Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1372975
Y PHỤC TIỆC CƯỚI
Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình…
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới… dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.
Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng” xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hôsê 1 đến 3; I-sai-a 54,4-8 – 61,10 – 62,4-5; Giê-rê-mi-a 2,2 – 31,3; ê-đê-ki-en 16; Thánh vịnh 45,7-8,Diễm Ca, toàn bộ; Mác-cô 2, 19; Gioan 3;29; Mát-thêu 2 5, 1 -1 3 – 9, 1 5; Ê-phê-sô 5,25; 2 Cô-rin-tô 19,29 – 21,2-9′ – 22,17; Khải Huyền 20,9 – 21,2-9 v.v…). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một “Giao ước” một “Lễ cưới”. Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là “một câu chuyện tình yêu?
Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới…
Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự “vương giả”… một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. “Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà? “. Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biể u tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ… Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?
Nhưng họ không chịu đến.
Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.
Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!”.
Như trong dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gợi cho tôi một “thẻ” vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ đành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.
Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.
Nhu trong “mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người… trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi… chính thế giới hiện nay…đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1. những người “thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi… 2. và đến những người.”phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.
Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa… “Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật… Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi…”. Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những ‘lời’ kêu gọi của Người. “Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?”. Và chúng ta không hề nghe thấy!
Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.
Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Mát-thêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc ít-ra-en như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiễu cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa” (I-sai-a 5,26-29; Giê-rê-mi-a 5,15-17).
Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mới đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.
Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp “vâng” với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?
Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các “ông lớn” không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: “Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Luca 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái.điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”
Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời… “.
Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của “tôn giáo bình dân sao?”.
Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải “đáp ứng” lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải “mặc lấy con người mới” (Ga-‘lét 3,27; E-phê-sô 4,24; Cô-lô-xê 3,10).
Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?”
Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của “Y phục lễ cưới”, của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.
Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném “ra ngoài”. Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục “mời gọi” đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa”. Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng “vâng” nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI VÀ ÁO CƯỚI- Chú giải của Fiches Dominicalaes
1). Từ những khách mời “không xứng đáng… đến gặp ai cũng mời”:
Trước sự phẫn nộ của đối phương, còn dân chúng lại hồ hở chào mừng Người bằng những lời tung hô “vạn tuế, Đức Giêsu đã tiến vào thành Giêrusalem trong tư cách Messia. Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Người thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch sách. Rõ ràng là họ tới có ý chất vấn Người đã lấy quyền nào mà nói và hành động như vậy: “ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Ai đã cho ông quyền ấy” (21,23). Nhưng Đức Giêsu đã từ chối trả lời họ, bao lâu mà chính họ vẫn lẩn tránh câu Người hỏi họ: “Phép Rửa của Gioan do đâu mà có. Do Trời hay do người ta (21,24). Trong bối cảnh gay cấn như vậy, mà ba dụ ngôn về xét xử Chúa dùng để nói với họ như một lời cảnh giác mạnh mẽ và cuối cùng, được đặt vào:
Dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho (Phúc âm Chúa nhật 26).
Dụ ngôn những ta điền sát nhân ( Phúc Am Chúa nhật tuần rồi ).
Dụ ngôn tiệc cưới (Phúc âm Chúa nhật 28 này).
Đọc bản văn dụ ngôn những khách mời dự tiệc như được viết trong Phúc âm Matthêu, chúng ta có thể nhận thấy ngay những lời giáo huấn của Chúa được các cộng đồng tín hữu gìn giừ và nghiền gẫm, đã phải trải qua quá trình truyền đạt và thích nghi cho tới khi được các thánh sử soạn thảo thành văn nhất định. Chắc hẳn trong nội dung lời giáo huấn của Chúa, thì dụ ngôn này, theo như diễn ý của J.Jérémias, có nghĩa như “một sự bênh vực và biện minh” cho Phúc âm.
Th. Matura giải thích: “Những người đạo đức (các Pharisiêu), những nhà “thần học (các kinh sư), những người lãnh đạo tôn giáo của dân (các tư tế) dù không đón nhận Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu loan báo, mà theo nguyên tắc là có ý dành cho họ trước tiên. Trái lời dân chúng và nhiều người sống bên lề (các người thu thuế, “tội lỗi), những người bị những kẻ thông trị loại bỏ thì lại tỏ ra sốt sắng lắng nghe lời Chúa kêu gọi và vui lòng đi theo Người (Lc 15,1-2), khiến cho giới có đầu óc khó chịu và buông lời chỉ trích. Dụ ngôn những khách mời dự tiệc cưới là câu trả lời cho thái độ giả hình này. “Chính các ông cũng giống như những người khách được mời này mà lại chối từ. Các ông cho đó chướng mắt, vì tôi được các người vốn bị cáo ông khinh bỉ, quây quần bên tôi: chính các ông mới là những người đã không thèn đếm xỉa tới, đã từ chối và các ông còn điểu này: không phải những người công chính mà là những người tội lỗi mới cần cứu độ!”
