Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 60
Tổng truy cập: 1364776
YÊU MẾN THÌ GIỮ LỜI
Yêu mến thì giữ lời
Trong truyện cổ Việt Nam, có kể lại chuyện của một gia đình kia có một bà mẹ rất nghèo, do chồng mất sớm nên bà phải tần tảo khó nhọc để nuôi dạy con, hằng ngày bà phải đi tìm ao vớt bèo về nuôi lợn, vậy mà bà cho con được đi học rất tử tế, lại còn dạy con phải có phép tắc với mọi người, không được ăn cắp của ai, cũng không được tham lam của người khác. Năm đó, con bà đi thi đỗ được trạng nguyên, dân làng đón quan trạng và mở tiệc ăn mừng, còn bà thì thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Hôm rước quan trạng về làng, bà cũng đi vớt bèo, ai gọi bà cũng không chịu bước lên, thế là quan trạng phải nhảy đùng xuống ao vớt bèo tiếp mẹ cho đủ một bao bèo rồi bà mới chịu lên. Nhiều người thấy vậy thì nói rằng: Có một người mẹ như thế, thì con mới nên người được. Một năm sau, quan trạng mau về biếu mẹ một chiếc áo dài gấm thật đẹp, bà mẹ không vừa lòng, lấy lửa đốt chiếc áo dài gấm đó trước mặt quan và nói: Mới làm quan, có tiền đâu mà mua áo, chắc là nhận tiền hối lộ của ai rồi, mới làm quan mà còn như vậy, nếu làm quan lâu thì sẽ làm khổ cho dân biết chừng nào nữa, Thế là từ đó, vị quan kia luôn nhớ lời mẹ, sống một đời làm quan thật trong sạch, và về sau ông được vua cho làm tể tướng.
Qua câu chuyện cổ trên đây, chúng ta thấy vị quan nhờ thương mến mẹ mình, nên ông luôn nhớ và sống theo lời mẹ ông dạy, nên nhờ đó mà việc thành tựu của ông trong cuộc sống mỗi ngày được tốt hơn, mỗi ngày được thành công hơn, và ông đã đạt được một chức vụ cao trọng nhất trong cuộc đời của ông. Tôi thấy câu chuyện này có thể minh hoạ cho chúng ta hiểu thêm về câu nói của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: "Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy".
Yêu mến Chúa, có nghĩa là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm những điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải cụ thể các việc làm đó bằng những cử chỉ thật sự, bằng những hành động yêu thương thật sự trong cuộc sống thường ngày của mỗi người. Vậy thì các hành động yêu thương đó được biểu lộ ra trong cuộc sống mỗi người như thế nào?
Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được mọi suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những điệu bộ bên ngoài như nét mặt, ánh mắt, như những cảm xúc vui buồn... để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc... Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó.
Đối với tình yêu thương cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói: "Tôi yêu anh chừng một tạ hay một tấn", hoặc là nói: "Tôi mến anh dài 50 hay 100 cây số" được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu thương, người đó thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha người mẹ sẵn sàng thức khuya, dậy sớm, tảo tần buôn gánh bán bưng để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Thánh Augustinô còn nói: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".
Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động cụ thể. Dấu chỉ đó chính là sự vâng giữ lời của Đức Giêsu, cụ thể là chúng ta nghe trong bài Tin Mừng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy"
Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, nên Ngài đã làm trọn thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá, thì xin Chúa cũng cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.
38.Giáo Hội Nhà Tạm Chúa Ngự - Cố Lm Hồng Phúc
Lời Chúa đề cập đến giáo lý về Hội thánh. Hội thánh là tập đoàn của những người đã chịu phép Rửa tội dưới sự điều khiển và hướng dẫn của Đức Giáo hoàng và hàng Giáo phẩm. Đã là một tập đoàn thì gồm có nhiều người và có nhiều người thì có nhiều ý kiến nhiều khi trái nghịch nhau, chống đối nhau.
Giáo hội tiên khởi gồm hai thành phần: thành phần từ đạo Do-thái trở lại, và thành phần dân ngoại vừa đón nhận Tin Mừng.
Thành phần Do-thái muốn áp đảo bắt phải giữ tập tục Do-thái trong khi “dân ngoại” chỉ muốn biết Chúa Kitô. Thoạt đầu tiên, các nhà lãnh đạo cũng băn khoăn trước vấn đề gai góc. Làm sao giải quyết? Giáo hội đã dùng đến quyền tối thượng của mình.
Tại Giêrusalem năm 49, Giáo hội mở Công đồng gồm các Tông đồ, các bô lão và đại diện các cộng đoàn. Ý thức quyền cao cả - “Chúng tôi và Thánh Thần”,Giáo hội công bố bản quyết nghị về sự tự do thiêng liêng. Thể thức ấy còn tiếp diễn đến hôm nay qua dòng lịch sử, với 22 Công đồng chung.
Sở dĩ Giáo hội giải quyết những khó khăn, dị đồng lúc ban đầu cũng như qua các thời đại như vậy, vì Giáo hội được thừa hưởng lời hứa của Chúa Giêsu, Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần, “Đấng Phù-Trợ”đến.
Trong bài Phúc Âm, Gioan ghi lại lời minh hứa: “Đấng Phù trợ là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói cho các con”.
Chúa Giêsu đã nói tất cả rồi. Nghiêng mình trên sứ điệp mạc khải, Giáo hội hằng suy tư nghiền ngẫm Lời Chúa. Trải qua các thời đại, dưới sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo hội càng hiểu rõ Tin Mừng hơn và đem áp dụng vào đời sống; căn cứ vào đó để giải quyết những vấn đề mới mẻ do thời đại đặt ra.
Khi Gioan, vị Tông đồ cuối cùng qua đời thì nguồn mạc khải cũng chấm dứt. Phải chăng từ đó, Lời Chúa ghi chép trong Thánh Kinh, rao giảng và truyền đạt qua Thánh truyền, đã đứng nguyên một chỗ? Và chúng ta chỉ được nghe những lời giải thích cũ kỹ xa xưa. Không. “Thánh Thần mà Cha sai đến nhân danh Thầy sẽ dạy các con mọi điều”. Lời Chúa được ghi chép trong Thánh Kinh, được rao giảng qua Thánh truyền, là sự sống và là sự sống thì có cử động, có tiến triển. Lời Chúa được thấu triệt hơn và trình bày một cách sáng tỏ hơn.
Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta một Tin Mừng đặt biệt là mỗi cá nhân cũng như Giáo hội là “nhà tạm” của Chúa ngự. Đó là một đặc sủng và đặc sủng ấy chính là Thiên Chúa. Chúa phán: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Nguyên bản viết: “Chúng ta sẽ đến cắm trại” trong người ấy. Nghĩa là linh hồn đã được sạch tội và thánh hóa bởi ơn thánh thì được Con Thiên Chúa Ba Ngôi-“CHÚNG TA”-sẽ lập cư trong họ, trong một cuộc sống mật thiết như cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi vậy.
Chơn phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi là một nữ tu dòng kín ở Dijon, được tôn phong ngày 24-2-1984, đã sống mầu nhiệm tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Chị viết: “Chớ gì tôi được sống mãi trong cái gian phòng nhỏ bé mà Chúa đã xây dựng từ lâu trong đáy hồn tôi. Ở trong tôi được nhìn thấy Chúa, được cảm nghiệm có Chúa ở bên”. Đó cũng là một gương mẫu cho chúng ta.
“Lạy Chúa Ba Ngôi lòng con thờ phượng
Xin cho con quên mãi chính mình đi
Để chìm trong Chúa, rồi không biệt ly
Bất động và êm như vào vĩnh viễn…
Cho hồn con an bình, nơi lưu luyến
Thành Thiên đàng chỗ an nghỉ tình yêu…”
(Elisabeth de la Trinité)
39.Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
NHẬP LỄ
Với thời gian, biết bao nền văn minh xán lạn, bao nhà cai trị khét tiếng, nay còn đâu!? Thế nhưng Giáo Hội Chúa chỉ khởi đầu với 12 con người yếu đuối, hèn kém, cộng thêm biết bao bắt bớ, thử thách cam go, lại càng ngày càng phát triển, càng đông người tin theo và càng có uy tín đối với mọi người. Động lực đó từ đâu, nếu không phải từ sức mạnh và quyền năng dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho Giáo Hội?
- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, để chúng con được sống tự do. (Xin Chúa thương xót... )
- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Thành Thánh đáng quý đáng trọng. (Xin Chúa Kitô... )
- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần, để dạy dỗ và nhắc nhở chúng con. (Xin Chúa thương xót... )
GIẢNG
Nhiều người đã lấy làm lạ không hiểu tại sao, cho đến giờ phút này, Giáo Hội Chúa vẫn có thể tồn tại và phát triển; càng ngày càng phát triển, cho dù ngay từ bản thân Đức Giêsu, Giáo Hội Chúa đã bị bách hại, bị người đời tính toán tiêu diệt. Thử thách như theo gót phát triển của Giáo Hội: Thời kỳ đầu ở Giêrusalem, khởi sự với cuộc tử đạo của Thánh Têphanô, Thánh Giacôbê và các Thánh Tông Đồ khác, đến nỗi Giáo Hội phải phân tán khắp nơi; 300 năm cấm đạo ở Rôma và các Giáo Hội địa phương cũng chịu cùng cảnh ngộ. Giáo Hội có mặt ở đâu là bị bách hại ở đó; ngay tại Việt Nam, thời chế độ phong kiến, Giáo Hội cũng phải chịu hơn trăm năm ruồng rẫy, bắt bớ, hàng trăm ngàn người hy sinh vì Chúa. Bên ngoài Giáo Hội bị bách hại đã vậy, bên trong Giáo Hội cũng không kém phần thử thách: Nhiều người thế giá sống tội lỗi; nội bộ chia rẽ, nhiều giáo phái nổi lên gieo những điều sai lạc và làm ly tán Giáo Hội. Thế nhưng, Giáo Hội vẫn đứng vững trước các thử thách; ngày càng có nhiều người tin nhận, gia nhập Giáo Hội bằng con đường này hay con đường khác. Tất nhiên, chúng ta không lấy số lượng làm mục đích phát triển Giáo Hội, nhưng việc phát triển số lượng đó vẫn cho chúng ta thấy một sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng hoạt động trong Giáo Hội. Sức sống đó là gì và ở đâu?
Thời Giáo Hội sơ khởi, nhiều tín hữu từ Giêrusalem -tất nhiên gốc là Dothái giáo, đã thấm nhiễm tinh thần, luật lệ và các buổi phụng vụ Dothái- đến Antiôkia buộc các Kitô hữu gốc lương dân phải thi hành các luật lệ của ông Môsê, theo thói quen của Dothái giáo, làm các tín hữu tân tòng hoang mang, vì chẳng lẽ ơn cứu độ của Chúa Giêsu không giá trị bằng luật lệ của Cựu Ước? Nhiều cuộc tranh cãi đã nổ ra. Nhưng những bất đồng ý kiến, nếu không được hoà giải, sẽ đưa tới việc phân hoá Giáo Hội. Kinh nghiệm cho biết: Những đảng phái, phe nhóm do con người thiết lập, sẽ dễ dàng phân hoá, bất đồng ý kiến và phản bội nhau chỉ vì quyền lợi vật chất, địa vị, danh vọng trần thế như vậy. Rất may là các Tông Đồ đã gặp gỡ nhau, triệu tập công đồng đầu tiên trong Giáo Hội. Nhờ ngày phục sinh được Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã nhận ra vai trò và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: "Thánh Thần và chúng tôi quyết định..." (Cv 15,28). Chúa Thánh Thần đứng trước các Tông Đồ và chủ động việc hướng dẫn giúp đỡ các Tông Đồ. Chính nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã tránh được tình trạng đổ vỡ và ngày càng hiểu sâu hơn giáo huấn của Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã nói: "Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân Danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26). Tất cả mọi sinh hoạt trong Giáo Hội đều có bàn tay can thiệp của Chúa Thánh Thần. Chính vì vậy, đứng trước những nguy cơ mà Giáo Hội phải đương đầu, nếu sống trong đức tin, chúng ta sẽ luôn luôn khám phá ra được những dấu ấn hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa và bao giờ chúng ta cũng cảm nhận được bình an, đúng như lời Chúa hứa: "Thầy để lại bình an cho anh em" (14,27).
Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần của Người cho Giáo Hội. Chưa ai thấy Chúa Thánh Thần, nhưng qua những hiệu quả công việc của Người, chúng ta cảm nhận được Người luôn sống trong Giáo Hội. Chúa Giêsu đã từng nói với ông Nicôđêmô về hoạt động của Chúa Thánh Thần: "Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu" (3,8). Chúa Thánh Thần luôn hoạt động theo tự do của Người. Qua những sinh hoạt và tính tồn tại, phát triển của Giáo Hội, bất chấp các thế lực chống đối, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong Giáo Hội và qua Giáo Hội, Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong cuộc sống mỗi người, để ta luôn cảm nghiệm được bình an của Chúa.
40.Yêu Lời và giữ Lời - Lm. Anmai, CSsR
Là con người, ai cũng vậy, khi người thân mình đi xa thì thường để lại cho những người còn ở lại những lời trối trăn, những lời căn dặn. Những lời ấy càng có ý nghĩa, càng sâu sắc hơn khi người đó chính là người thương của mình, người mà mình yêu quý nhất.
Trong tâm tình đó, hôm nay, chúng ta được nghe Thánh Gioan thuật lại tâm tình hay nói đúng hơn là những lời trối trăn của Chúa Giêsu. Nơi Thánh Gioan, phải nói là có một tình cảm hết sức tuyệt vời với Thầy. Thánh Gioan đã ghi lại toàn bộ "diễn từ biệt ly". Diễn từ biệt ly gói ghém tâm tình của Thầy Chí Thánh Giêsu.
Trong tâm tình ấy, Chúa muốn các môn đệ Chúa Giêsu phải sống yêu thương như thế nào đối với nhau (13,34)? đối với Chúa Giêsu (14,15)? Tại sao "yêu thương" được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại tới 4 lần (cc 15.21.23.24)?
Các môn đệ phải sống yêu thương với nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ (13,34); họ phải yêu thương Chúa Giêsu bằng cách tuân giữ các giới răn của Ngài (14,15). Chúa Giêsu 4 lần nhắc tới yêu thương vì đây là điều răn quan trọng nhất và tiêu biểu nhất của Ngài.
Trong câu 31, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta thế nào? Gương yêu thương của Chúa Giêsu: làm đúng như ý Chúa Cha.
Với kinh nghiệm hết sức thực tế trong lịch sử cứu độ, qua lịch sử cứu độ chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của những con người không tuân hành thánh ý của Chúa Cha.
Khởi đầu Thánh Kinh, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ hết sức quen thuộc. Người nữ ấy có tên là Eva, bà là mẹ của chúng sinh. Mẹ của chúng sinh ấy nhưng bà có đủ ba đức tính để làm nên tội lỗi: thích ăn, nhẹ dạ và... tò mò. Trái Cấm ngon và kỳ diệu lắm! Đã là con người, ai chẳng muốn được ăn ngon? Và nếu như cái sự ăn đó sẽ đem đến cái vĩ hoàng tương tự như Thiên Chúa thì lại càng đáng để thử. Thích thử để biết cũng là một thuộc tính của cả loài người...
Vì muốn bằng Thiên Chúa nên Eva đã giơ tay hái trái cấm. Không chỉ mình mình ăn nhưng Evà còn "mời" chồng mình ăn nữa.
Kế tiếp, chắc chúng ta khó quên hình ảnh của một vị vua lừng danh đó là vua Đavít. Đavít: một kẻ phản bội, một kẻ dối trá, một người phạm tội ngoại tình, một tay giết người. Phạm tội ngoại tình với Bát Sêva. Đavít đã:
Giết Urigia chồng của Bát Sêva
Bất tuân lệnh Chúa khi thực hiện việc kiểm tra dân số
Không có thái độ cương quyết với các người con của mình
Cũng có người này người kia đến nhắc nhở nhưng Đavít đã bỏ ngoài tai những lời răn đe ấy. Vì bỏ ngoài tai lời của Thiên Chúa nên Đavít đã phạm tội.
Sang đến Tân Ước, chúng ta làm sao quên được hình ảnh của bà mẹ ông Giacôbê và Gioan. Đi theo Thầy, sống gần Thầy đấy nhưng mà lại xin chỗ nhất chỗ nhì.
Thánh Phêrô bi đát cũng chẳng kém. Khi Thầy báo trước con đường khổ nạn lên Giêrusalem thì lại cản Thầy. Kinh khủng hơn nữa là đã chối Thầy bây bẩy vì không nhớ lời Thầy dặn trong bàn tiệc. Thật sự ra cũng nhớ lời Thầy ấy nhưng mà yếu đuối, nhưng mà bị ngăn cản bởi con người mỏng dòn nên Phêrô đã chối Thầy.
Lược qua những hình ảnh, những con người hết sức thực tế trong cuộc sống, trong Thánh Kinh đã vì bất tuân, đã vì không nghe lời Chúa nên đã sa ngã, đã phạm tội.
Lời Chúa hết sức cần thiết cho cuộc đời mỗi người. Các thánh tông đồ tuy yếu đuối, tuy vấp ngã ấy nhưng sau khi có ơn Thánh của Chúa Phục Sinh cuộc đời của các tông đồ đã thay đổi. Các môn đệ đã mạnh dạn lên đường rao giảng Tin mừng. Không chỉ rao giảng một cách bình thường nhưng các ông rao giảng một cách mạnh mẽ: Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ. Các ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ.
Không dừng lại ở chuyện gay go mà các ông còn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận trong dân. Sau đó các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:
"Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."
Các tông đồ đã gửi đến cho họ những người cống hiến cuộc đời vì danh Chúa Giêsu. Những tông đồ này trước đây cũng nhát đảm nhưng chắc có lẽ nhớ lại lời của Thầy trong bàn Tiệc Ly chiều thứ Năm Thánh nên các ông can đảm để loan báo Tin mừng.
Lời của Thầy ắt hẳn vẫn còn văng vẳng bên tai của các tông đồ: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người "hiện diện", nhờ những kẻ yêu mến Người... Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.
Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy "vắng mặt" về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong nhung tình yêu nhân loại ta, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.
Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần:..."Thiên Chúa của bạn ở đâu?" (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Chúa Giêsu như một mô hình của nhân loại... người ta không chống đối Người điều gì... nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người... bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: "Tôi tin nhưng không hành đạo". Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa "người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Chúa Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa... cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ... Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.
Chúa Giêsu còn nói thêm: Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Chúa Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.
Khi Chúa Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ' lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là "không biết lắng nghe", không chịu nói năng. Ở đây Chúa Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Chúa Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Chúa Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn "sống động" sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động... có thể được "nhận biết" cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.
Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha ("Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy"), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.
Nghe và giữ lời Chúa hay không là quyền tự do của mỗi kitô hữu.
41.Dung mạo người Kitô – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá rồi sống lại, và trở về cùng Thiên Chúa Cha. Đoạn Phúc Âm của Chúa Nhật thứ 6 Phục Sinh được trích từ Phúc Âm theo thánh Gioan chương 14,23-29 là những lời căn dặn mô tả dung mạo người Kitô qua mọi thời đại. Người Kitô trước hết phải là người sống vì tình yêu Chúa Kitô, là kẻ yêu mến Chúa Kitô. Và vì tình yêu này không phải là một lời nói suông nhưng cần được diễn tả cụ thể bằng hành động, bằng việc tuân giữ những lời Chúa dạy, những mệnh lệnh, mà mệnh lệnh cao cả nhất gồm tóm mọi mệnh lệnh là mệnh lệnh sống tình yêu: "Như Thầy đã yêu thương các con, các con hãy biết yêu thương nhau". Tình yêu thương là khởi đầu cho cuộc sống con người trên phương diện tự nhiên cũng như trên phương diện siêu nhiên. Vì yêu thương, Chúa đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Chúa đã cứu chuộc con người. Thừa hưởng một thân phận yếu đuối bất toàn, con người khó thực hiện mệnh lệnh tình thương. Qua bao thế hệ, bao ngàn năm, đạo tình thương được loan truyền, thế mà thế giới ngày nay, với những hận thù, căng thẳng, vẫn còn xa với văn minh tình thương. Nền văn minh của hận thù, của sự trả thù, ghen ghét và lạm dụng lẫn nhau, xem ra càng ngày càng lan rộng, xem ra như chương trình của Thiên Chúa bị thất bại. Nhưng thái độ tốt của người Kitô có lẽ không phải là thái độ phán đoán chương trình hành động của Thiên Chúa mà là thái độ phó thác và cộng tác với ơn Chúa, với chương trình của Ngài. Người Kitô, khi yêu mến Chúa nồng nhiệt chắc chắn sẽ không cô đơn, nhưng có Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn: "Ta và Cha Ta, chúng ta sẽ đến ngự trong kẻ ấy". Đó là đặc điểm thứ hai của dung mạo người Kitô.
Ngày xưa, trong cuộc Xuất Hành khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đến cư ngụ với dân Ngài đã chọn. Dân Chúa rất quí trọng sự hiện diện này. Sau thời lưu đày, tiên tri Dacaria loan báo đến một thời Thiên Chúa tới cư ngụ một cách đặc biệt với dân Ngài. Qua cách nói xác quyết của Chúa Giêsu, các tông đồ ngày xưa đã hiểu và chúng ta ngày hôm nay cũng vậy, chúng ta hiểu là thời mới đó đã đến. Thiên Chúa đã không cư ngụ giữa dân mà còn cư ngụ trong tâm hồn mọi tín hữu, trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn các tín hữu yêu mến Ngài là một hồng ân rất quí và cũng rất dễ bị mất, mỗi lần chúng ta sống phản nghịch với mệnh lệnh yêu thương của Chúa. Vì thế, Chúa đã có lần dùng một hình ảnh khác, hình ảnh cây nho và ngành nho, vừa cảnh tỉnh, vừa kêu gọi các tông đồ hãy cố gắng sống kết hiệp với Ngài: "Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ngành nào kết hợp với thân cây sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Những ngành sinh hoa trái còn được Thiên Chúa cắt xén để sinh hoa trái nhiều hơn nữa". Việc Thiên Chúa cắt xén có thể hiểu như là tác động của Thiên Chúa huấn luyện hướng dẫn cuộc đời của mỗi người Kitô. Sự trưởng thành đời sống thiêng liêng không phải là một sự trưởng thành tự nhiên, như cành cây tự động lớn lên, nhưng là một sự triển nở được hướng dẫn cắt xén theo chương trình của người thợ xén, theo ý định của Thiên Chúa cho mỗi người. Không ai biết Thiên Chúa muốn cắt xén điều gì nơi cuộc đời mỗi người. Tốt hơn hết là chúng ta hãy dễ dãi, hãy sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa được mạc khải từ từ cho chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban xuống cho mỗi tín hữu, đó là đặc điểm thứ ba của dung mạo người Kitô. Là kẻ sống vâng phục theo Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và mạc khải sự thật. Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta đến sự thật và làm cho chúng ta hiểu được sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần và lòng can đảm để thực hiện mệnh lệnh tình thương của Chúa mọi nơi và mọi lúc.
42.Yêu mến ai? Giữ lời ai? - PM. Cao Huy Hoàng
"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy." (Ga 14,23)
Hẳn là Chúa Giêsu quá rõ về lòng dạ hay đổi thay của con người chúng ta: hôm nay nói yêu, ngày mai nói ghét; hôm nay theo Người, mai lại bỏ Người mà đi; hôm nay hứa thề, mai rồi nuốt trôi lời thề hứa… nên Ngài đã báo tin vui có Chúa Thánh Thần nâng đỡ chúng ta để bảo đảm cho một tương quan thật hoàn hảo giữa chúng ta với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chính Chúa Thánh Thần sẽ làm sống lại mọi Lời Đức Giêsu đã nói và hướng dẫn mỗi chúng ta thực hành cách trọn vẹn để ai giữ Lời Chúa Giêsu dạy sẽ được Thiên Chúa Cha yêu mến. Tâm hồn của người ấy trở nên cung vàng điện ngọc dành cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Yêu mến, lắng nghe và làm theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là sống như Lời Chúa dạy để đón nhận “Thiên Chúa ở cùng”, để ở cùng Thiên Chúa, đó chính là chìa khóa của sự bình an thật.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27).
Chúng ta đang sống những ngày đầy xao xuyến, kinh sợ
Thế giới văn minh hơn nhưng bất an hơn. Ngay trong xã hội gần nhất với chúng ta, chỗ nào cũng bất an cả.
Cha mẹ không an tâm khi học sinh đến trường để tiếp thu một nền giáo dục không Thiên Chúa.
Học sinh đến trường không an tâm vì nhà mình không đủ điều kiện chạy điểm.
Bệnh nhân đến bệnh viện cũng chẳng an tâm về đức hạnh của y bác sĩ thời đại vô thần.
Người đi chợ không an tâm về thực phẩm, rau quả càng múp càng tươi càng sợ vì chúng được sản xuất với ý đồ trong ngoài toa rập cho người ăn phải chết để tiêu diệt một dân tộc.
Các mặt hàng được sản xuất ở những nước chống Thiên Chúa càng đáng kinh sợ hơn.
Không dám tin sản phẩm nào an toàn, không dám tin chỗ nào có an ninh, không dám tin đất nước nào có hòa bình và kể cả việc không dám tin gia đình nào có bình an hạnh phúc trong một xã hội loài người đầy gian dối.
Vâng, làm sao khỏi xao xuyến khi cuộc sống đang có những nghịch lý thật lố bịch:
- Một đất nước mang tiếng là hoà bình nhưng hầu như ai cũng biết đó chỉ là hoà bình ảo trước nguy cơ mất nước, hoặc tất cả đã trong một kế hoạch… bán nước!
- Nhà cửa rộng ra lớn ra nhưng mái ấm hạnh phúc gia đình thì hẹp lại, teo tóp đến mức có khi là mất trắng!
- Điều kiện sống có khá hơn nhưng lòng quảng đại thì kém lại. Ngày xưa chia củ khoai sùng, bây giờ quên bạn bần cùng ngày xưa! Xưa người đi bộ, xa mấy cũng gần, nay xe bảy chỗ, gần mấy cũng xa!
- Phương tiện truyền thông rất hiện đại, nhưng để ca tụng Thiên Chúa thì ít, để loan truyền công lý, bảo vệ nhân quyền, loan truyền một nền văn minh thuộc về thượng giới thì bị cấm đoán nhưng để cổ xúy cho một cuộc sống hưởng thụ, duy vật chất quá tầm thường thì tràn lan, nhiễu nhương.
- Nhà Thờ rách nát thì đông người tham dự Thánh Lễ, đến khi xây cất mới khang trang thì ai nấy ở nhà xem tivi, nhậu nhẹt.
- Nhiều lễ nghi tôn giáo tổ chức “hoánh tráng” theo kiểu lễ hội ở đời nhưng Đức Tin của con người thì bán tín bán nghi hoặc chỉ nhất thời trong lễ hội, ra đến đường, về đến nhà là bay biến tiêu tan!
Tìm nguồn bình an thật
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27)
Lời Chúa hôm nay hứa ban bình an thật cho ai thành tâm yêu mến Chúa và sống theo Lời Chúa dạy.
Không thể có một xã hội bình an, một đất nước bình an, một gia đình bình an nếu không có những con người bình an.
Nếu hơn 8 triệu tín hữu ở Việt Nam này ai cũng sống với bình an thật của Chúa là “nghe và tuân giữ lời Chúa”, thì hẳn là một tín hiệu đáng mừng biết bao cho gia đình cho đất nước. Tiếc quá, con số tín hữu chỉ là 8 triệu, trong số đó, con số “nghe và giữ lời Chúa” thật sự liệu có nhiều hơn con số “nghe và giữ lời” của những người chống lại Thiên Chúa không? Khi được hỏi bạn “có yêu mến, nghe và thực hành lời của những người chống Chúa” ha không thì hẳn bạn sẽ trả lời ngay rằng: tôi không hề. Vậy, nếu hỏi lại, bạn có “yêu mến, nghe và thực hành Lời Chúa” hay không thì bạn sẽ trả lời ra sao?
Âm mưu thâm độc của Satan là làm cho mỗi chúng ta đổi chủ, đổi Chúa hồi nào không biết, đổi bình an thật lấy bình an giả lúc nào không hay, đổi hạnh phúc thật lấy hạnh phúc ảo cách êm ái nhẹ nhàng hồi nào không biết! Lời của Satan không được phép rao giảng tại Nhà Thờ nhưng nó lại được tuyên truyền quảng cáo nơi cuộc sống muôn màu hấp dẫn trước mắt chúng ta. Lời của của thế lực chống lại Nước Chúa không hề được công bố nơi Nhà Thờ nhưng lại được rêu rao, cổ vũ nơi những giá trị của quyền lực, của kinh tế, của giáo dục, rằng bất cần Thiên Chúa, con người cũng vẫn đạt hạnh phúc no đầy!
Không có lúc nào là muộn màng. Hãy sớm ngộ ra chúng ta đang bị cuốn vào cái bình an hạnh phúc hư ảo trong một xã hội dối trá, xã hội được hướng dẫn bởi Satan. Hãy thức tỉnh, trở về “yêu mến, nghe và giữ lời Chúa dạy” theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Yêu mến Chúa trên hết mọi sự hấp dẫn ở thế gian, nghe và chu toàn lệ luật Chúa dạy, đó là chìa khoá bình an cho mỗi người, cho gia đình, cho đất nước và cho cả thế giới.
Nguyện xin Chúa cho chúng con biết đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để biết Bình An thật của chúng con chỉ có được khi chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự và chu toàn lề luật Chúa nơi trần gian hôm nay.
43.Bình an của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Bình An là món quà quý báu nhất, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông Đồ và những người tin theo Chúa. Tâm hồn bình an thì luôn thanh thản, an hòa và vui tươi. Sự bình an đích thực chính là ân sủng của Chúa. Chúa chính là nguồn ơn bình an. Ngay khi Chúa giáng trần, các thiên thần đã đồng thanh ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2,14).
Rồi khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu căn dặn các ông: "vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "bình an cho nhà này". Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy, bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em" (Lc 10,5-6)
Và sau khi sống lại, mỗi lần hiện đến với các Tông Đồ, Chúa đều chúc bình an. Thánh Luca ghi lại: "các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "bình an cho anh em! “ (Lc 24,36). Rồi "tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "bình an cho anh em." (Ga 20,26).
Chính vì vậy trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).
Theo phong tục Do Thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an chứ không thể ban bình an, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an của Người.
Bình An, ở đây không phải chỉ là vắng bóng bạo hành, không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn và ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này, vì đó là phúc lộc cứu độ tuyệt vời nhất: “lúc đó, sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng“ (Tv 72, 7).
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến một sự bình an bên trong của con tim, sự bình an của con người với chính mình và với Thiên Chúa.
"Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng.“ (Ga 14, 27).
Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O'Shea, ông có một câu chuyện về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ, nhà vua nói: “trẫm quyết định một lần cho xong để biết ai trong hai là hoạ sĩ giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán quyết. Và đề tài là sự bình an”.
Hai hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ. Hoạ sĩ thứ nhất giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn đồi trập trùng bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói lên sự hài hòa, bình an và tĩnh lặng. Nhưng khi nhìn vào bức tranh, quay lại nói với hoạ sĩ, “bức tranh của khanh đẹp thật, nhưng nó làm ta buồn ngủ”.
Kế đó, hoạ sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của thác nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.
Nhà vua tức giận nói: “nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh”. Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Sau ít phút, nhà vua nhận ra một chi tiết quan trọng: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an thật hoàn hảo.
Nhà vua rất thích thú khi nhìn ra điều đó. Quay lại người hoạ sĩ thứ hai, ngài nói: “trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của cuộc sống”.
Đức Giêsu đã nói về sự Bình An của Chúa: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.
Bình An ở đây là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Vì thế, Người có thể nói về sự bình an cả khi các kẻ thù đang siết chặt vòng vây xung quanh Người và ngay cả gần kề cái chết.
Bình An, không xao xuyến không sợ hãi chính là sự tín thác vào Thiên Chúa. Đó là điều mà người ta có thể có cả khi ở giữa sự xáo trộn, xung đột và những vấn đề chưa giải quyết được. Đó chính là sự Bình An mà Chúa muốn nói với các môn đệ và cũng là nói với chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
Quả thật “Bình An” là một trong những từ đẹp nhất và giàu ý nghĩa nhất trong ngôn ngữ Kitô giáo. Bình An gồm hai khía cạnh tích cực và tiêu cực: không có xáo trộn và có một tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và con người. Bình an giữa con người với con người được bảo đảm nhờ công nghiệp Đức Kitô quy tụ mọi tín hữu thành gia đình của Thiên Chúa, và vào trong mối tương quan hài hòa với tha nhân.
Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, là Đấng Trung Gian của sự Bình An này, nên Người có thể gọi đó là sự Bình An của riêng mình: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em.” Không phải là thứ bình an giả tạo mà nhiều lần các ngôn sứ đã cảnh báo và Đức Giêsu đã từ chối đem xuống trên mặt đất nhưng là Bình An đích thực của Thiên Chúa, mà để ban cho thế gian, Đức Giêsu đã phải hy sinh chính mạng sống của mình.
Hiệu quả của ơn Bình An này là: các môn đệ không còn xao xuyến nữa, dù trước viễn tượng Đức Giêsu sẽ khuất dạng, hay trước nhiệm vụ đang chờ, chính họ sẽ là những người đem Tin Mừng cứu độ vào giữa lòng thế giới. Đây là lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ và cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam