Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 65

Tổng truy cập: 1365429

Ý NGHĨA CỦA NHỮNG CHƯỚC CÁM DỖ

Ý NGHĨA CỦA NHỮNG CHƯỚC CÁM DỖ(*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm C này tập trung vào một chủ đề: Đức Tin.

Đnl 26: 4-10

Sách Đệ Nhị Luật mời gọi dân Do thái khi dâng của lễ đầu mùa lên cho Đức Chúa phải kèm theo lời tuyên xưng đức tin ngỏ hầu họ biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Đấng đã hướng dẫn vận mệnh của họ và đã dẫn dắt họ đến tận miền đất phì nhiêu này; nhưng cũng chính một mình Người chứ không một vị thần Ba-an nào, đã ban cho họ sản phẩm thiên nhiên một cách quảng đại.

Rm 10: 8-13

Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người ta không thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô, bởi vì Thiên Chúa là tác giả ơn cứu độ được thực hiện ở nơi Đức Giê-su Ki-tô. Kinh Thánh đã loan báo ơn cứu độ phổ quát này: mọi người, người Do thái cũng như lương dân, đều được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ này.

Lc 4: 1-13

Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giê-su, trung thành với kế hoạch của Chúa Cha, đã đẩy lùi Tên Cám Dỗ, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

BÀI ĐỌC I (Đnl 26: 4-10)

Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuốn sách sau cùng của bộ Ngũ Thư. Nhan đề sách có nghĩa “luật thứ hai” (từ ngữ căn Hy ngữ: “deuteros”: thứ hai, và “nomos”: luật). Quả thật, sách này lập lại luật Mô-sê, nhưng được thích ứng vào hoàn cảnh dân chúng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Về phương diện văn chương cũng như thần học, qua hư cấu, tác giả để cho ông Mô-sê nói thay cho mình.

Của lễ đầu mùa:

Của lễ đầu mùa là một nghĩa vụ được ghi nhận nhiều lần trong luật Mô-sê: “Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 23: 19; 34: 22-26) hay “Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt lúa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi” (Lv 23: 10).

Những thử thách dân Do thái đã kinh qua:

Ấy vậy, dân Ít-ra-en bị thử thách khi bắt chước dân bản địa, dân Ca-na-an, bằng cách tiến dâng của lễ của mình lên thần Ba-an, vị thần ban phì nhiều của dân bản địa, trên những nơi cao, và ca ngợi tấm lòng quảng đại của thần.

Ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) lên án những thực hành này mà ngôn sứ sánh ví với tội ngoại tình của dân Chúa chọn: “Mẹ chúng quả thật đã làm điếm, kẻ mang thai chúng đã thất tiết rồi, vì nó đã nói: ‘Tôi đi theo các tình nhân của tôi, chính họ cho tôi bánh và nước, cho len, cho vải, cho dầu ăn, cho thức uống” (Hs 2: 7). Và vị ngôn sứ để cho Đức Chúa nói lên những lời trách cứ: “Nó đâu biết rằng chính Ta đã ban cho nó lúa mì, rượu mới và dầu tươi, cũng chính Ta đã tặng cho nó bạc vàng nhiều vô kể, vậy mà chúng đem chế tạo đồ dâng cúng thần Ba-an” (Hs 2: 10).

Lời tuyên tín:

Sách Đệ Nhị Luật thường vang dội giáo huấn của các ngôn sứ, nhất là các ngôn sứ đã chiến đấu chống lại những tội bội giáo của vương quốc Miền Bắc chẳng hạn như ngôn sứ Hô-sê. Vì thế, tác giả đòi hỏi dân Ít-ra-en phải đưa vào trong nghi lễ dâng của đầu mùa của mình lời tuyên xưng đức tin. Dân phải biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Ngài đã biến đổi số phận của họ; nhưng cũng chính Ngài, Chúa của thiên nhiên, đã ban tặng cho dân nguồn phú túc.

BÀI ĐỌC II (Rm 10: 8-13)

Thánh Phao-lô viết thư này gởi cho các tín hữu Rô-ma vào những ngày sau cùng của thánh nhân ở thành Cô-rin-tô vào mùa đông năm 56-57; vào lúc đó, thánh nhân nghĩ đến cuộc hành trình đến thành đô Rô-ma để viếng thăm cộng đoàn Ki-tô hữu Rô-ma trước khi đi loan báo Tin Mừng ở Tây Ban Nha. Dự định của ngài sẽ được thực hiện ngoài dự liệu của thánh nhân: ngài sẽ đến Rô-ma trong cảnh tù đày.

Tầm quan trọng của thư Rô-ma:

Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất trong các thư của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Chủ đề trọng tâm là vai trò đức tin trong đời sống người Ki-tô hữu. Đoạn văn mà chúng ta đọc được trích từ phân đoạn thống thiết ở đó thánh Phao-lô buồn bã gợi lên sự cứng tin của dân Ít-ra-en, đồng bào của ngài (từ ch. 9 đến ch. 11).

Làm thế nào dẫn đưa đồng bào huyết thống của mình đến đức tin, ngoài việc chỉ cho họ thấy rằng sứ điệp Tin Mừng đã được Kinh Thánh loan báo? Vì thế, thánh nhân sẽ dựa lời kêu gọi của mình trên một loạt những lời trích dẫn Kinh Thánh.

Ngôi vị hóa Lời Thiên Chúa:

Trước hết thánh Phao-lô trích dẫn một bản văn Đệ Nhị Luật: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Đnl 30: 14). Bản văn này nhằm chứng thực rằng bổn phận của người tín hữu là phải “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết tâm hồn của mình” và thực thi mọi huấn lệnh Lề Luật. Lề Luật này không vượt quá sức mình; chính Thiên Chúa đến trợ giúp bằng cách nội tâm hóa Lời của Người, tức là, ghi khắc Lời Người vào trong tâm khảm của người tín hữu.

Đối với thánh Phao-lô, việc ngôi vị hóa Lời này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời nhập thể. Bản văn này thực sự sẽ cấu thành một trong những điểm tựa thần học về Ngôi Lời, cùng với vài đoạn văn của các sách minh triết Cựu Ước. Lời Thiên Chúa này được tiếp tục ở nơi sứ điệp Tin Mừng; đó cũng là một Lời; Lời hiện diện trong “lòng” người Ki-tô hữu, được bày tỏ ở nơi toàn bộ tâm tư tình cảm và luân lý. Người Ki-tô hữu phải công bố Lời hết sức mình, bằng cách tuyên xưng trên môi miệng mình Đức Giê-su là Chúa, cùng chung một tước hiệu với Đức Chúa, và quyền tối thượng của Ngài được bày tỏ một cách rực rỡ qua cuộc Phục Sinh của Ngài. Đó là niềm tin vào sự sống lại, đó là lời tuyên tín cốt yếu.

Đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Thiên Chúa:

Thánh Phao-lô tiếp tục chứng minh bằng cách trích dẫn một bản văn I-sai-a: “Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Is 9: 33); vị ngôn sứ ngỏ lời với các vị thủ lãnh vương quốc Giu-đa, vào thời điểm Giê-ru-sa-lem lâm vào cơn nguy khốn cùng cực nhất. Những vị lãnh tụ này chỉ biết nghĩ đến việc tìm kiếm sự trợ giúp từ phía quyền lực dân ngoại. Ngôn sứ I-sai-a cho họ hiểu rằng họ phải đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Đức Chúa.

Ơn cứu độ được ban cho hết mọi người:

 Không có bất kỳ một khác biệt nào giữa người Do thái và lương dân: ơn cứu độ được ban cho hết mọi người. Dân Ít-ra-en phải biết chấp nhận tính phổ quát của ơn cứu độ này, vốn đã được Kinh Thánh loan báo rồi. Thánh Phao-lô tiếp tục trích dẫn lời ngôn sứ Giô-en: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Ge 2: 32). Bản văn này gần với viễn cảnh cánh chung. Viễn cảnh này xem ra chỉ liên quan đến các tín hữu Ít-ra-en, nhưng nó toan tính ban cho những câu này một tầm mức phổ quát. Thánh Phao-lô không là người duy nhất bày tỏ điều này. Thánh Lu-ca trong sách Công vụ Tông Đồ đặt trên môi miệng thánh Phê-rô cùng một sấm ngôn này, ngay từ ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 17-21).

Chúng ta ghi nhận rằng thánh Phao-lô bắt đầu thời đại của mình khi gợi lên tước hiệu “Chúa” (“Kurios”) được ban cho Đức Giê-su: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (10: 9) và thánh nhân kết thúc thời đại này với cùng một tước hiệu xưa kia được dành riêng cho một mình Đức Chúa: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (10: 13). Đây là phương pháp văn chương “đóng khung” hay “bao hàm” rất quen thuộc đối với thánh Phao-lô, qua phương pháp này thánh nhân công bố rằng người ta không còn có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Nét đặc trưng của Ki-tô giáo là liên kết mật thiết với con người của Chúa Ki-tô khi tuyên xưng Thần Tính của Ngài.

Lời tuyên tín này chắc chắn gây khó khăn cho những anh em đồng đạo của thánh nhân, thánh Phao-lô biết rất rõ điều này. Nhưng Kinh Thánh loan báo điều này rất rõ đến mức dân Ít-ra-en phải sáng suốt mà nhận ra. Đây là tất cả niềm hy vọng của thánh nhân.

TIN MỪNG (Lc 4: 1-13)

Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ trong hoang địa được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, thánh Mác-cô tường thuật ngắn nhất, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca tường thuật dài hơn bằng cách kể ra những chước cám dỗ mà Chúa Giê-su kinh qua. Hai bài tường thuật của Mát-thêu và Lu-ca có thể được đặt đối xứng với nhau, nhờ đó nêu bật vài điểm khác biệt. Vào năm phụng vụ này, Năm C, chúng ta đọc câu chuyện theo Tin Mừng Lu-ca.

Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được liên kết với câu chuyện Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa, biến cố mà chúng ta phải khảo sát trước tiên.

Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa (4: 1-2)

Sau khi Chúa Giê-su đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, Ngài rời bỏ bờ sông Gio-đan để đi sâu vào hoang địa, đây là hoang địa Giu-đê, gần Biển Chết, nơi dòng sông Gio-đan đổ vào. Đây cốt yếu là tác động của Chúa Thánh Thần: “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần”. Thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cũng nhận ra Chúa Thánh Thần là tác nhân tích cực của quyết định này, tuy nhiên thánh Lu-ca còn tinh tế hơn khi nói thêm: “Người được Chúa Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa”, tức là, Đức Giê-su tuân theo ý muốn của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Ngài. Chúng ta biết rằng thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhất đến sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, cả trong sách Tin Mừng của mình lẫn trong sách Công Vụ Tông Đồ; ở đây thánh ký biết nêu lên mối bận lòng của mình một cách tinh tế.

A-A-đam mới:

Một nét đặc trưng khác của Tin Mừng Lu-ca, đó là thánh ký đặt câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ ngay sau gia phả của Chúa Ki-tô trong đó thánh nhân không chỉ lên đến tổ phụ Áp-ra-ham như thánh Mát-thêu, nhưng đến tận nguyên tổ “A-đam là con Thiên Chúa” (Lc 3: 38). Như vậy, ngay sau khi nêu lên nguyên tổ A-đam, câu chuyện cám dỗ mới bắt đầu. Điều này muốn nói rằng Chúa Giê-su là A-đam mới; khi chiến thắng Ác Thần, Ngài trở thành thủ lãnh của nhân loại tái sinh.

B-Mô-sê mới:

Chúa Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh, những phương tiện mà những ai mong ước được kết hiệp với Thiên Chúa luôn luôn sử dụng. Ngài chuẩn bị suốt bốn mươi ngày đêm, như ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai, trước khi đón nhận hai bảng Thập Giới (Xh 24: 18 và Đnl 9: 9), cũng như ngôn sứ Ê-li-a, sau khi đã được thần lương bồi dưỡng, đi suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Khô-rếp để gặp gỡ Thiên Chúa (1V 19: 8). Quả thật, trong tình tiết này Đức Giê-su xuất hiện như một Mô-sê mới. Như xưa kia, ông Mô-sê xuống núi với những lời Giao Ước, nền tảng của dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn, Chúa Giê-su sẽ rời hoang địa để thiết lập một Giao Ước mới và hình thành nên một dân Thiên Chúa mới.

C-Dân Ít-ra-en mới:

Con số “bốn mươi” cũng gợi lên bốn mươi năm dân Do thái lữ hành trong hoang địa. Trong suốt những năm tháng đó họ đã kinh qua những chước cám dỗ, điều này gợi nhớ những chước cám dỗ của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, trong khi dân Ít-ra-en thất bại, thì Chúa Giê-su lại chiến thắng. Vì thế, những cám dỗ mà Chúa Giê-su trải qua suốt bốn mươi ngày đêm trong hoang địa là một cách thức khẳng định sự liên đới của Ngài với dân Ngài. Chúa Giê-su tóm gọn ở nơi con người của Ngài lịch sử của dân tộc Ngài. Từ nay, Đức Giê-su hiện thân dân Ít-ra-en mới, dân được cung cấp mọi phương thế để chiến thắng mọi thế lực của sự dữ.

Ý nghĩa của những chước cám dỗ (4: 3-12)

Sự kiện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được truyền thống chứng thực rất mạnh mẽ; tuy nhiên, không có ai được diễm phúc chứng kiến biến cố này. Vì thế, người ta phải giả sử rằng Chúa Giê-su đã kể lại sự kiện này cho các môn đệ Ngài. Người ta muốn định vị lời tâm sự này sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô ở Xê-da-rê, khi Chúa Giê-su nhận ra rằng các Tông Đồ, thánh Phê-rô là người đầu tiên, vẫn cứ bám chặc vào một quan niệm sai lạc về Đấng Mê-si-a toàn thắng mà không kinh qua cuộc Thương Khó và Tử Nạn. Vì thế, Ngài trách cứ nặng lời với thánh Phê-rô mà chúng ta nghe như âm vang câu chuyện cám dỗ này: “Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8: 33).

Bài học đầu tiên của việc Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ chắc chắn là bài học về sự liên đới của Ngài với nhân loại. Khi chấp nhận sống kiếp người, Chúa Giê-su đã muốn đảm nhận ở nơi bản thân mình những cảnh đời nô lệ, yếu đuối, đau khổ về phương diện luân lý cũng như thể chất. Vào lúc chịu phép rửa, tiếng phán từ trời đã nhắc nhở Ngài, không chỉ địa vị Con Thiên Chúa, nhưng còn ơn gọi làm Người Tôi Trung của Ngài. Chúa Giê-su biết Kinh Thánh đã loan báo những gì liên quan đến dung mạo người tôi trung này; Ngài biết con đường nào Ngài phải đi qua; Ngài chấp nhận, nhưng về phương diện phàm nhân, Ngài cảm thấy xao xuyến.

Trước khi bắt đầu sứ mạng của mình, Đức Giê-su bị tác động mạnh bởi nỗi sợ hãi và xao xuyến, và xuất hiện trước mắt Ngài những hình ảnh quyến rủ hơn, đó là chuyện thường tình. Tình tiết hoang địa đối xứng với tình tiết vườn Ô-liu. Nỗi cô độc của hoang địa tương ứng với nỗi cô độc của vườn Ô-liu; viễn cảnh về một sứ mạng gian nan tương ứng với viễn cảnh bi thảm hơn của cuộc Tử Nạn gần kề. Cơn cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra suốt cuộc rút lui vào hoang địa này, như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca gợi lên – điều này không có gì là không thật cả – đoạn đạt đến cực điểm, vì thể chất yếu nhược của Đức Giê-su sau khi đã chay tịnh lâu ngày.

Chính cực điểm này mà các thánh Lu-ca muốn mô tả, khi trình bày cuộc đối đầu mầu nhiệm của Đức Giê-su với những chước cám dỗ. Hình thức văn chương của bài tường thuật rất gần với loại chú giải kinh sư (“midrash”) và văn chương khải huyền Do thái. Ba chước cám dỗ nêu bật những thái độ mà Chúa Giê-su đã từ chối và đồng thời cũng là những chọn lựa mà Ngài đã tự nguyện thực hiện trong sự vâng phục ý định của Chúa Cha.

A-Đấng Cứu Thế liên đới với con người (4: 3-4):

Sau những ngày chay tịnh, Chúa Giê-su cảm thấy đói. Chính vào lúc đó, quỷ gợi lên cho Ngài biến đá hoang địa thành bánh để thử thách quyền năng của Đấng được gọi là “Con Thiên Chúa”, tước hiệu đã được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Quỷ muốn hướng quyền năng này về những của cải thuộc trật tự vật chất. Trong cảnh thiếu thốn của hoang địa, tư tưởng đã có thể đến với Chúa Giê-su là sử dụng quyền năng của mình trên những sự vật vào những mục đích vị kỷ. Ngài đã bác bỏ điều đó. Đức Giê-su sẽ không bao giờ sử dụng quyền năng này vì mình nhưng vì tha nhân. Các phép lạ Ngài thực hiện sẽ là những dấu chỉ vén mở những của cải tinh thần mà Ngài đem đến cho con người một cách phong phú.

Xưa kia khi dân Do thái lâm vào hoàn cảnh đói trong hoang địa, họ đã nhận được ân ban bánh man-na. Khi đó ông Mô-sê đã cảnh giác họ coi chừng thói tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8: 3). Cũng chính lời này, Chúa Giê-su đáp trả Xa-tan. Chúng ta lưu ý rằng trong câu trả lời này, Chúa Giê-su tự đồng hóa mình với loài người. Một ngày kia, Ngài cũng lâm vào cảnh đói. Các môn đệ đem thức ăn đến cho Ngài. Ngài sẽ trả lời: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4: 32-33).

B-Đấng Cứu Thế thống trị (4: 5-8)

Quỷ đưa Ngài “lên cao”, chắc chắn đây là một trong những nơi siêu phàm, như trong các thị kiến của các sách khải huyền. Theo bước phát triển của những chước cám dỗ, quỷ không còn cám dỗ về của cải vật chất, nhưng về quyền lực thống trị: “Tôi sẽ cho ông quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này…”.

Chúa Giê-su biết rõ rằng dân Ngài đang sống trong niềm hy vọng về một Đấng Cứu Thế, Đấng ấy sẽ dành lại nền độc lập chính trị cho họ, phục hưng vị thế và quyền lực của họ. Trong những lúc trầm tư một mình, Chúa Giê-su đã có thể ước tính những lợi ích mà Đấng Mê-si-a giải phóng có thể đem đến cho dân Ngài, đáp ứng những ước vọng của họ. Như vậy, việc mở rộng triều đại Thiên Chúa thật là thuận lợi biết bao! Tuy nhiên, chủ nghĩa cứu thế này, Chúa Giê-su đã luôn luôn từ chối, Ngài lẫn tránh những ước mong của đám đông, khi giải thích rằng vương quốc của Ngài thuộc trật tự tinh thần. Việc Xa-tan đề nghị quyền thống trị thế giới phù hợp với não trạng của thời đại. Việc đồng hóa những quyền lực chính trị với những thế lực Ác Thần càng dễ dàng hơn, vì những quốc gia thống trị là những quốc gia thuộc thế giới ngoại giáo.

Trước lời đề nghị của quỷ: “Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”, Chúa Giê-su đáp trả bằng những lời mà ông Mô-sê đã nhắc nhở dân Do thái trong bối cảnh dân bị thử thách cúng tế thần Ba-an của dân Ca-na-an: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Chỉ sau khi đã trải qua Tử Nạn và Phục Sinh, Chúa Giê-su sẽ lãnh nhận quyền Chủ Tể hoàn vũ, Ngài sẽ nắm trọn chủ quyền này từ Cha Ngài chứ không từ ai khác.

C-Đấng Cứu Thế siêu phàm (4: 9-12)

Theo nhịp độ tăng dần của thánh Lu-ca, chước cám dỗ mạnh nhất mà Chúa Giê-su phải đương đầu và chế ngự, đó là muốn nâng đỡ công việc cứu thế của Ngài bằng những công việc phi thường.

Quỷ đặt Chúa Giê-su trên nóc Đền Thờ. Từ nóc Đền Thờ đến bức tường thành xung quanh khoảng bốn mươi mét. Quỷ nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”. Để thuyết phục Ngài, quỷ khôn khéo trích dẫn Tv 91: 11-12, theo đó người công chính được Đức Chúa cho các thiên sứ đến phù trợ. Khi trích dẫn Thánh Vịnh này, quỷ đề nghị với Chúa Giê-su một hành động khêu khích buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Chúa Giê-su đáp lại rằng Ngài sẽ không xin Thiên Chúa bảo vệ che chở Ngài một cách ngông cuồng đến mức làm cho Ngài khác với mọi người. Kể từ lúc đó, Ngài làm cho hiểu rằng Ngài sẽ không tìm cách thoát khỏi cái chết.

Ở nơi cơn cám dỗ cuối cùng, chúng ta nhận ra lỗi phạm của Ít-ra-en trong hoang địa, khi họ đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp bằng những lời này: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17: 7). Còn Chúa Giê-su, Ngài mô phỏng lời trách cứ của ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x. Đnl 6: 16) để từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp. Ở đây Ngài không đòi Thiên Chúa dùng phép lạ để cứu mạng mình và cũng sẽ là như vậy khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá khi mà những kẻ ác tâm thách đố Ngài: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (Lc 23: 35). Như vậy, cả ba lần, Chúa Giê-su bày tỏ sự vâng phục tuyệt đối với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Khi so sánh bài trình thuật của thánh Lu-ca với bài trình thuật của thánh Mát-thêu, chúng ta nhận ra thánh Lu-ca đã đảo lộn trật tự giữa cơn cám dỗ thứ hai và cơn cám dỗ thứ ba của thánh Mát-thêu. Với trật tự đảo lộn này, thánh Lu-ca mới có thể kết thúc bài trình thuật của mình với việc kể ra Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đây là một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Lu-ca. Quả thật, Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với biến cố truyền tin loan báo cuộc sinh hạ của Gioan Tẩy Giả ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và kết thúc với ghi nhận: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhắc đi nhắc lại nhiều lần Đức Giê-su lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 41-53; 17: 11; 19: 28), nhằm thiết lập một cuộc hành trình dài lên Thành Thánh, ở đó Chúa Giê-su sẽ hoàn tất chương trình cứu độ của mình. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất bỏ qua những lần Đức Giê-su Phục Sinh xuất hiện ở Ga-li-lê để chỉ tập trung vào những lần Chúa Giê-su Phục Sinh xuất hiện ở Giê-ru-sa-lem.

3-Kết (4: 13)

Trái với “kết cục có hậu” của Mc 1: 13 và Mt 4: 11: “Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người”, thánh ký Lu-ca hướng sự chú ý đến Tên Cám Dỗ: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Sau khi đã tìm đủ mọi cách vô ích chống lại sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su, quỷ đã thua một trận, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến, vì thế quỷ chờ đợi thời cơ. Quả thật, quỷ thường xuất hiện trong suốt cuộc đời công khai của Chúa chúng ta (x. ví dụ như Mc 12: 28), nhưng thời cơ thuận tiện nhất là cuộc Khổ Nạn: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53), giờ mà quỷ sẽ lộ nguyên hình trong vai trò của Tên Cám Dỗ. Đức Giê-su sẽ báo trước điều này cho các môn đệ Ngài và nhiều lần đảm bảo với họ là Ngài sẽ chiến thắng (x. Ga 12: 31; 14: 30). Ở nơi cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, quỷ sẽ dốc toàn lực một lần sau cùng.

Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật và con người thật, tự nguyện nên giống chúng ta trong mọi sự ngoài trừ tội lỗi (x. Pl 2: 7; Dt 2: 7; 4: 15), vì thế Ngài chấp nhận chịu cám dỗ. Với tư cách là một con người, Ngài bị cám dỗ, và cũng với tư cách một con người, Ngài kháng cự như lời nhận định của thánh Giáo Phụ Am-rô-xi-ô: “Ngài đã không hành xử như Thiên Chúa, khi phát huy quyền năng của Ngài; giả như Ngài đã làm như vậy, làm thế nào chúng ta có thể noi gương Ngài được? Đúng hơn, như một con người, Ngài đã tận dụng những nguồn lực mà Ngài có chung với chúng ta” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.). Qua việc chiến thắng mọi chước cám dỗ, Đức Giê-su chỉ cho chúng ta phương thế đối phó với những mưu mô xảo quyệt của quỷ dữ.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- C

VÀO SA MẠC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Ai trong chúng ta cũng đều gặp những lúc gian nan khổ sở. Những lúc ấy chúng ta bị cám dỗ bỏ Chúa để tìm những nơi nương tựa khác. Ngày xưa dân Israel và chính Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như vậy. Nhưng Israel thì đã sa ngã, còn Chúa Giêsu thì chiến thắng cám dỗ. Tại sao?

Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta lời giải đáp.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta đừng noi gương dân Israel xưa, nhưng biết noi gương Chúa Giêsu.

Gợi ý sám hối

  • Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối?
  • Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không?
  • Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không?

Lời Chúa

Bài đọc I: Đnl 26,4-10

Môsê dạy cho dân Do Thái biết phải có tâm tình gì khi họ dâng của đầu mùa lên Thiên Chúa: đó là tâm tình biết ơn.

Nhìn lại lịch sử, ban đầu tổ tiên họ chỉ là những kẻ phiêu bạt tứ cố vô thân sống nhờ đất Ai cập, làm nô lệ rất khổ sở cho dân Ai cập; Chúa đã thương giải thoát họ khỏi kiếp nô lệ ấy và đưa họ vào Đất hứa, một mảnh đất chảy sữa và mật, nhờ đó mà họ mới có cuộc sống sung túc. Vì thế, hàng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình dâng lên Ngài.

Đáp ca: Tv 90

Đây là bài ca biểu lộ lòng cậy trông phó thác vào Thiên Chúa: Những ai biết nương tựa Đấng Tối Cao thì sẽ được Ngài che chở an toàn trong mọi tình huống.

Tin Mừng: Lc 4,1-13

Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như dân Israel mới. Vì thế, muốn hiểu hết ý đoạn Tin Mừng này, chúng ta phải nhớ lại giai đoạn Israel ở trong sa mạc (và như thế, đoạn Tin Mừng được coi như nối tiếp bài đọc I): sau khi dân Israel được Thiên Chúa cứu khỏi kiếp nô lệ Ai cập, họ đã đi trong sa mạc trong một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ:

  • a/ cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn;
  • b/ cám dỗ thờ tượng con bê vàng;
  • c/ cám dỗ thử thách Thiên Chúa.

Vì không nhớ tình thương của Chúa (như Bài đọc I khuyên) và không biết phó thác nơi Thiên Chúa, họ đã sa ngã trong tất cả các cám dỗ ấy.

Chúa Giêsu chính là Israel mới: Ngài cũng sống trong sa mạc một thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ như dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Đó là nhờ Ngài luôn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa.

Bài đọc II: Rm 10,8-13

Thánh Phaolô lặp lại điều mà Tv 90 (Đáp ca) tuyên xưng: “Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không thất vọng… Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát”.

Gợi ý giảng

Định hướng Mùa Chay

Thời trước người ta sống Mùa Chay rất nhiệm nhặt: ăn chay kiêng thịt tất cả mọi ngày Thứ Sáu, hy sinh hãm mình rất nhiều trong suốt “mùa chay cả”, từ bỏ tất cả mọi cuộc vui chơi v.v. Thời nay, hầu hết những điều trên đã được huỷ bỏ hoặc giảm nhẹ tới mức tối thiểu. Phải chăng Giáo Hội đang suy đồi?

Thực ra, căn bản vấn đề là ý thức. Nếu không ý thức ý nghĩa sâu xa thì cho dù tuân thủ rất nhiều hình thức nhiệm nhặt bên ngoài thì cũng vô ích. Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống người tín hữu:

  • Ý thức rằng tất cả mọi sự chúng ta đang hưởng đều là do Chúa ban, như lời Môsê nói với dân Israel trong bài đọc I “Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và giờ đây, Lạy Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con”.
  • Ý thức về sự che chở hữu hiệu của Thiên Chúa đối với những ai biết tin tưởng nương tựa vào Ngài (Đáp ca: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được phù trì”)
  • Ý thức rằng điều quan trọng nhất trong đời không phải là cơm bánh mà là Lời Chúa (Bài Tin Mừng)

Nếu chúng ta thực sự ý thức những điều trên thì chúng ta sẽ không ngại thực hiện những việc ăn chay, kiêng thịt, hy sinh hãm mình, cầu nguyện và chiến đấu với các cám dỗ.

Những cám dỗ trong đời

Chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên can gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi:

  • Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai?
  • Phải chăng chúng ta rất ham vinh hoa địa vị ở đời?
  • Phải chăng chúng ta không nỗ lực với hết khả năng mình mà cứ đòi Thiên Chúa làm phép lạ giúp mình?

Vào sa mạc

Vào sa mạc là việc cần thiết đầu tiên phải làm trong Mùa Chay. Bởi đó bài Tin Mừng Chúa Nhựt I Mùa Chay năm nào cũng nói về việc Chúa Giêsu vào sa mạc (Năm A: Mc; B: Mt; C: Lc).

a/ Ý nghĩa của sa mạc

  • Sa mạc là nơi a/ hoang vắng; b/ tĩnh lặng
  • Hoang vắng và tĩnh lặng thì buồn và chán. Tuy nhiên hoang vắng và tĩnh lặng lại sinh ra nhiều hiệu quả tốt:
  • Cảm nghiệm của những người đã từng ở sa mạc: thấy vũ trụ bao la và đẹp tuyệt vời (nhất là những lúc mặt trời mọc và lặn); thấy được quyền năng Thiên Chúa; thấy được con người thực của mình; cũng cảm được tình đồng loại tha thiết (rất hiếu khách khi thỉnh thoảng tình cờ gặp được một người giữa sa mạc)
  • Bởi thế Thiên Chúa thích đưa người ta vào sa mạc: Bài đọc I: Thiên Chúa để cho dân Do Thái ở sa mạc 40 năm sa mạc để họ cảm nghiệm tình thương của Ngài, đồng thời để thử thách xem họ có trung thành với tình thương ấy hay không; Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu vào sa mạc 40 ngày để cầu nguyện và cũng chịu thử thách.

b/ Trong Mùa Chay chúng ta cũng vào sa mạc. Nhưng vào sa mạc để làm gì?

  • Mùa chay, một thời gian cầu nguyện: Theo bố cục của Tin Mừng Lc, trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu đã vào ở trong sa mạc và lưu lại đó 40 đêm ngày. Để làm chi? Không phải chỉ để ăn chay, mà còn làm một việc quan trọng hơn nhiều, đó là cầu nguyện xem Ngài sẽ thi hành sứ mạng Messia như thế nào.
  • Ngày nay chúng ta cũng có 40 ngày Mùa Chay, để noi gương Chúa Giêsu mà cầu nguyện.
  • Thực ra chúng ta phải cầu nguyện luôn. Nhưng thỉnh thoảng cần có một thời gian để cầu nguyện chuyên cần và sốt sắng hơn. Đó chính là thời gian này.
  • Mùa Chay, một thời gian chiến đấu: Chúa Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan.
  • Thực ra ma quỷ luôn cám dỗ chúng ta (1 Pr 5,8: “Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mối để cắn xé”). Bình thường chúng ta không để ý cho nên dễ bị sa cám dỗ. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tích cực chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ.

Cú nhẩy ngoạn mục

Vua nước Thục có tính tham lam. Vua Huệ Vương nước Tần muốn xâm chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ Vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”.

Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.

Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt mất cái lợi to ư?

*

Vua Thục vì tham vàng mà mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn một lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không phải là vàng thì cũng là của cải, sắc dục, danh vọng, quyền uy.

Bị cám dỗ là thân phận của con người. Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.

Cám dỗ thứ nhất là cám dỗ về cái đói. Cơn cám dỗ về Manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong hoang địa: Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thoả mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao quí khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của: cơm, áo, gạo, tiền.

Cám dỗ thứ hai là cám dỗ về quyền hành thế gian. Cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân Ítraen nơi hoang địa. Không chỉ hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Đức Gìêsu đã bị cám dỗ này tấn công. Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực vinh quang. Nhưng Người đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên “tôi tớ” của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em.

Đây cũng là cơn cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài năng… Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta lời Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người” (Lc 4,8).

Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục: Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ Giêrusalem. Cũng chính nơi đây, Chúa Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức nặng nề: đó là cơn cám dỗ muốn thoát cái chết. “Nếu có thể được xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Dường như Chúa Cha “đã bỏ rơi” Người. Cuối cùng thì Chúa Giêsu đã không dùng quyền năng của mình để trốn tránh thân phận con người phải chết. Người đã từ chối nhảy một cú đẹp mắt, cũng không xuống khỏi thập giá một cách ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu của Cha, Người tuyệt đối trung thành và trọn vẹn vâng theo ý Cha.

Chúa Giêsu đã chiến đấu với các cơn cám dỗ và Người đã hoàn toàn chiến thắng, để nêu gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi phải chọn lựa. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn đó không! Chúng ta có dám chọn theo Chúa hơn là theo ma quỉ? Chọn yêu anh em hơn là yêu chính mình? Chọn điều thiện hơn là cái ác?

*

Lạy Chúa, chúng con sẽ trưởng thành hơn sau mỗi lần chiến thắng, sẽ kinh nghiệm nhiều hơn sau mỗi cơn thử thách. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con thất vọng sau mỗi lần vấp ngã, đừng bao giờ để chúng con bỏ cuộc sau những lần thất bại.

Xin cho chúng con luôn tin tưởng chỗi dậy tiếp tục chiến đấu cho dù phải hy minh mạng sống, vì chính Chúa Giêsu đã sẵn lòng chịu chết để trung tín với Chúa Cha.

Xin ban thêm sức mạnh để chúng con chiến thắng các cơn cám dỗ nhờ ăn chay và cầu nguyện. Amen. (TP)

Cám dỗ của Chúa Giêsu và của chúng ta

Một cuốn phim đã gây xôn xao dư luận một thời, nhất là vào năm 1989, đó là phim “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa” (The last temptation of Christ, phỏng theo quyển tiểu thuyết cùng tên, của nhà văn Hy lạp Nikos Kazantzakis). Cuốn phim (và quyển tiểu thuyết) mô tả lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời khỏi thánh giá, rời bỏ sứ mạng cứu thế để sống một cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm lại nàng Mađalêna, cưới nàng làm vợ. Sau đó lại tìm đến với hai chị em Matta và Maria ở làng Bêtania và cũng cưới luôn hai chị em này làm vợ. Ngài có rất nhiều con và sống rất hạnh phúc…

Báo chí và các đài phát thanh đưa tin rằng khi cuốn phim được trình bày chiếu lần đấu, những người có đạo đã đập phá rạp chiếu bóng tan tành, đến nỗi lần chiếu sau phải chiếu ở một rạp đặc biệt cô lập bởi chung quanh toàn là nước để khỏi bị đập phá lần nữa. Nếu tác giả mà viết như thế về Hồi giáo thì chắc chắn ông cũng sẽ bị mang cùng một số phận với Salman Ruside, người đã bị giáo chủ Hồi giáo Khômêni kêu gọi tất cả mọi tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới hễ gặp mặt tác giả là có bổn phận phải giết ngay, lý do là Salman Rusdie đã viết một quyển sách có những điều bị cho là xúc phạm đến Hồi giáo, quyển sách mang tựa đề “Những vần thơ ác quỷ” (the satanic verses).

Thực ra, nếu chúng ta được đọc quyển “Cám dỗ cuối cùng của Chúa” của Nikos Kazantzakis, thì chúng ta sẽ thấy chẳng có gì xúc phạm cả. Tuy tác giả có nói Chúa Giêsu rời thập giá và cưới 3 người vợ, có nhiều con, nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Chúa thôi. Cuối cùng Chúa đã lắc đầu không theo cám dỗ đó. Ngài tỉnh dậy vẫn thấy mình đang bị treo trên thánh giá, và Ngài hô lên một tiếng kêu chiến thắng “Thế là đã hoàn tất”, rồi Ngài tắt thở. Trong đoạn mở đầu, Nikos Kazantzakis cũng nói rõ quan điểm của ông khi viết quyển truyện này: Ông tin Chúa Giêsu vừa là Chúa vừa là người, và ông muốn nhìn Ngài dưới khía cạnh người. Ông muốn tưởng tượng những cám dỗ và những chiến đấu vô cùng ác liệt mà con người Giêsu đã phải đương đầu, và đã anh dũng chiến thắng như thế nào, để càng thấy rõ Chúa Giêsu là mẫu mực cho con người chúng ta hơn, để càng cảm phục Ngài hơn, và để con người chúng ta can đảm hơn trong khi chiến đấu với những cơn cám dỗ của chúng ta. Ông đã tâm sự rằng “Trong khi viết… tôi đã cảm động đến phát khóc. Tôi chưa bao giờ cảm thấy máu của Chúa rơi từng giọt vào tim tôi với sự ngọt ngào như vậy, với nỗi đớn đau như vậy”.

Chúa Giêsu cũng là người như chúng ta. Mà hễ là người thì phải có tự do. Mà tự do nghĩa là có quyền lựa chọn. Mà đã nói lựa chọn thì tức là có thể chọn đúng và có thể chọn sai. Chính ở kẻ hở này mà cám dỗ len vào, nó xúi giục ta bỏ cái tốt để chọn cái xấu. Ai mà chọn cái xấu tức là sa ngã đầu hàng cám dỗ, còn ai vẫn cương quyết chọn cái tốt tức là kẻ chiến thắng, khi đó cám dỗ chẳng những không làm hại gì được người đó mà càng làm cho người đó thêm công nghiệp.

Chúa chịu cám dỗ vì chúng ta: Trước hết, Ngài chịu cám dỗ để nhắc chúng ta nhớ rằng chung quanh chúng ta và chính trong bản thân chúng ta luôn đầy dẫy cám dỗ, vì thế chúng ta cần phải đề cao cảnh giác; Thứ hai, Chúa chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ để làm gương cho chúng ta noi theo khi chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ của chúng ta: Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta chỉ có thể thắng được cám dỗ nếu chúng ta không cậy dựa vào sự khôn ngoan của chúng ta, mà biết cậy dựa vào sự khôn ngoan của Lời Chúa; chúng ta chỉ thắng cám dỗ nếu chúng ta không chìu theo ý muốn riêng của mình mà luôn tìm làm theo ý muốn của Thiên Chúa.

Biết mình

Một Rabbi nổi tiếng kia muốn tìm hiểu tâm tư con người nên làm một thí nghiệm như sau. Ông gọi ba người tình cờ đi ngang qua và đặt cho họ một câu hỏi: “Giả như bạn lượm được một túi đầy vàng thì bạn sẽ làm sao?”

Người thứ nhất đáp: “Tôi sẽ trả lại cho người đánh rơi nó”. Vị Rabbi nhận định: “Đồ ngốc!”

Người thứ hai đáp: “Tôi sẽ giữ lấy mà xài. Dại gì mà không xài của quý từ trời rơi xuống như thế”. Rabbi kết: “Đồ khùng!”.

Người thứ ba: “Tôi cũng chẳng biết tôi sẽ làm sao nữa, bởi vì nếu khi đó tôi không chống lại nổi cám dỗ của ma quỷ trong tôi thì sao? Tuy nhiên nếu khi đó có ơn Chúa khuyến khích thì tôi sẽ trả lại túi vàng cho người đánh mất”. Rabbi khen: “Tuyệt lắm. Bạn mới thật là người khôn ngoan”.

Tại sao vị Rabbi nói người thứ nhất là ngốc? Vì người này hoàn toàn không biết chính mình khi tưởng rằng mình đủ vững mạnh chiến thắng cám dỗ tham tiền. Chẳng ai đủ mạnh để không bị sa ngã bao giờ. Người ta không sa ngã vì người ta yếu đâu, mà sa ngã vì mình yếu mà tưởng mình mạnh.

Tại sao vị Rabbi nói người thứ hai là khùng? Vì người này chẳng cần biết đến lương tâm gì cả, vừa thấy tiền là không chút áy náy tính chiếm đoạt luôn. Đối với hạng người như thế, cám dỗ không phải là một mối nguy mà là một cơ hội để tìm tư lợi trên chính sự thiệt thòi của người khác.

Và tại sao vị Rabbi khen người thứ ba là khôn ngoan thật? Vì người này biết mình. Anh biết mình cũng yếu đuối như mọi người khác. Anh hy vọng mình sẽ chiến thắng cám dỗ tham lam. Nhưng anh ý thức rằng điều này sẽ rất khó nếu không được ơn Chúa giúp. (FM)

Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh

Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên Chàng Ca Sĩ nổi tiếng thế giới Elvis Presley.

Chàng rất giàu: một mình có 8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, chàng còn có, còn có biết bao đạo quân những người hâm mô coi chàng là thần tượng.

Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận: “Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu”. Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.

Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Chúa Giêsu nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta mùa chay thánh này để thanh tẩy tâm hồn mà đón mừng đại lễ Vượt qua. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin:

  1. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết dùng mọi phương thế thích hợp / để giúp người tín hữu học hỏi và sống lời Chúa.
  2. Tranh giành quyền lực gây ra biết bao thảm họa cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết lấy tinh thần bao dung mà đối xử với nhau.
  3. Ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa sẽ không phải thất vọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết luôn tin tưởng vào tình thương / quyền năng / và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa.
  4. Mùa Chay thánh nhắc nhở chúng ta hãm mình ép xác / để thông phần vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống trọn vẹn tinh thần khắc khổ của mùa Chay.

Chủ tế: Lạy Chúa, mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng con đổi mới đời sống. Xin Chúa cho chúng con là những kẻ tội lỗi, biết thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm, đồng thời tích cực làm nhiều việc lành phúc đức để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Chúng con cầu xin

Trong Thánh lễ

  • Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý tới lời cầu xin cuối cùng, thể hiện ước muốn của chúng ta trong Mùa Chay này: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
  • Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng mọi cám dỗ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…

Giải tán

Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay. Đây là lúc thuận tiện để chúng ta sám hối và sống theo Tin Mừng. Và cũng vì thế cho nên đây cũng là thời gian cứu độ. Chúng ta hãy sống thời gian này một cách hết sức quảng đại. Chúc anh chị em được bình an.

home Mục lục Lưu trữ