Điểm hóc búa của dụ ngôn Chúa kể, quả là gay cấn phải chứng tỏ và đúng, cách người cư xử với những người tội lỗi và lên án thói giả hình của giới lãnh đạo. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với những người bé nhỏ, đồng thời người cũng tố cáo những kẻ từ chối lời mời gọi của Phúc Âm, và như thế bị loại khỏi bàn tiệc Nước Trời mà Người đến khai trương” (Assemblées du Seigneur” số 59, trang 18-19).
Khi đem nội dung trên vào Phúc âm của mình để trình bày cho cộng đồng tín hữu của ngài là những người gốc Do Thái giáo, thánh sử Matthêu khác với tác giả Luca, có sửa đổi nhiều chi tiết làm thay đổi ý nghĩa ban đầu của dụ ngôn này để hướng tới một ý nghĩa ẩn dụ (mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa).
2). “Người kia” trong dụ ngôn ban đầu, trở thành “một ông vua kia mở tiệc cưới cho con mình”.
Cl. Tassin gợi nhớ lại: Cựu ước đã hứa hẹn sự hiệp nhất phu thê giữa Thiên Chúa và dân Người và Phúc âm đã trình bày Chúa Giêsu như vị Tân lang của những đám cưới được trông đợi này (x. Mt 9,15). Thế nên thánh Matthêu cung cấp ngay cho ta những chìa khoá cần thiết giúp cho việc đọc “(“Phúc âm thánh Matthêu ”, NXB Centurion, trang 230).
+ Cũng vậy, người đầy tớ duy nhất trong Phúc âm Luca được tăng lên thành nhiều loại: các câu 3.4.8.13.
+ Và không những, các người đầy tớ này bị người ta hắt hủi, mà còn bị xỉ nhục và giết chết các (câu 6 và 7) như trong dụ ngôn những tá điền sát nhân. Và cũng như trong dụ ngôn này, sự trừng hạt không muộn màng. Th. Matutura chú giải: Đức Giêsu khiển trách những người lãnh đạo tôn giáo, thì họ hăng hăng chối từ sứ mệnh của người… Việc đưa xen vào dụ ngôn, hai câu 6 và 7 càng làm rõ nét phương diện này, bởi thì rõ ràng là đối với thánh Matthêu, những khách mời thoái thác kia, chính là những người Do thái không tin. Cách họ đối xử với các người được sai đến (các ngôn sứ bị chúng giết 3,32-36) lôi kéo sự trừng phạt đến cho họ: ám chỉ qúa rõ ràng việc thành Giêrusalem bị tàn phá” (O.C. trang 20-21).
+ Không trì hoãn, vua liền sai những sứ giả khác “đi ra các ngã đường”, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.
+ Các đầy tớ thi hành lệnh ngay, gặp ai”bất luận tốt xấu cũng tập hợp lại. Th. Matura nhận định: “Cách diễn tả này chứng tỏ rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, Người lựa chọn mà không đòi hỏi, nhưng chỉ vì lòng thương xót (Mt 6, 45). Giống như những dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới, nó cũng mô tả tình trạng của cộng đồng tín hữu thời thánh Matthêu, lúc đó không phải mọi người đều thánh thiện cả. Sau cùng lời diễn tả ấy chuẩn bị cho câu chuyện về người xâm nhập phòng tiệc bị loại ra” (O.C. trang 23).
3).. Từ việc được mời… đến việc tham dự tiệc cưới:
“Phòng tiệc cưới lúc này đã đầy thực khách”. Theo tập tục Đông phương cổ, người chủ tiệc không ngồi bàn ăn với các thực khách, nhưng ông đi lại chuyện trò, thăm hỏi họ. Chi tiết hơi lạ là gia nhân ra các nẻo đường, gặp ai bất luận tốt xâu, cũng tập hợp cả lại vào phòng tiệc, thì những người ấy đâu có thời giờ mà thay đồ. Thế nên mới có câu chuyện về áo cưới. Đang khi tất cả phần thứ nhất của dụ ngôn này nói cho những người chống đối Phúc âm, thì phần kết của dụ ngôn lại nhắm nhóm người vốn cho mình vẫn sống theo Phúc âm đó là cộng đồng các môn đệ Đức Giêsu. Th. Matura giải thích: “Họ phải cảnh giác đối với ý nghĩ cho rằng chỉ cần được gọi và đáp lại Tin Mừng là bảo đảm được rỗi linh hồn. Không cần phải tuyên xưng danh Đức Kitô, tham gia vào cộng đồng của người (tức là chịu phép Rửa dể được vào phòng tiệc), còn phải chu toàn các công việc mà đức công chính mới đòi hỏi (Mt 7,21). Nếu không dù là đã được nhận vào phòng tiệc rồi, người ta vẫn có nguy cơ bị nén ra ngoài bị loại trừ vĩnh viễn khỏi Nước Trời” (O.C. trang 25).
Bởi vậy Giáo Hội không thay thế Israel, vì lịch sử dân tộc này vẫn trước sau như một. Phần các tín hữu, nên biết lượng sức mình yếu đuối giòn mỏng và vẫn chưa đáp trả đủ tình yêu Thiên Chúa của Đức G’iêsu Kitô dành cho mình, chứ đừng vội thấy người khác bị Chúa trừng phạt mà vui mừng.
BÀI ĐỌC THÊM:
“Một Giáo Hội mời gọi hết mọi người” (Giám mục L. Daloz trong “Le Règne des cieux s’est approché”, Desclée de Brouwer, trang 301-302).
“Thế chỗ cho dân tộc được kêu gọi trước nhất, những kẻ được mời gọi ở đây, chính là những lớp người của mọi dân tộc, họ ở trên các công trường, tại những ngã ba, ngã tư đường. Không còn nữa những chiếc ghế được dành riêng cho ai: “Gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới!”. Vấn đề được xét đến không phải là dân Do thái là một dân như thế, mà là thái độ tự mãn, và chối từ, sự không chú ý lắng nghe lời mời gọi của Chúa: “Họ không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn”. Thái độ đó vẫn xảy ra hôm nay, bất cứ lúc nào. Người ta cố gắng và cho là điều quá tự nhiên khi xếp đặt các giờ phút gặp gỡ với Chúa, các việc đạo đức của đời sống Kitô hữu, việc cầu nguyện… vào những giờ phút thừa thải, những ngày giờ chẳng còn công chuyện gì để làm, sau giờ lao động, sau những công việc thường ngày, cả sau khi đã vui chơi nữa, sớm muộn, còn đâu thì giờ rảnh rỗi nữa. Người ta bắt đầu trở nên bê bối, rồi tìm cớ chữa lỗi cho mình rằng: “Làm việc cũng là cầu nguyện rồi…”. Dần dần mỗi ngày một chút, người ta không còn cầu nguyện, tham dự các bí tích, các buổi hội họp và việc huấn luyện nữa, viện cớ rằng: “Tôi không còn thì giờ để cầu nguyện nữa…”. Đôi khi thái độ từ chối tiếp nhận Đức Giêsu, từ chối đáp lại tiếng gọi của Chúa là do không biết hoặc thù địch với Người. Đức Giêsu gây phiền hà, là chướng ngại. Thế là chống đối, là bách hại. Không cứ gì một dân tộc mới làm thế, mà mọi người đều có khả năng làm như vậy, và chúng ta đều là thành phần của nhân loại này! Nhưng tiệc cưới không thể bị ế. Thiên Chua vẫn mời gọi không ngừng: “Các đầy tớ ấy liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại”. Tiếng Chúa kêu gọi dành cho hết mọi người; Người ngỏ lời với những người lương thiện cũng như kẻ bất lương, với người công chính cũng như kẻ tội lỗi đặc biệt là những người tội lỗi? Điều đó giúp ta nhìn rõ Giáo Hội vốn quy tụ mọi người.
Giáo Hội nhất định không phải là nơi tập hợp những “người thập toàn”, là tổ chức gồm những người không có gì đáng chê trách cả. đôi khi chúng ta quan niệm Giáo Hội là thành phần ưu tuyển, có cảm giác rằng Giáo Hội phải loại trừ ra khỏi lòng mình tất cả nhưng ai không sống theo Phúc âm. Phải chăng đã đến lúc tôi sẽ là người đầu tiên phải bỏ đi ý nghĩ lầm lạc ấy?… Đúng là Giáo Hội đón nhận khá rộng rãi và điều đó không làm thoả mãn những ai muốn Giáo hội tạo cho mình một hình ảnh không tì vết! Liệu Giáo giội đưa ra một hình ảnh như thế có tốt không? Đó chẳng phải là con đường mở ra cho lối sống giả hình như đối với những người Pharisiêu sao? Phần cuối dụ ngôn nói đến một sự lựa lọc phải diễn ra, nhưng là vào giờ phút chót khi “vua tiến vào quan sát khách dự tiệc”. Đấy cũng là điều mà hai dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới đều nói lên: “Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính… ” (13,49). Ai muốn vào dự tiệc Nước Trời, phải mặc y phục lễ cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới”. Rồi vua truyền quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Vào dự tiệc Nước Trời không tuỳ thuộc nòi giống, hay là người của một dân tộc, nhưng căn cứ vào sự trở lại, thay đổi đời sống, những việc lành phúc đức… Khi nhận chiếc áo trắng trong lễ nghi Rửa tội, chúng ta đã được mời gọi “giữ cho tinh tuyền phẩm giá người con Chúa”. Y phục của dân mới, y phục lễ cưới, chính là Đức Kitô mà chúng ta đã “mặc lấy”, là phẩm cách người Kitô hữu, là ân sủng Chúa trao ban. Sống sao cho xứng đáng với những gì ta đã lãnh nhận, đó chính là một lời mời gọi.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
BỮA TIỆC THỜI CÁNH CHUNG VÀ BỮA TIỆC THIÊN SAI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Với hình ảnh bữa tiệc, các ngôn sứ mô tả niềm vui tương lai mà những người công chính được hưởng trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc vào thời cánh chung, đồng thời ơn cứu độ được thực hiện cho muôn dân nước vào thời thiên sai. Bàn tiệc cánh chung và bàn tiệc thiên sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.
Is 25: 6-9
Trong đoạn trích “khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân là bàn tiệc cánh chung. Đây là niềm vui của những người được tuyển chọn, theo đó mọi đau khổ và sự chết hoàn toàn biến mất trong Thiên Quốc.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tâm tình tri ân đối với cộng đoàn Ki-tô hữu nầy. Trái với thông lệ của mình, ngài đã chấp nhận sự trợ giúp vật chất của họ khi ngài gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng là dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử mà Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách của mình. Những quan khách được mời lại từ chối. Lời mời được gởi đến cho tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Bản văn nầy bao gồm các chương 24-27, đây là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại “sấm ngôn khải huyền”. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy.
Viễn cảnh là thời cánh chung hòa lẫn với viễn cảnh thời thiên sai. Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân, diễn tả ơn cứu độ phổ quát cũng như niềm vui chan chứa của những người được tuyển chọn.
1).Viễn cảnh thời cánh chung:
“Ngày ấy, trên núi nầy,
Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc”.
“Trên núi nầy”, đó là núi Xi-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Xi-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2: 1-5).
Cũng được chính vị ngôn sứ nầy nhắc lại:
“Vầng ô thẹn mặt, bóng nguyệt hổ mày,
vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem” (24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một viễn cảnh như thế (Dcr 8: 20-23). Thời cánh chung sẽ là thời điểm Đức Chúa ngự trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc hoàng gia. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn “tiệc cưới hoàng gia” (Mt 22: 1-14).
Trong bữa tiệc này, thức ăn và thức uống đều hảo hạng:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế”.
Phẩm chất hảo hạng của bữa tiệc thắp sáng tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với khách mời. Cho đến lúc đó, trong các hy lễ “thịt béo” luôn luôn được dành riêng dâng lên Thiên Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, “rượu ngon” là niềm vui vĩnh viễn:
“Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân,
và tấm màn liệm bao trùm muôn nước.
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần”
Sách Khải Huyền của thánh Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chan chứa hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
2).Viễn cảnh thời thiên sai:
Sấm ngôn hoàn tất với bài ca cảm tạ tri ân về những thiên ân chưa từng được ban cho và một niềm tin tưởng vô bờ:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ.
Chính Người là Đức Chúa, chúng ta từng đợi trông.
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ’”.
Niềm vui tròn đầy, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu thời thiên sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ của bữa tiệc thiên sai đích thật: bữa tiệc thánh thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).
Đoạn trích thư hôm nay là phần kết thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê.
1).Chấp nhận sự trợ giúp của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê:
Xin nhắc lại, thánh nhân viết bức thư nầy khi ngài đang sống trong cảnh giam cầm hoặc ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ thánh nhân trong hoàn cảnh bị giam cầm, vả lại đây không là lần đầu tiên (x. Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn duy nhất mà thánh nhân đã không từ chối giúp đỡ vật chất. Thánh nhân luôn bận lòng là không bao giờ trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không, như “đầy tớ” của Đức Ki-tô, Đấng không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính đôi tay của mình để cung cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12).
Tuy nhiên, do mối thân tình và niềm tin tưởng của thánh nhân đối với các tín hữu Phi-líp-phê, ngài chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành của họ đối với ngài.
2).Hài lòng trong mọi hoàn cảnh:
Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Épictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết này múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Ki-tô, Đấng sống trong thánh nhân.
Vị sứ đồ muốn các tín hữu hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai, ngài quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô” (1Cr 9: 12).
3).Cám ơn tấm lòng của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê:
Thánh Phao-lô bày tỏ lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ (các tín hữu Phi-líp-phê) vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3).
Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ từ bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói về các tín hữu Phi-líp-phê như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối thư, thánh nhân ngỏ lời trước hết với “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó với “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).
Dụ ngôn nầy cùng với hai dụ ngôn đi trước: dụ ngôn hai người con và dụ ngôn những tá điền gian ác, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: lương dân thay thế dân tuyển chọn, dân bất trung với sứ mạng của mình. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: trong dụ ngôn tiệc cưới, dấu nhấn được đặt trên ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung, cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
1).Bàn tiệc thời thiên sai (22: 1-7):
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, “Đức Vua” đại diện Thiên Chúa, “Người Con” đại diện Đấng Cứu Thế, và “tiệc cưới hoàng gia” là giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Các quan khách được đức vua ưu ái gởi thiệp mời trước, sau đó sai đầy tớ đến nhắc lại, không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Vài quan khách còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và giết chết các gia nhân của vua.
Họ chẳng những không đáp trả lời mời dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội, nhưng còn bách hại các gia nhân mà vua sai đến với họ, vì thế “nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”. Trong bối cảnh Kinh Thánh, cách hành xử của nhà vua như thế là những án phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ gian ác này, nhưng ở đây dường như là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 Công Nguyên bởi đạo quân Rô-ma.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc màu da, tốt xấu, được mời gọi thay thế dân Ít-ra-en bất trung: “Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Sự chọn lựa giữa người tốt kẻ xấu sẽ xảy ra sau nầy vào thời cánh chung như trong dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng hay trong dụ ngôn chiếc lưới.
Trong cùng một câu chuyện của mình, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Đức Giê-su ưu ái đặc biệt, họ đã hoan hỷ tiếp đón Tin Mừng và đã dự phần vào niềm vui thiên sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.
2).Bàn tiệc thời cánh chung (22: 8-14):
Từ bàn tiệc thời thiên sai, dụ ngôn chuyển sang bàn tiệc thời cánh chung. Có sự khác biệt đáng kể giữa bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung. Trong bàn tiệc thời thiên sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi (không phải lời mời gọi của Đức Giê-su đặc biệt ngỏ lời với những người tội lỗi sao?). Trái lại, trong bàn tiệc thời cánh chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép tham dự khi mặc y phục của những người công chính.
Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn của đức vua: “Này bạn”, luôn hàm chứa sắc thái khiển trách như chủ vườn nho nói với tá điền của giờ thứ nhất: “Nầy bạn”, hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa đến bắt Ngài: “Nầy bạn”.
Làm thế nào có thể trách cứ người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi mà anh được mời vào dự tiệc cưới bất ngờ từ ngoài đường? Tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Một tập tục như vậy không được chứng nhận ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thật sự rõ ràng: không ai được phép dự phần vào bàn tiệc Nước Trời, nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi Tin Mừng như lời dạy của thánh Phao-lô: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27). Mặc lấy Đức Ki-tô, chính là: “Phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4: 22-24).
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, rõ ràng không ăn khớp với phần thứ hai của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời cánh chung, trong đó một số lượng lớn khách được mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn câu cuối nầy liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời thiên sai, trong đó một ít người dân Ít-ra-en, dân tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thiên sai, khi so sánh với muôn dân nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng, tham dự bàn tiệc thiên sai, gia nhập Giáo Hội.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam