Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 41

Tổng truy cập: 1371106

YÊU MẾN

Yêu mến – Lm. Giuse Phạm Quốc Phong

 

“Thầy đã nói với anh em… để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11)

Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta, không có gì khác, đó chính là “yêu” và “được yêu”. Điều này đúng ngay cả đối với những người cứng cỏi và nguội lạnh nhất, những người bị đang bị tổn thương cũng như những người đang trong thất vọng, những người bi quan và mỏng giòn, ước muốn “cho đi” hay “lãnh nhận” “Tình Yêu” này hiện diện trong mỗi chọn lựa và trong từng nỗi đau đớn của chúng ta. Chúng mong ước yêu thật nhiều và được yêu thật nhiều, và rồi chúng ta đau khổ, bởi vì chúng ta không đạt được ước muốn đó: “yêu và được yêu”, mặc dù chúng ta đã cố gắng tìm đủ mọi cách thức để có được nó. Vậy thì làm cách nào chúng ta có thể yêu và được yêu?

Tin Mừng hôm nay của Thánh Gioan trả lời cho chúng ta rất rõ ràng câu hỏi ở trên. Tình yêu trước tiên đó là một tiến trình đón nhận Tình yêu của Thiên Chúa, chấp nhận để được yêu, ở lại trong tình yêu mà mình khám phá ra. Tình yêu do đó, trước là “ý thức” và rồi “cảm nhận”, sau đó “rung cảm” rồi đến “cảm xúc”. Chính những đặc tính đó làm thước đo cho tình yêu như thánh Tông đồ đã chỉ cho chúng ta. Chúng ta, và nhất là người trẻ ngày nay, thường hay hiểu lầm từ ngữ “Tình yêu”. Tình yêu không chỉ là “đam mê” và “dấn thân vào đam mê đó”, nó không chỉ là hương thơm của hoa Violet hay “niềm hạnh phúc vô tận”, nó không chỉ là “cảm nhận mình có giá trị” và được người nào đó “tìm kiếm” (một người tình, một người con, hay một người bạn). Tình yêu còn phải mang những thuộc tính: cụ thể và thực tại, mỗi ngày một cách đều đặn, mệt mỏi và lao nhọc, trung thành nhất là trong lúc khó khăn và thử thách, và có khỉ là “cuộc khổ nạn”. Tất cả những thuộc tính này, chúng ta đều tìm thấy nơi “Con Người” Giêsu một cách trọn vẹn.

“Hãy để cho chúng ta được yêu!” nhưng bằng cách nào? Thông thường tình yêu của chúng ta bị gián đoạn, có khi bị hủy diệt bởi sự chậm trễ hay đóng kín cõi lòng chúng ta, hoặc bởi sự mệt mỏi và tội lỗi của chúng ta. Tất cả những thứ này làm chúng ta mệt mỏi và xấu hổ với chính mình, sợ hãi và ngại ngùng trước Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu rằng: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: hãy để cho chúng con được yêu, hãy để cho lòng Nhân Từ của Cha đến được với chúng con, hãy để cho Tình yêu của Cha đến và ở lại với chúng con trong sự quan phòng và sự hiện diện của Người. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở nhiều lần với chúng ta: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta, chỉ có chúng ta mới mệt mỏi khi phải đi hòa giải với Ngài mỗi khi chúng ta phạm tội, rằng lòng từ bi tha thứ của Thiên Chúa là Vô hạn lượng”. Và một cách tất yếu rằng: Tình yêu sẽ biến đổi chúng ta.

“Thầy đã nói với anh em… để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu mong muốn niềm vui, một niềm vui đích thực, một niềm vui tròn đầy. Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui: niềm vui vì cảm nhận mình được yêu và có khả năng yêu. Có thể rất nhiều lần, chúng ta đã để mình đi vào con đường của sự buồn chán, lo lắng hay rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Những khó khăn, những vấn đề rắc rối, sự yếu đuối, sự đau khổ làm cho chúng ta chao đảo, và có khi làm chúng ta ngã quỵ. Chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi để phản tỉnh: “vậy chúng ta được gì, nếu cứ mãi ở lại trong sự đau khổ và buồn bã đó”? Thiên Chúa sẽ biến đổi “sự than khóc của tôi thành điệu ca”, nghĩa là Ngài biến đổi và ban cho chúng ta niềm vui đích thật. “Hãy đến với Ta hỡi những ai đang mang gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho…” lời mời gọi yêu thương đầy thông cảm của Chúa Giesu phải là một lời nhắc nhở mỗi khi chúng ta cảm thấy chùng chân mỏi gối trên đường lữ thứ trần gian, và Lời ấy chính là Ngài, một Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với mỗi người chúng ta, một Thiên Chúa luôn cảm thông và tha thứ luôn luôn cho chúng ta, bởi vì Ngài muốn: “để niềm vui của anh em được nên trọn”.

 

 

 

 

 

9. Yêu như thầy yêu – Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh

 

Yêu và muốn được yêu là khát vọng ngàn đời của con người.

Nhưng… tình yêu phát xuất từ đâu? Thế nào là yêu và được yêu?

Thánh Gioan trong thư thứ nhất của ngài đã cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”.

Như thế nguồn gốc phát sinh ra tình yêu là Thiên Chúa. Ngài là người yêu thương chúng ta trước và chúng ta là người được yêu: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước” và Ngài đã biểu lộ tình yêu ấy đối với chúng ta là Ngài “đã sai Con Một Ngài đến trong thế gian, để nhờ Người Con Một ấy mà chúng ta được sống”.

Về phần con người, nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mang bản chất của Thien Chúa và chúng ta nhận biết Ngài là Cha yêu thương. Yêu thương là dấu chỉ để thế gian nhận biết chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Yêu Chúa, yêu người là hai giới răn quan trọng, tóm kết những giới răn khác. Như thế, là con cái Thiên Chúa, là Kitô hữu chúng ta phải có bổn phận biểu lộ bản chất yêu thương với Thiên Chúa và với mọi người.

Tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa đến con người tựa như một cây nho mà gốc và thân cây nho là Thiên Chúa và cành nho là con người như lời Thầy Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng… anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 5:1,5). Chúa Cha yêu thương Chúa Con bằng nhựa yêu thương là Chúa Thánh Thần thúc đẩy và nuôi dưỡng cây nho lớn mạnh và phát triển sinh nhiều hoa trái: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15:9) và “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12)

Nhưng chúng ta phải yêu Thiên Chúa, yêu con người như thế nào?

Hôm nay, qua đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga 15:9-17), Thầy Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương yêu thương: Yêu như Thầy yêu.

Để cho cây nho yêu thương phát triển và lớn mạnh và sinh nhiều hoa trái, thì cả thân lẫn cành phải ở lại, phải gắn liền, phải liên kết từ gốc đến cành bằng nhựa yêu thương, phải chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái, tức là tuân giữ lệnh truyền, tuân giữ giới răn mà tình yêu đòi hỏi, và hy sinh mạng sống vì người mình yêu.

Khi yêu, không ai lại muốn đem điều xấu, điều bất hạnh đến cho người mình yêu. Hơn thế, Thiên Chúa là tình yêu, là Cha nhân lành thì chắc chắn không bao giờ Ngài bắt con người tuân giữ những lệnh truyền, những giới răn đưa con người đến bất hạnh và khổ đau; còn hơn thế, Chúa Cha đã hy sinh Người Con Một yêu dấu mình, Chúa Con đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu.

Như Cha Thầy yêu Thầy, Thầy Giêsu cũng yêu thương anh em.

Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau.

Tình yêu Chúa Cha và Chúa Con đã lan phát sinh ra tình yêu con người và từ tình yêu con người lại lan toả ra tình yêu giữa con người với con người.

Thầy đã thể hiện tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha bằng “đã tuân giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Ngài”.

Chúng ta không biết Chúa Cha yêu Chúa Con đến mức độ nào, nhưng qua lời công bố của Chúa Cha: “Này là Con Ta rất yêu dấu và đẹp lòng ta, các con hãy vâng nghe lời Ngài” và qua lời xác nhận của Thầy Giêsu: “Thầy yêu anh em như Cha Thầy yêu Thầy”, chúng ta tin Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau rất thắm thiết, yêu nồng nàn, yêu chứa chan hơn bất cứ một tình yêu nào khác!

Chúa Con đã yêu thương Chúa Cha bằng vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng không theo ý con mà xin theo ý Cha”.

Vâng theo ý Cha là tuân giữ lệnh truyền của Cha, thực thi ý muốn của Cha, và như thế là làm đẹp lòng Cha và ở lại trong tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu đã chấp nhận xuống thế làm người, chịu đau khổ, chịu chết để đem con người vào cõi phúc trường sinh. Đó là tình yêu của Thầy Giêsu dành cho con người. Đến lượt chúng ta, chúng ta lại yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng ta.

Theo gương của Thầy Giêsu, chúng ta lại phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng ta, mà muốn yêu thương anh em, chúng ta phải ở lại trong tình yêu của Thầy như Thầy ở lại trong tình yêu của Cha Thầy và muốn ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta lại phải giữ giới răn Thầy truyền dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14,23-24), và hy sinh mạng sống mình vì anh em. Hy sinh mạng sống mình vì anh em là biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, là đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm… Hy sinh mạng sống vì người mình yêu là tột đỉnh của tình yêu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình”. (Ga 15,13)

Khi chúng ta yêu Thiên Chúa là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, là anh em cùng một Cha, nhưng khi chúng ta cùng Chúa Cha và Chúa Con yêu thương đồng loại, yêu thương những người chưa nhận biết Thiên Chúa, thì chúng ta đã trở thành môn đệ, là bạn hữu như lời Thầy Giêsu đã nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).

Xin kể một câu chuyện về bạn hữu ở đời thường như sau:

Bão Thúc (tức Bão Thúc Nha, còn có tên là Bão Tử, người tài giỏi việc nước của nước Tề) đã cắt cử Quản Trọng cho Hoàn Công dùng. Quản Trọng tên thật là Di Ngô, người nước Tề, một tướng giỏi.

Bão Thúc chết, Quảng trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi:

– Ông với Bão Thúc không phải là người họ hàng thân thích, sao ông thương tiếc ông ta quá vậy?

Quản Trọng giải thích:

– Ngươi không rõ ngọn ngành đâu! Để ta nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn bán chung với Bão Thúc; lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, nhưng Bão Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền để tiêu dùng nên mới làm thế. Ta ở chỗ chợ búa thường hay bị lắm kẻ bắt nạt, Bão Thúc không coi ta là người hèn nhát, nhưng biết ta rộng lượng, không chấp những điều người ta đối xử với mình. Ta bàn việc với Bão Thúc, nhiều lúc việc hỏng, Bão Thúc không cho ta là ngu, mà cho là việc thành công hay thất bại là do có lúc may mắn, có lúc không. Ta, ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi nhiệm, Bão Thúc không cho ta là người chẳng ra gì, mà lại coi ta là người chưa gặp thời, chưa tìmđược vua giỏi. Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bão Thúc không cho ta là bất tài, nhưng biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. Ta nhịn nhục thờ vua Hoàn Công, Bão Thúc không cho ta là người vô liêm sĩ, người không biết xấu hổ, mà biết ta không giữ những chuyện nhỏ mọn, có chí làm lợi ích cho cả thiên hạ…

Sinh ra ta là cha mẹ, hiểu biết ta là Bão Thúc. Với người hiểu biết mình, thì đem cả tính mạng ra mà đền đáp còn chưa đủ huống chi thương khóc thế này thì đã thấm vào đâu! (Thuyết Uyển. Cổ Học Tinh Hoa)

Thật là người bạn đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, người bạn tri kỷ!

Tình bạn giữa con người chưa mang dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa mà còn được thán phục như thế, thì kết quả của tình bạn hữu giữa Thiên Chúa và con người lại càng cao trọng và đáng thán phục hơn nhiều Yêu thương anh em như chính mình đã khó, yêu thương anh em như Thầy Giêsu yêu chúng ta lại càng khó hơn! nhưng đó là những nỗ lực chúng ta cần phải đạt tới để được xứng đáng là Kitô hữu, là bạn hữu của Thầy Giêsu. Điều kiện để yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta là giữ giới răn Chúa truyền dạy, là ở lại nơi Thầy và hy sinh mạng sống mình vì anh em, cụ thể hơn là đọc và nghe tiếng nói của Thiên Chúa qua Tin Mừng và ở lại, sống kết hợp với Chúa trong phép Thánh Thể.

Chúng ta đã đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với Thầy Chí Thánh của chúng ta như thế nào để được xem là bạn hữu của Thầy Giêsu!

 

 

 

 

 

10. Yêu thương anh em.

 

Sống trong cuộc đời, chúng ta phải yêu thương nhau. Đó là điều dễ hiểu. Bởi vì nếu không yêu thương nhau, xã hội sẽ bất ổn và bản thân chúng ta cứ phải nơm nớp lo sợ trước những hận thù chồng chất. Thế nhưng, phải yêu thương nhau như thế nào?

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một khuôn mẫu để noi theo và bắt chước. Ngài phán: Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta như thế nào, để rồi chúng ta sẽ lấy tình yêu của Ngài làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc để đo mọi việc làm của chúng ta?

Không cân phải nói, hẳn chúng ta cũng đã quá rõ: Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, lớn lên trong xưởng thợ Nagiarét. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống vất vả và nghèo túng. Ở nhà thì phải lao động cực nhọc. Đi rao giảng Phúc âm thì vất vưởng nay đây mai đó, không có lấy cả một nơi để gối đầu và nghỉ ngơi. Nhất là Ngài đã chết một cái chết ê chề và nhục nhã, như lời Ngài đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Liệu chúng ta có thể biểu lộ tình yêu thương của chúng ta bằng những hành động cụ thể như vậy hay không? Liệu chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh và ngay cả cái chết cho những người mình thương mến hay không?

Hẳn chúng ta còn nhớ một Maximilianô Kolbê đã chết thay cho một bạn tù ở trại tập trung của Đức Quốc Xã trong cuộc thế giới đại chiến lần thứ hai. Hẳn chúng ta còn nhớ một Đamiêng, vị tông đồ người hủi, đã đến hải đảo Molokai, đã sống giữa họ và đã chết giữa họ, để nâng đỡ và xoa dịu những đớn đau họ phải chịu do chứng bệnh phong cùi gây nên. Và còn biết bao nhiêu tu sĩ nam nữ đã âm thầm hy sinh cuộc sống của mình để chăm sóc cho những người già cả, đau yếu và bất hạnh.

Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ bên Tàu, có một em bé đói rách, tiều tụy và mắc bệnh phong cùi. Em bị dân chúng đánh đập và đuổi ra khỏi làng. Trước cảnh tượng ấy, một nhà truyền giáo phương xa đã bế em trên tay, che chở em khỏi gậy gộc phũ phàng. Thấy có người chịu mang em đi, dân làng mới thôi không đánh đập em nữa, nhưng miệng thì vẫn không ngớt rủa xả. Giờ đây, những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má em. Không phải là những giọt nước mắt đau buồn và tủi hận, nhưng là những giọt nước mắt vui mừng và tin tưởng. Em đã hỏi: Tại sao ông lại lo lắng cho tôi? Nhà truyền giáo trả lời: Vì ông trời đã tạo nên cả hai chúng ta. Em là em gái của tôi và từ nay em sẽ không còn phải đói khổ, long đong vất vả nữa. Suy nghĩ một hồi, em hỏi tiếp: Vậy tôi phải làm gì? Nhà truyền giáo trả lời: Em hay tro tặng cho người khác tình yêu của em, càng nhiều càng tốt. Từ đó cho đến khi qua đời, trong suốt ba năm, em luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó vết thương và đút cơm cho các bệnh nhân trong trại cùi mà nhà truyền giáo đa đưa em vào. Tới năm mười một tuổi, khi em qua đời, các bệnh nhân đã khóc và nói với nhau với tất cả niềm thương nhớ: Bầu trời bé nhỏ đang xa lìa chúng ta.

Lề luật của Chúa được gồm tóm trong hai điều, đó là mến Chúa và yêu người. Chúng ta hãy cố gắng thực thi hai điều ấy với niềm xác tín rằng: qua những yêu thương nho nhỏ, chẳng hạn như một ánh mắt dịu hiền, một nụ cười cảm thông, một lời nói an ủi, một việc làm giúp đỡ… chúng ta sẽ trở nên là những môn đệ đích thực của Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

 

 

 

 

 

11. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

 

Anh chị em thân mến. Trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ, các văn nhân, thi sĩ, tốn rất nhiều giấy mực để ca tụng một vấn đề rất cổ xưa nhưng cũng rất hiện đại, và có lẽ vấn đề nầy sẽ còn rất nhiều người nói đến mãi, cho đến khi nào không còn con người hiện diện trên trái đất nầy mới thôi. Đó là vấn đề Tình Yêu. Trong trào lưu ca tụng tình yêu, cố thi sĩ Xuân Quỳnh cũng có bài thơ đã được phổ nhạc mang tên: “Thuyền và Biển.”

Trong đó có mấy câu dể gây cảm xúc cho người nghe: Chỉ có thuyền mới hiểu, Biển mênh mang nhường nào. Chỉ có biển mới biết, Thuyền đi đâu về đâu. Những ngày không gặp nhau, Biển bạc đầu thương nhớ. Những ngày không gặp nhau, Lòng thuyền đau – rạn vỡ.

Thuyền và biển làm cho nhau thêm phong phú. Nếu không có thuyền trên biển, biển sẽ yên lặng trong cô đơn, hay chỉ là những cơn cuồng nộ giận dữ. Nếu không có biển thì con thuyền cũng trở nên vô dụng, vì không thể phát triển được những gì của con thuyền đòi hỏi.

Chúa Giêsu luôn kêu gọi mọi người sống trong tình yêu. Hôm nay một lần nữa chúng ta lại nghe Ngài nói về tình yêu một cách cụ thể hơn. Ngài kêu gọi mọi người hãy đến và ở lại trong tình yêu bao la của Thiên Chúa Cha. Điều làm cho con người được phong phú: Đó là tình yêu. Tình yêu bao la của Thiên Chúa bao bọc con người, để cho con người có thể ngụp lặn trong biển tình tuyệt vời đó. Sống trong tình yêu Thiên Chúa, con người được trở nên phong phú, cuộc đời mới có giá trị. Nếu tách rời khỏi biển tình yêu Thiên Chúa, con người sẽ trở nên vô dụng, cuộc đời sẽ từ từ đi vào cõi chết. Sống mà không có tình yêu thì không phải là sự sống đích thực. “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.”

Con thuyền cuộc đời của chúng ta, được Thiên Chúa trang bị thật đầy đủ, để có thể ra khơi trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Chẳng lẽ con thuyền ra khơi mà không định hướng, không mục đích. Không lẽ con thuyền ra khơi mà trên thuyền không mang theo một vật dụng gì hết. Không thể chấp nhận được, khi con thuyền đi vào biển cả mà không có một sự chuẩn bị nào cho xứng đáng.

Ra khơi trên biển Tình Yêu của Thiên Chúa, con thuyền phải được trang bị bằng những chất liệu của Tình Yêu. Từ chất liệu của con thuyền cho đến những thứ hành trang mà con thuyền mang theo.

Nhìn lại con thuyền cuộc đời của mỗi người chúng ta, Thiên Chúa đã trang bị bằng chất liệu Tình Yêu thật hoàn hảo. Con người chúng ta Thiên Chúa đã tạo dựng bằng Tình Yêu thương của Ngài. Những chất liệu đó giờ đây, có lẽ nó đã bị biến chất phần nào, nó đã bị hao mòn với thời gian, nó không còn đủ mạnh và vững chắc để có thể ra khơi cách an toàn. Nên nhiều khi chúng ta ngại không dám ra khơi trong biển Tình của Thiên Chúa. Chúng ta sợ nó bị hao mòn, chúng ta cũng sợ nó bị chòng chành vì những cơn sóng tình. Một sự sợ hãi còn lớn lao hơn nữa, là chúng ta sợ bị mất hút trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Khi đó vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến chính mình, chỉ biết lo cho mình, bảo vệ bản thân, nên chúng ta quá lo sợ.

Chính vì thế mà chúng ta không thể sống đúng được lệnh truyền của Tình Yêu. Những lúc như thế, chúng ta chỉ biết yêu thương có chính mình, ngoài ra, chúng ta chẳng biết yêu thương ai hết. Như thế thì cuộc đời chúng ta giống như con thuyền thật tốt đẹp, thật hoàn hảo, chính vì sự tự hào với dáng vẻ tốt đẹp đó, mà nó sợ không dám đưa mình xuống nước để hoạt động, nên nó mãi ở trên nơi khô cạn. Suốt đời nó cũng là vô ích, mặc dù nó tốt đẹp, nhưng nó không hoạt động được, vì thế nó là một con thuyền chết, là đồ phế thải, vì nó vô dụng. Chẳng lẽ con thuyền cuộc đời của chúng ta lại trở nên vô dụng như thế sao. Chẳng lẽ con thuyền chúng ta không dám ra khơi để lênh đênh trong biển tình của Thiên Chúa sao?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết dùng Tình Yêu để sống với nhau, để con người của mình được ở trong Chúa như con thuyền trong biển cả.

 

 

 

 

 

12. Anh em hãy yêu thương nhau – ViKiNi

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

 

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu. Con người muốn được Thiên Chúa thương yêu, con người phải biết thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương ta. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình thương bắt nguồn từ Thiên Chúa”.

1. Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói “nàng là xương tư xương tôi, thịt là thịt tôi” (St 2,23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói “đồng bào ruột thịt”. Đồng bào nghĩa là cùng chung một bào thai sinh ra, đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt. Nói khác đi, ta nhận nhau như chính mình.

Nhưng thảm hại thay, tình thương một xương một thịt đó chẳng được bao lâu, khi con người sa ngã. Thiên Chúa đến hỏi, thì Adong đã đổ lỗi cho Evà (St 3,12). Mọi tội lỗi đã trút đổ lên đầu nhau, còn mình vô tội. Lúc này, không còn phải là một nữa, mà là hai, không còn xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi. Nó đã tách rời nhau, xa lìa nhau. Một kẻ là tội phạm, một kẻ rửa tay. Hai kẻ đối kháng nhau, thù ghét nhau. Trong cảnh gia đình chia rẽ, oán hận nhau, con cháu trở thành kẻ thù nhau: Cain đã giết em mình là Abel. Esau đã thù Giacob. Các con Giacob đã bán em là Giuse sang Ai cập. Bao lâu tình yêu chỉ bắt nguồn từ xương thịt bấy lâu còn chia rẽ, hận thù.

2. Ban đầu, Thiên Chúa trao ban tình yêu của Ngài trực tiếp cho loài người, nhưng đã thất bại, loài người không thể thương yêu nhau như Thiên Chúa yêu thương con người. Lần này, Thiên Chúa nhờ chính Con Một Ngài là Đức Giêsu thông truyền tình yêu Thiên Chúa cho loài người: “Chúa Cha đã yêu mến Thay thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” để “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha truyền sang Chúa Con, và Chúa Con truyền sang chúng ta, như thế, tình yêu này mang bản chất Thiên Chúa, chứ không mang tính xương thịt như ban đầu nữa. Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa để chúng ta noi gương Chúa Con mà yêu thương nhau.

Thứ nhất, Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tuân giữ lệnh truyền cua Chúa Cha, thực thi giới răn của Chúa Cha: “Thầy đã tuân giữ giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Ngài”. Vì thế chúng ta muốn ở trong tình thương của Thiên Chúa, chúng ta phải giữ giới răn của Ngài: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy”.

Thứ hai, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng hy sinh mạng sống mình để cứu độ chúng ta. Người đã dám gánh tội của chúng ta, đã chịu chết đền tội cho chúng ta. Người không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.

Con Thiên Chúa vô cùng cao cả đã yêu thương chúng ta đến cùng tận, còn chúng ta là đồng bào, đồng phận xương thịt với nhau, sao không dám hy sinh cái thân phận hèn hạ của mình cho nhau? Chỉ có hy sinh cho nhau, chúng ta mới biết mình ở trong tình yêu của Thiên Chúa.

Thứ ba, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu chọn chúng ta làm bạn hữu của Người: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu”.

Thực sự, chúng ta không thể nào đáng là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta vừa là loài thụ tạo, vừa kém hơn loài thụ tạo, vì đã phạm tội, xúc phạm đến Đấng tác tạo nên ta. Mọi loài thụ tạo đều vâng phục Thiên Chúa một cách triệt để theo một trật tự hoàn hảo. Vĩ đại như tinh tú, mặt trời, mặt trăng đã tuân theo lệnh Thiên Chúa sắp đặt xoay vần, không hề sai trái. Nếu chúng sai trái, loài người và muôn vật bị tiêu hủy. Còn chúng ta đã không vâng lệnh Thiên Chúa, đáng lẽ chúng ta đã bị tiêu diệt. Làm sao dám làm bạn hữu của Người. Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã cho chúng ta được vinh dự vô cùng đó. Noi gương Đức Giêsu, chẳng những chọn mọi người làm bạn hữu của ta, mà còn phải tôn trọng mọi người hơn ta, ta mới xứng đáng với tình thương của Người, mới mong thu được nhiều kết quả và đáng Chúa Cha nhận lời chúng ta nài xin.

Thánh Phêrô, đã noi gương Thầy Chí Thánh, đến thăm nhà ông Cônêliô. Phêrô không kỳ thị dân ngoại, không khinh thị quân Rôma xâm lăng, như lối sống kỳ thị của truyền thống Do thái, Phêrô kính trọng gia đình Cônêliô, đã đỡ ông lên: “Xin ông đứng dậy, vì tôi cũng chỉ là người phàm”. Còn ông Cônêliô, dù là một sĩ quan của đế quốc Rôma vĩ đại, là người cai trị dân, ông đã hạ mình xuống “ra đón và phủ phục dưới chân Phêrô ma bái lạy”. Trước những cử chỉ hy sinh bỏ mình đi, hạ mình xuống và chân thành kính mến nhau như vậy, làm cho người Do thái kinh ngạc, và Thiên Chúa đã yêu thương các ông mà ban Thánh Thần tình yêu tràn trề xuống cho Phêrô và gia đình Cônêliô, để nhận nhau làm bạn hữu muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương bao la của Chúa, tình thương đồng hóa, đồng phận với mọi người cùng khổ, tình thương hy sinh mạng sống để cứu độ muôn dân.

Sao chúng con không biết thương người như Chúa thương chúng con và mọi người.

 

 

 

 

 

13. Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

 

Tin mừng Ga 15:9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”.  Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông,  thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.

“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”.

Ngày nay người ta nói nhiều về tình yêu.

Tình yêu được ca tụng và trình diễn trong các chương trình truyền hình, các truyện tiểu thuyết, trong các bài hát, các tác phẩm văn nghệ, và trong các cuộc giao tiếp hàng ngày.

Những câu truyện về tình yêu sẽ vẫn còn tiếp tục xuất hiện trên sân khấu cuộc đời chúng ta.

Tình yêu mang lại niềm vui, hạnh phúc, bình an, sức mạnh, và một ý nghĩa để sống.

Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, thời nay dường như cũng là lúc mà xã hội cảm thấy thiếu vắng tình yêu nhất. Người ta chối bỏ nhau, chém giết nhau, làm khổ nhau. Người ta nói về tình yêu, bàn về tình yêu, viết về tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng ít người sống cho tình yêu. Và đó là lý do tại sao chúng ta vẫn còn xa cách nhau mặc dầu chúng ta vẫn ở kế cận nhau.

Đã đến lúc mỗi người chúng ta phải dừng lại để lắng nghe lời của Đức Giêsu:

“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.”

Tình yêu chân thật phải được trả bằng giá rất cao.

Đức Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Ngài dạy chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.

Tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu đặt trên căn bản của ý chí muốn dấn thân trọn vẹn không tính toán, không điều kiện.

Cây Thập Giá, Bí tích Thánh Thể và Tha Thứ là ba dấu chứng rõ ràng nói lên tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta.

Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi hy sinh mạng sống của Ngài và chết trên Thập Giá để cho chúng ta được sống.

Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi đã trở nên của ăn và của uống hằng sống cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể.

Và ngài Yêu thương chúng ta và luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.

Đây chính là cách thức yêu thương mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện cho nhau trong cuộc sống. Ngài muốn chúng ta yêu bằng ý chí dấn thân hy sinh chết đi cho nhau như Ngài đã hy sinh chết đi cho chúng ta.

Và Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng cách trao ban chính bản thân mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”

Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.

Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác.

Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: “Người ta chỉ có thể yêu khi người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình yêu, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả”.

Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.

Cho nên nhận chính là để cho đi. Cho đi để sinh lợi dồi dào hơn như hình ảnh hai biển hồ Galilêa.

Tại Palestine có hai biển hồ… Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau.

Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa.

Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và có rất nhiều cá. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.

Biển hồ thứ hai là Biển Chết.

Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.

Nhưng có một điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là dòng sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.

Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.

Một hình ảnh cho chúng ta thấy:

Càng trao ban, càng dồi dào.

Càng trao ban, càng sinh lợi.

Càng trao ban, càng nhận lãnh được nhiều.

Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.

“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Amen.

 

 

 

 

 

14. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

 

Có một tác giả nọ nhận định như thế này: “Nếu bạn có thực phẩm để ăn, có quần áo để mặc, có một mái nhà che đầu và một nơi để nghỉ qua đêm, là bạn đã giàu hơn 75% dân số trên thế giới này. Nếu bạn có tiền trong ví để xài, có tiền ban phát cho người nghèo, có tiền để dành trong ngân hàng, là bạn đang ở trong 8% những người giàu nhất trên thế giới.

Thưa anh chị em! Chẳng biết điều đó có chính xác hay không, nhưng chúng ta cũng thấy được rất rõ rằng: Giữa người giàu và người nghèo có một khoảng cách rất là xa khi mà thế giới đang theo đuổi cái xu hướng mà người ta gọi là Toàn Cầu Hóa. Và cái nghèo mà người ta nói tới nhiều nhất là cái nghèo về cơm áo gạo tiền. Người ta lo sợ rằng: Với một đà tăng dân số như ngay hôm nay thì sẽ có lúc trái đất này không còn đủ lương thực cho con người nữa.

Thế nhưng, nếu nhìn kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng, đó không phải là điều đáng sợ lắm, mà cái đáng sợ hơn hết là cái nghèo đói tình thương trong thế giới ngày hôm nay. Vì nghèo đói tình thương cho nên chiến tranh chưa bao giờ kết thúc. Vì nghèo đói tình thương cho nên mới có cái cảnh “Người ăn không hết, kẻ lần không ra”. Vì nghèo đói tình thương cho nên những xung đột, những cãi vã, những tranh giành vẫn xảy ra hàng ngày ở chung quanh chúng ta.

Lời Chúa trong Thánh Lễ chiều hôm nay mời gọi từng người trong chúng ta hãy can đảm dùng một chút thiện chí của mình để góp phần đẩy lùi nạn đói tình thương đang hoành hành nơi bản thân và nơi môi trường sống của chúng ta, qua việc thực hiện lời gọi của Đức Kitô Phục sinh, vị sứ giả của tình thương: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”. Và cũng kể từ đây, giới luật yêu thương đã trở thành giới luật mới quan trọng nhất. Nói là kể từ đây có nghĩa là giới luật này nó đã có từ rất lâu. Nơi Cựu Ước chúng ta đã nghe là: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”.

Tôi yêu bản thân tôi như thế nào thì cũng phải yêu người khác như vậy. Nhưng trong Tân Ước, Đức Giêsu đã đẩy những đòi hỏi của giới luật này lên đến một cấp đột mà có lẽ không ai dám nhìn tới: “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con”. Như vậy giới răn mà Chúa gọi là giới răn mới này đòi hỏi chúng ta không phải là lấy chính mình để làm tiêu chuẩn nữa. Bởi vì tiêu chuẩn của con người dù có hào hoa rộng rãi đến đâu đi nữa, thì cũng có yếu tố chủ quan và tiêu cực trong đó, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn: “Yêu người như Chúa yêu”. Muốn biết được Chúa yêu thương như thế nào, chúng ta phải nhìn lại cuộc đời dương thế của Chúa, ma rõ ràng nhất là trong ba năm rao giảng Tin Mừng: “Không có ai đến với Chúa mà phải ra về tay không, phải ra về trong cay đắng thất vọng cả: Người mù đựơc sáng mắt, kẻ què đi được, người chết được sống lại, kẻ tội lỗi được thứ tha”.

Đối với Đức Giêsu, tất cả những kẻ đang đứng trước mặt Người đều là những người rất quan trọng và rất đáng thương. Và sau cùng, Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá để muôn đời trở nên một kiểu mẫu tình yêu cho mọi người: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Tình yêu của Chúa đẹp đẽ quá, lý tưởng quá, làm sao tôi có thể trở nên giống như Người được? Thế nhưng bao lâu chúng ta còn hiện diện trong cuộc đời này là bấy lâu chúng ta được Chúa mời gọi: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Thưa anh chị em! Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt đến cấp độ “Như Thầy yêu thương” một cách hoàn hảo đâu. Bởi vì Chúa thì quá tuyệt vời thánh thiện, còn chúng ta thì ngược lại có quá nhiều giới hạn, nhiều thiếu sót mà giáo lý nhà Phật gọi là “tham, sân, si”.

Thế nhưng, chúng ta không vì thế mà tự cho phép mình xao lãng hay miễn chuẩn giới răn đặc biệt quan trọng đó. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải tự treo mình trên Thánh Giá vì anh chị em, Chúa cũng không buộc chúng ta phải trở nên một Têrêsa Calcutta vĩ đại suốt đời lo lắng cho người khác, hay một cha Thánh Maximilianô Kolbê anh hùng chết thay cho người bạn tù của mình.

Thế nhưng, chúng ta lại có rất nhiều dịp để thể hiện tình thương của mình cho người khác, để sống cho tha nhân. Mà sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chúng ta không thể chết như Chúa được thì hãy chết trong mồ hôi và nước mắt, chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày qua những lần chúng ta rộng rãi thể hiện sự bác ái của mình đối với tha nhân. Có một thanh niên nọ, trong lúc chờ đón xe về Thành Phố Cần Thơ, bỗng nhìn thấy có một chiếc xe đạp đang từ phía Cần Thơ chạy về hướng Vĩnh Long. Và có lẽ không chú ý hay như thế nào đó mà cô bạn sinh viên điều khiển chiếc xe đạp ấy ngang nhiên đâm vào một chiếc xe Honda đang dừng trước mặt. Vì xe đạp chạy không nhanh lắm nên chẳng ai có hề hắn gì cả, chỉ có chiếc xe Honda bị bể chiếc vè sau mà thôi.

Trước những lời bắt chẹt thô thiển và cái giá phải bồi thường mà chủ xe Honda đã đưa ra thì cô bạn sinh viên đó chỉ còn biết đứng khóc mà thôi. Hơi ngập ngừng một chút và vì biết chắc rằng một cách bất ngờ như thế thì cô bạn sinh viên ấy không thể có đủ số tiền để bồi thường. Anh thanh niên đó đã mạnh dạn tiến tới ra tay nghĩa hiệp trả tiền chiếc vè sau mới, thay cho cô bạn kia.

Anh thanh niên này quyết định làm chuyện đó hoàn toàn không phải vì cô ấy trẻ, cô ấy là sinh viên, mà bởi vì lúc đó tự nhiên anh ta cảm thấy có một cái gì đó thúc đẩy anh ta phải làm việc bác ái này. Vả lại anh ta quyết định làm việc đó một phần cũng là vì muốn nói với chủ xe Honda rằng: “Chúng ta đừng nên hiếp đáp bắt chẹt những con người yếu thế hơn mình”. Anh thanh niên hơi tào lao đó chính là người đang đứng trước mặt anh chị em đây.

Thưa anh chị em! Hoàn toàn không bao giờ dám coi đó là một kinh nghiệm tốt lành để gọi là khoe khoang với người ta, nhưng con muốn chia sẻ một tình huống cụ thể của bản thân mình đó, để mạnh dạn lặp lại một lần nữa bài học này: “Ngày nào bạn từ chối thắp lên ngọn lửa yêu thương, ngày đó sẽ có nhiều người chết vì giá lạnh”.

 

 

home Mục lục Lưu trữ