóm những gì cựu ước nói tới. Ngài là hình tượng của Isaia, khi công bố kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Isaia từng loan báo, ngày của Chúa sẽ đến, một ngày đầy khiếp hãi. Gioan Tẩy giả vang vọng lại lời hứa ấy, trong khi Đức Giêsu đến trần gian để làm cho lời Thiên Chúa hứa được thực hiện cách tròn đầy.

Lời Chúa hứa được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất. Vua Đavid đã đến cư ngụ tại Giêsusalem và lúc bấy giờ ông mong muốn xây một ngôi đền cho Đức Chúa Giavê. Ngôn sứ Nathan, dưới triều vua Đavid, coi đó như một ý định tốt lành, nhưng Thiên Chúa lại có một kế hoạch khác. Thay vì Đavid xây nhà cho Thiên Chúa, thì chính Chúa lại xây nhà cho ông. Từ ngữ bayit, là một cách chơi chữ, vì nó vừa có nghĩa là nhà ở, đồng thời cũng mang nghĩa là triều đại. Đavid có ý định xây một đền thờ, xây một ngôi nhà, một bayit cho Chúa, nhưng Thiên Chúa lại củng cố bayit của Đavid, cũng là xây nhà cho Đavid, hay xây dựng triều đại của ông. Thiên Chúa hứa một điều rất khác thường. “Nhà của Ngươi và triều đại Ngươi sẽ đứng vững mãi mãi trước nhan Ta. Ngôi báu của Ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”.

Lời Chúa hứa dành cho Đavid được dân Israel khắc ghi trong tâm khảm. Dân Do Thái coi đó như một giao ước rất rõ ràng và minh nhiên (Hc 45,25). Có phải Thiên Chúa đã hủy bỏ giao ước, khi vương quốc Đavid sụp đổ, và dân Chúa phải đi lưu đày? Thiên Chúa đã hứa, thế thì phải chăng Ngài đã hủy bỏ điều mà Ngài đã ký kết? Hay vì tội lỗi của dân quá lớn và quá nhiều, khiến Thiên Chúa bỏ rơi dân Ngài? Sau này Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn luôn tín trung, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13). Nhưng dường như ở đây, xem ra có vẻ như Thiên Chúa đã không tín trung, đã thất hứa với lời thề thốt của mình. Có đúng như thế không? Chắc chắn không phải vậy.

Trong bài Tin Mừng, qua biến cố truyền tin cho Đức Maria, thần sứ đã nêu ra câu trả lời trước vấn nạn trên. Chuyện thất tín không bao giờ xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ quên giao ước Ngài đã hứa. Trong phần đầu tiên, Gabriel đã chuyển tải sứ điệp để trả lời cho khúc mắc đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng vua Đavid tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận”(Lc 1, 32-33). Tiếp theo, thần sứ nói với Đức Maria một điều vượt quá sức tưởng tượng: “Chúa Thánh Thần sẽ phủ bóng trên Bà, và hài nhi được sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

Từ lời hứa trong cựu ước, đến việc thực hiện khi Đức Giêsu đến trần gian, đã được Tân ước diễn bày qua những cách nói biểu trưng. Các tác giả Tân ước, nhìn lại những biến cố của cựu ước như chìa khóa tiên báo và là những hình tượng tiên báo các thực tại sau này. Adam trong cựu ước là hình ảnh nói về Đức Giêsu (Rm 5,14). Elia là khuôn mẫu của Gioan Tẩy giả (Lc 1,17). Dân Israel là hình tượng biểu thị cho Giáo Hội (1 Ph 2,a). Chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria với hình ảnh biểu trưng trong Cựu ước giống như thế. Đức Maria là hình mẫu tròn đầy nhất mà dân Israel đã phác vẽ. “Trinh nữ”, hoặc ý niệm về “Người Con Gái Trinh Nữ” là danh xưng ám thị Israel. Lời chào của Thần sứ “Chaire” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là kính chào, hoặc “Hãy vui lên”, phác vẽ lại hai lời công bố trong cựu ước. Một, là loan báo quyền năng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện để mang lại sự cứu thoát, và hai, là lời hoan vui “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion”(Gio 9,9; Sop 3, 14-17).Qua một hình ảnh khác, Đức Maria được loan báo cho biết “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà”. Đây là thuật ngữ mà bản Kinh Thánh 70 (septuagint) đã sử dụng để diễn tả sự kiện vinh quang của Thiên Chúa phủ ngập trên lều Chứng Ước. Trong căn lều đó, ánh sáng chói lọi và vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn ngập tràn (Xh 40,35).

Maria là dung mạo hiển thị Israel trong Cựu ước. Sự trung tín của Đức Maria cũng tương hợp với sự trung thành của dân Chúa khi thực hiện giao ước. Đức Maria là đền thờ của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ luôn tràn ngập vinh quang Ngài. Thiết tưởng, Đức Maria như một tấm gương, qua Ngài chúng ta có thể nhìn ngắm và phản chiếu niềm tin của chúng ta, từng cá nhân cũng như cả cộng đoàn. Tất cả mọi người chúng ta trong lòng tin, chúng ta sẽ là những giai nhân tuyệt mỹ, là con gái Israel không tỳ vết. Chúng ta là đền thờ của Đấng Tối Cao. Và như thế, chúng ta cũng như Đức Maria, là những người mang chở Thiên Chúa trong cung lòng mình. Có thể trong Giáo hội hiện nay, đa phần là những người nam nắm quyền lãnh đạo. Nhưng hình ảnh trên mang tính đặc thù để mời gọi chúng ta, nam cũng như nữ, chúng ta hãy mặc lấy căn tính cao quý này. Chúng ta có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Đứng trước viễn cảnh mà thần sứ đã phác dẫn, Maria thực sự bối rối. Nhưng Ngài đã quy thuận Thánh ý Thiên Chúa và thể hiện căn tính cao trọng nơi mình, để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể thực hiện giống như thế được không?

 

28. Ngôi Đền Vàng của Đấng Tối Cao

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm nay, Thiên Chúa muốn mỗi người trở thành nơi Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy trở thành nơi Thiên Chúa ngự như cung lòng Đức Maria, trở thành nơi Thiên Chúa sinh hạ như máng cỏ ở Bêlem, trở thành đền thờ để Thiên Chúa ngự trị và hiển lộ.

1. Ngôi nhà Thiên Chúa ngự

Vua Đavít muốn xây dựng một ngôi đền thờ cho Chúa ngự, vì vua nghĩ rằng thật không phải khi vua sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn Chúa ngự nơi “lều tạm.” Vua Đavít đã đem ý định này nói cho tiên tri Nathan, và tiên tri với lý trí con người, nghĩ rằng vua cứ làm theo điều vua thấy đúng.

Lời Chúa đã nói với tiên tri Nathan, để nói với Đavít: “ngươi là con người, mà muốn xây nhà cho Thiên Chúa ở sao?” Chính Thiên Chúa mới là Đấng “xây nhà” cho Đavít. Chính Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Đavít khi vua còn là cậu bé chăn chiên, đã làm cho Đavít nổi tiếng, đã cho Đavít chăn dắt nhà Israel. Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho Đavít, sẽ cho triều đại vua tồn tại qua một người con cháu. Đáp lại ý định quảng đại của Đavít, Thiên Chúa mặc khải cho vua biết ý định của Ngài: một người từ dòng dõi của vua sẽ được yêu thương đặc biệt, và triều đại của vị vua đó sẽ trường tồn vạn đại. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người vượt xa vô cùng điều con người định làm cho Thiên Chúa.

Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.

2. Đền thờ sống động cho Thiên Chúa

Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng xây dựng ngôi đền thờ này qua cha mẹ mỗi người khi cho mỗi người được sinh ra qua cha mẹ mình; cũng chính Thiên Chúa tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngôi đền thờ này qua những lời giảng dạy của những thày cô dạy giáo lý, qua các người thuộc về Ngài như các tu sĩ, qua chính Giáo Hội qua các linh mục và toàn thể dân Chúa.

Chính Thiên Chúa đang xây dựng đền thờ sống động là mỗi người chúng ta cho Ngài. Không ai xây dựng ngôi đền thờ này ngoại trừ chính Ngài, những người khác chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng. “Lều tạm” nơi dân Do Thái ngày xưa, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân Do Thái. Mỗi người là đền thờ Thiên Chúa, không chỉ như lều tạm nữa, mà là nơi Thiên Chúa vui thích ngự vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Không ai yêu thương mình bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương tôi nhất.

Đền thờ Thiên Chúa là nơi con người có thể tới để gặp gỡ, nói chuyện, tâm sự với Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác, trở thành biểu hiện Thiên Chúa yêu thương người khác, trở thành dụng cụ sống động để Thiên Chúa hiện diện và diễn tả tình yêu của Ngài cho tha nhân. Mùa vọng và mùa Giáng Sinh, là dịp rất tốt để mỗi người trở về với Thiên Chúa, để mình sẵn sàng cho Thiên Chúa ngự trị và làm những gì Ngài muốn qua chính con người của mình.

3. Đức Maria- Đền Thờ Sống Động Tuyệt Vời của Thiên Chúa

Đức Maria đã đính hôn với Giuse (Lc.1, 27). Như vậy phải chăng cô gái tên Maria này đã quen Giuse, đã yêu Giuse; và họ đã quyết định lập gia đình với nhau; hơn nữa họ đã đi một bước dài: đã đính hôn. Có lẽ chỉ chờ thời gian để thành vợ thành chồng, chờ khi Giuse đón Maria về nhà mình.

Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời của Maria và Giuse, và qua đó ảnh hưởng tất cả nhân loại. Thiên Chúa đề nghị Maria có thai và sinh một con người đặc biệt, không phải do Giuse: “việc đó xảy ra thế nào, vì cho tới bây giờ tôi chưa có liên hệ vợ chồng (với Giuse)” (Lc.1, 34). Sứ thần cho biết, đây là con người đặc biệt, Thiên Chúa là Cha của Người, Người này sẽ trị vì trên nhà Đavít, nước Người rộng vô biên.

Để có thể thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, đức Maria đã phải đặt

· tình yêu Thiên Chúa trên tình yêu riêng (đối với thánh Giuse);

· ý định Thiên Chúa trên danh dự gia đình;

· niềm tin vào Thiên Chúa hơn là chính con người của mình.

Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, thì đức Maria mất người mình yêu thương. Khi thưa tiếng xin vâng, Maria sẵn sàng chấp nhận trường hợp này; vì ý Thiên Chúa được coi là trên hết đối với đức Maria. Nếu Giuse không chịu hiểu, và nếu chuyện tai tiếng xảy tới cho gia đình, làm sao thánh Gioan-Kim và thánh Anna có thể chịu đựng được điều như vậy? Đức Maria chấp nhận tất cả điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho gia đình cha mẹ và họ hàng, ý định của Thiên Chúa phải được coi là trên hết. Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, nếu Giuse tố cáo công khai thì sao, Maria có thể bị ném đá chết như một phụ nữ phạm tội ngoại tình! Nếu chuyện xảy ra như vậy, thì việc nhận lời thụ thai nào có ích lợi gì? Không, đức Maria vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả những gì, và Ngài có thể làm cho thành sự những gì Ngài đã khởi đầu. Chỉ khi phó thác như vậy, đức Maria mới có thể thưa tiếng xin vâng đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, dù Mẹ chưa thấy rõ hoàn toàn tương lai của mình. Chưa thấy rõ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc.1,45). Lúc này, những gì Thiên Chúa nói với Mẹ chưa được thực hiện, nhưng Mẹ tin chúng sẽ được thực hiện. Những điều này Đức Maria chỉ thấy được thực hiện khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết. Đức tin của Mẹ thật tuyệt vời.

Với tiếng Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa có thể thực hiện chương trình cứu độ con người của Ngài. Thiên Chúa cần tiếng Xin Vâng của Đức Maria. Thiên Chúa cũng cần tiếng “xin vâng” của mỗi người chúng ta, để thực hiện công trình cứu độ mỗi người chúng ta. Tiếng xin vâng của Đức Maria làm biến đổi lịch sử hoàn vũ, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời, người được chúc phúc giữa mọi người nữ. Nếu chúng ta thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, có thể Thiên Chúa đang dùng chúng ta để biến đổi môi trường sống của chúng ta: làm những người ở đó bình an hơn, vui hơn, hạnh phúc hơn. Lúc đó, chúng ta trở nên đền thờ sống động của Thiên Chúa, là nơi hiển lộ Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo bạn, người mà Đức Maria cưu mang và sinh hạ là ai vậy?

2. Khi nào và làm sao người ta biết người con Đức Maria cưu mang là Thiên Chúa nhập thể?

3. Tại sao lại phải loan báo về Đức Giêsu? Ích lợi gì?

4. Bạn đã và đang làm gì để trở nên máng cỏ sống động cho Thiên Chúa được sinh ra?

 

29. Bối rối, thắc mắc, ưng thuận.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Thiên ký sự tuyệt diệu về Truyền tin chắc chắn là dư âm của một trong những kỷ niệm –theo thánh chép sử Luca- được Maria ấp ủ trong lòng. Có lẽ thánh Luca được nghe lời tâm sự từ miệng Đức Maria nói ra khi ông ngụ tại Giêrusalem trong thời gian thánh Phaolô bị giam ở Rôma. Biến cố mầu nhiệm và thần kỳ được Đức Maria kể lại cho ông bằng những lời đơn sơ, nhưng chắc chắn là phong phú hơn một bản tự thuật ngắn, và được diễn tả trong một ký sự bóng bảy, đầy hình ảnh, như người đồng thời ưa chuộng. Sự kiện Truyền tin là một sự kiện chắc chắn, có thật, nhưng chính thánh chép sử không kể lại như một thiên phóng sự tuyệt đối chính xác. Vẻ đẹp, vẻ uyển chuyển của câu chuyện có giá trị ở chỗ nó mở rộng tâm trí ta để suy niệm không biết mệt mỏi về sự phong phú của sự kiện Truyền tin. Chúng ta tiến vào bối cảnh của sự thật khi chúng ta suy gẫm về thiên ký sự, từng câu một. Tuy nhiên chúng ta dễ hình dung rằng thực tại được Đức Maria trao gửi thánh Luca còn sâu sắc, phong phú và huy hoàng hơn thế nhiều. Tới đây chúng ta dừng lại để suy niệm về 3 câu:

1) Nghe những lời đó, nàng bối rối qua sức, và tự hỏi về ý nghĩa lời chào mừng của Thiên thần. Maria bối rối. Chỉ nguyên việc Thiên thần hiện ra cũng đủ làm cho nàng xúc động mãnh liệt, những lời của thiên sứ khiến cho tâm thần nàng rối loạn vì nhận thấy, xuyên qua những lời đó, một sứ điệp phi thường. Thật vậy lời chào: Kính mừng bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, gồm những từ ngữ được các ngôn sứ chuyên dùng khi nói đến Giêrusalem. Não trạng Do Thái thời đó được nuôi dưỡng bởi một niềm hãnh diện và hy vọng: Giêrusalem được Thiên Chúa tuyển chọn, được tràn đầy ơn sủng của Người, được ban cho thiên chức vượt cao trên khắp mọi thành thị thế gian. Vậy mà Thiên thần kính chào Maria bằng những từ ngữ người ta quen dùng cho Giêrusalem. Nàng bối rối vì thế và thắc mắc. Đoạn tiếp của sứ điệp sẽ giải thích cho nàng rõ. Vào những dịp Thiên Chúa can thiệp vào đời ta –dù cho Người không đòi hỏi ta làm những việc phi thường- có thể những vụ đó có hiệu quả đầu tiên là nêu lên những câu hỏi cho chúng ta. Lúc đó ta phải tiếp tục cầu nguyện và lắng nghe –giống như Maria đã làm.

2) Maria thưa với Thiên thần: Làm sao việc đó có thể xảy đến được. Maria thắc mắc. Khi nhận ra điểm trọng yếu là vật cản tuyệt đối, Maria biết làm gì để đáp ứng yêu cầu của Chúa? Đối với nàng –trở thành mẹ một đứa con là điều không thể có được, vì ở khởi điểm có 1 sự kiện là nàng chưa kết hôn, chỉ mới đính ước với Giuse, đơn giản thế thôi. Nàng muốn gìn giữ đức đồng trinh của mình, không hiểu sao Thiên Chúa lại có thể đòi hỏi nàng hy sinh nó đi. Nàng muốn hiểu rõ. Nàng trả lời không úp mở rằng, theo thường tình nhân loại, mình không thể trở nên 1 người mẹ. Tuy nhiên nàng không chấm dứt cuộc tiếp xúc với Thiên thần, nàng tiếp tục lắng nghe thiên sứ. Cũng vậy, có thể có những vụ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta những điều không thể hiểu được và có vẻ đầy mâu thuẫn. Chúng ta, trong lúc cầu nguyện, có thể hỏi Chúa, đặt vấn đề với Chúa, vì Chúa muốn chúng ta cân nhắc để có thể tự do ưng thuận.

3) Này tôi là tôi tớ Thiên Chúa, nguyện xin như lời Thiên thần truyền. Maria ưng thuận. Do sự ưng thuận, nàng đón lấy số mệnh thần kỳ là cho nàng trở nên một con người đích thật. Nàng ưng thuận khi hiểu rõ Thiên Chúa chờ đợi gì ở tiếng vâng của nàng. Thiên Chúa không tự mâu thuẫn trong khi ban phát ơn phúc cho loài người. Ở đây, ở trường hợp có một không hai này, đấng bậc làm mẹ không tiêu diệt đức trinh khiết. Chúa đã muốn tôn trọng tự do của Maria. Tiếng vâng do trinh nữ thốt ra là khoảnh khắc đầu trong công cuộc Thiên Chúa xuống thế làm người mà vẫn là Thiên Chúa, - con người trở nên Thiên Chúa mà không bị cưỡng bách.

home Mục lục Lưu trữ