Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 78

Tổng truy cập: 1365268

YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY YÊU

YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY YÊU

 

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đó là lệnh truyền, lời trăn trối, là di chúc của Chúa Giêsu. Đó là điều đảm bảo sự sống đời đời cho chúng ta là môn đệ bước theo Ngài.

Thật vậy, trong bữa tiệc ly, trước khi đi vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các Tông đồ và cho tất cả những người đi theo Chúa lời tâm huyết: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Đây còn là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!

Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ và là dấu chỉ cho mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.

Yêu thương nhau, đâu phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy. Người ta từng nói: bốn biển là anh em (tứ hải giai huynh đệ) hay Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.

Đối với Kitô giáo, yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu. Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là "tình anh em máu mủ", cũng không còn là "bản thân mình" nữa nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã bằng chứng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo léo khi so sánh: "Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu" (Ga15, 13). Hẳn thật đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh vào thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi con người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt Phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải "yêu thương anh em", yêu thương người khác "như chính Ngài đã yêu thương" mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.

Chính tình yêu thương vô vị lợi, bao dung này sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ của Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn của các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.

Trong cuộc sống hàng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến cuộc sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu tha nhân trong mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay danh xưng để chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám "liều mạng" để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta đối với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì: "người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau".

"Như thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau".

Vậy, ai không yêu thương nhau, người ây không xứng là người kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.

Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục sống đức tin, làm chứng về đức tin mà mình lãnh nhận từ khi lãnh bí tích Rửa Tội, đó là bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoàng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tối cao đã hy sinh tính mạng vì yêu thương chúng con. Chúa yêu chúng con và Chúa muốn chúng con hạnh phúc, được hạnh phúc đời đời với Chúa ngay khi còn sống ở đời này, xin cho chúng con biết sống đức tin chính là giữ lời Ngài truyền dạy, đó là yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng con. Amen.

 

12.Giáo Hội chia sẻ tình thương – Cố Lm Hồng Phúc

GIOAN phác họa bối cảnh của bài Phúc Âm hôm nay: căn nhà Tiệc ly nơi Chúa và các môn đệ dùng bữa cuối cùng. Bầu khí ngột ngạt vì Giuđa con người phản Thầy bán Chúa còn ở đó. Sau khi bị Thầy tế nhị vạch mặt, Giuđa đứng dậy bỏ ra. “Trời đã tối!” Chúa Giêsu như trút được khối nặng; tình thương không còn bị dày vò bởi phản bội, Ngài kêu lên: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển với Người”.

Giờ Ngài đã đến. Cả cuộc đời của Chúa đều hướng vọng về giờ này.

Giờ đau thương nhưng cũng là giờ vinh hiển. Giờ tử nạn nhưng cũng là giờ sống lại. Mầu nhiệm Thánh giá và mầu nhiệm khải hoàn vẫn gắn liền với nhau, mà chúng ta cùng tuyên xưng trong mỗi thánh lễ: “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi, con tuyên xưng Ngài đã sống lại, con mong đợi Ngài lại đến”.

Trong giờ quan trọng đó, giờ gặp gỡ để biệt ly: “Thầy chỉ còn ở với con ít nữa thôi”, Chúa Giêsu đã bộc lộ tâm hồn và ban cho các môn đệ luật Bác ái thương yêu.

Đây không phải chỉ là một răn giới chung như trong Cựu ước, mà là một lời di chúc: Giáo hội của Ngài phải là một Giáo hội chia sẻ Tình Thương.

Trong đêm Thứ Năm Thánh này, Ngài muốn rằng các môn đệ phải sống tinh thần tập thể mà mối giây liên lạc khăng khít là tình bác ái yêu thương như Ngài đã thương yêu họ. “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau”.

Mối tình ấy phản ảnh tình yêu Thiên Chúa, bắt nguồn từ Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con và tuôn chảy vào chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Càng sống mật thiết với Chúa thì càng biết thương yêu anh em, nhất là những người nghèo khổ.

Mẹ Têrêxa, Ấn độ nói với các tập sinh: “Chúng con đã được rước Chúa trong Thánh Thể, bây giờ hãy đi sờ đụng Chúa trong người nghèo khổ. Chúng ta là những người chiêm nghiệm trong hoạt động. Chúa không đòi chúng ta phải thành công, nhưng phải chung thành, yêu mến” (Messagère de l’Amour de Dieu – Edouard Le Joly).

Đức Bác ái không phải là một lời khuyên mà là một lệnh truyền, hơn nữa là một điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương nhau”. Chúa còn thêm rằng đây là một dấu chỉ: “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.

YÊU THƯƠNG anh em là sống tinh túy của Đạo. Có thể rằng trong vài đạo giáo có sự đọc kinh nhiều hơn đạo ta, như Hồi giáo với 5 lần kinh nguyện trong ngày hướng về La Mecca. Có thể có đạo giáo với sự hãm mình phạt xác, diệt dục nhiều hơn ta như Ấn-độ giáo. Nhưng cái đặc điểm Đạo thánh ta phải là Tình Yêu, “nhờ dấu ấy, người ta mới biết chúng con là đồ đệ Thầy”. Giáo hữu tiên khởi đã hiểu và đã thực thi bác ái đến độ mọi người chung quanh đều kêu lên: “Kìa xem họ thương yêu nhau”.

Ngày nay, những người chung quanh ta, những “dân ngoại” của thời đại có quan niệm về chúng ta như vậy không

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con.

 

13.Ai yêu thương đều là Kitô hữu

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Suy niệm Ga 13: 31-35 Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại.

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêxa thành Calcutta tiến lại gần một người, người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một bà lão. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêxa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy tình thương yêu.

Người đàn bà đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêxa bằng một giọng thều thào: "Tại sao bà lại làm như thế?"

Mẹ Têrêxa trả lời:

"Bởi vì tôi rất yêu mến bà…"

Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất từ tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.

"Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!"

"Tôi rất yêu mến bà", Mẹ Têrêxa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.

"Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà!"

Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêxa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời nầy…

Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêxa đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta - "Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta" - Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau". Lời di chúc của người sắp ra đi thật là trang trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã khẳng định đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!

Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.

Nhưng, thưa anh chị em, yêu thương nhau, đâu phải chỉ có kitô giáo mới giảng dạy. Văn hóa Á Đông đã từng nêu châm ngôn: "Tứ hải giai huynh đệ": bốn biển là anh em. Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.

Vậy thì giới răn yêu thương của kitô giáo có đem đến cái gì mới mẻ hơn chăng?

Chỉ dựa vào lời di chúc của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn, chúng ta đã tìm ra được nét độc đáo và đặc thù của tình yêu kitô giáo. Đó là yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu.

Nét mới mẻ của tình yêu kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là "tình anh em máu mủ", cũng không còn là "bản thân mình" nữa. Mẫu mực, thước đo của tình yêu kitô giáo là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo so sánh: "Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu" (Ga 15,13).

Đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi con người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó, phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt Phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.

Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là Tình Yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc sống hằng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta cũng vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình yêu tha nhân trong một mức độ nào đó, để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám "liều mạng" để chỉ khẳng định chân tính kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, có thể là Linh mục chánh hay phó xứ, có thể là một anh chị em trong cộng đoàn, có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái lý luận trần tục: người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì, về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì "người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau". "Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau". Vậy, ai không yêu thương nhau, người ấy không phải là kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là Tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.

Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoảng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.

 

14.Suy niệm của Lm. GB. Hiếu

NHẬP LỄ

Có thể nói: Trong cuộc sống, Tình Yêu vừa là Cùng Đích vừa là Động Lực thúc đẩy con người. Tình Yêu vừa chiếm vị trí quan trọng trong tương giao với người khác, vừa là cách hoà hợp cho con người hạnh phúc trong Thiên Chúa.

- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban cho chúng con đức tin / tin nhận Chúa trong cuộc đời chúng con. (Xin Chúa thương xót...)

- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã đổi mới mọi sự, dọn sẵn trời mới đất mới cho chúng con. (Xin Chúa Kitô thương xót...)

- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa muốn kiện toàn tình yêu chúng con nên giống Tình Yêu của Chúa. (Xin Chúa thương xót...)

GIẢNG

Nói theo Thánh Gioan: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8b) thì Tình Yêu đã có cùng với Thiên Chúa. Chính từ Tình Yêu của Thiên Chúa và con người được chia sẻ Tình Yêu ấy, nên Tình Yêu cùng đồng hành và đi vào cuộc sống con người. Ông Ađam được Thiên Chúa ban cho quyền làm chủ mọi loài Thiên Chúa đã dựng nên. Thiên Chúa dẫn chúng đến với ông Ađam, để hễ ông đặt tên cho nó là gì thì nó là thế. Nhưng ông Ađam vẫn "không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng" (St 2,20b), đến nỗi Thiên Chúa phải "lấy cái xương sườn" của ông, để tạo sinh bà Evà và dẫn bà đến với ông. Cho đến giây phút này, ông Ađam mới reo vui lên: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" (2,23a). Tình Yêu đã làm cho cuộc sống gia đình có hương vị. Một thi sĩ viết: "Yêu chẳng phải là chương trình định sẵn, nhưng là phút giây làm sáng cả lòng ta" (De Belloy, câu 23, Danh ngôn Tình Yêu, Nxb Đồng Nai 1995). Không có Tình Yêu, cuộc đời quả là bóng tối. Bởi thế, người Á Đông cũng đã nói: "Tứ hải giai huynh đệ" -bốn bể cùng là anh em, hay "Thương người như thể thương thân", luật Dothái nói: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18b).

Nếu Tình Yêu là vấn đề muôn thuở và mọi người đều được dạy dỗ phải yêu thương, thì tại sao hôm nay Chúa Giêsu lại tuyên bố với các môn đệ: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 13,34a)? Tình Yêu Chúa Giêsu mới ở điểm nào? Phải đọc thêm câu nói của Chúa, chúng ta mới có thể thấy được tính chất đó: "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (13,34b). Người ta nói "tứ hải giai huynh đệ", nhưng dường như người ta chỉ xem như anh em những ai theo phe cánh, ủng hộ ý kiến, cách làm ăn của họ; cùng lắm, vì người đó là đồng hương, đồng liêu, đồng môn... y như người Do thái chỉ xem là anh em những ai đồng tộc, đồng tôn giáo; cho nên mới có yêu nhau "như chính mình", "thương người như thể thương thân". Nghĩa là tình yêu được ban ra, nhưng thực chất vẫn là quy về chính mình: "bánh ích đi, bánh quy lại". Như vậy, tính chất mới mẻ trong Tình Yêu của Chúa Giêsu không quy về mẫu mực tình ruột thịt hay bản thân mình, nhưng quy về mẫu gương của chính Chúa -"như Thầy đã yêu thương anh em".

Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã không ngừng trao ban Tình Yêu. Người yêu thương cho đến cùng: "Không ai có Tình Thương lớn hơn Tình Thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (15,13). Người ta có thể chết vì người lành, không ai dám chết vì người tội lỗi. Thế mà Chúa Giêsu đã chết cho mọi người, mà mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa! Chúa Giêsu yêu thương là để thể hiện Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, một Tình Yêu phổ quát, vô vị lợi; một Tình Yêu làm dấu chứng sống động Thiên Chúa đang hiện diện. Bởi đó, Chúa Giêsu cũng mong ước các môn đệ của Người thể hiện Tình Yêu sao cho người khác cảm nhận được Thiên Chúa đang hiện diện bên họ và nhờ đó: "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng thương nhau" (13,35). Như thế tính chất Tình Yêu nơi Chúa Giêsu không chỉ là nhu cầu đáp ứng tình cảm thụ ơn "có qua có lại mới toại lòng nhau", nhưng còn là cách thế để Thiên Chúa bày tỏ quyền năng hiện diện của Người. Con người được Thiên Chúa sinh ra để sống cho Thiên Chúa và sống quy về Thiên Chúa. Nói cách khác: Con người được tạo dựng trong Tình Yêu của Thiên Chúa và được hướng dẫn sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc đích thật và tuyệt đối của con người.

Thế nhưng, trong thực tế, cuộc sống không đơn giản! Nhiều khi ngay trong gia đình -nghĩa là giữa những người thân ruột thịt- Tình Yêu vẫn vắng bóng! Tình Yêu vẫn chưa là dấu chứng Thiên Chúa hiện diện! Chúng ta vẫn lấy lẽ "hòn đất ném đi, hòn chì ném lại", người ta đối xử với tôi thế nào, tôi sẽ đối xử lại như vậy, "mắt đền mắt, răng đền răng". Quan hệ cư xử của chúng ta còn mang nặng tính vụ lợi, hơn thua vật chất, chẳng những đã không nói lên được niềm tin vào Thiên Chúa, trái lại còn là lối sống phản chứng, khiến người khác tránh xa Thiên Chúa! Như thế không phải là phá Đạo, là chối Đạo sao?

"Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em". Đó không chỉ là lời khuyên của Chúa Giêsu với các môn đệ nữa, nhưng còn là lý tưởng mục đích cuộc sống chúng ta; bởi vì chỉ có sống Tình Yêu như Chúa Giêsu là phổ quát, là vô vị lợi, chúng ta mới tìm được và đạt được hạnh phúc đích thật cho chính mình.

Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Thiên Chúa. Xin Người đổ tràn Tình Yêu của Người xuống lòng chúng con, giúp chúng con sống điều răn Yêu Thương mới của Chúa Giêsu cho xứng danh môn đệ Chúa hơn.

 

15.Giới luật yêu thương

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Chủ Ðề: Giới luật yêu thương

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Yêu thương là dấu chỉ cho người ta nhận biết các môn đệ của Chúa. Vì thế có thể nói khuyết điểm lớn nhất của người tín hữu là không yêu thương.

Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ.

II. Gợi ý sám hối

Vì chúng con còn ghét một số người, xin Chúa tha tội chúng con.

Vì chúng con vui mừng khi thấy những người chúng con ghét phải chịu đau khổ, xin Chúa tha tội chúng con.

Vì chúng con không cố gắng hòa giải với những người va chạm với chúng con, xin Chúa tha tội chúng con.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Cv 14,21-27)

Mặc dù là những nhà truyền giáo, nhưng Phaolô và Barnaba không chỉ lo rao giảng Tin Mừng cho những nơi mới. Thỉnh thoảng hai vị làm một chuyến thăm mục vụ ở những giáo đoàn cũ. Việc này ngày nay được gọi là "tái truyền giáo".

Tái truyền giáo của hai vị gồm: (1) Củng cố tinh thần kitô hữu; (2) Củng cố cơ cấu nhân sự ở những giáo đoàn ấy.

2. Tin Mừng (Ga 13,31-35)

Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 2 chi tiết đáng lưu ý:

1. Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực hiện ý muốn Chúa Cha.

2. Trước lúc bước vào con đường thập giá, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài: "Chúng con hãy yêu thương nhau... Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau".

3. Bài đọc II (Kh 21,1-5)

Thị kiến về thành Giêrusalem mới:

Thành này từ trời xuống

Là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại

Trong thành Giêrusalem mới này, sẽ không còn sự chết, tang tóc và khổ đau.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Yêu thương kiểu mới

Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện Thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ân ái. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.

Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình: tình của Alexandre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn,: còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexandre là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Foretti là thứ tình yêu kiểu mới.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.

Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới?

Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét,: thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất.

Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào? Có vài chi tiết trong bài phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa:

Chi tiết thứ nhất là câu "Khi Giuđa đi rồi": Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.

Chi tiết thứ hai là câu "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy": nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.

Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.

Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexandre là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexandre chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexandre.

Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn "Thầy ban cho chúng con một giới răn mới".

Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao? Có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau:

là làm hòa với những kẻ ghét mình

là cầu nguyện cho kẻ ghét mình

là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.

Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

* 2. Như thầy đã yêu (Ga 13,31-33a. 34-35)

Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.

Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.

Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.

Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ:

- Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy?

Chị đáp:

- Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa?

- Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao?

- Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.

***

Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).

Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.

Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như "Bạn hữu thân tình".

Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là "Yêu cho đến cùng", yêu cho đến chết và chết trên thập giá.

Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu "Như Thầy đã yêu".

Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.

Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám quên mình, "bắt chước" Thầy, cúi xuống trước anh em.

Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng "mức độ" như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.

Như vậy, yêu "Như Thầy đã yêu" không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.

Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.

Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).

***

Lạy Chúa. nếu đồng phục của người Ki tô hữu là yêu thương thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.

Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc)

* 3. Yêu thương người ruột thịt

Khi đề cập đến giới luật yêu thương, người ta thường nói tới việc yêu thương những người tội lỗi, những người nghèo, những kẻ thù v.v. Thế nhưng có một hạng người cần yêu thương hơn mà na ta hay quên, đó là chính những người ruột thịt.

Có một người đã viết lên những lời cầu nguyện như thế này: "Chúa ơi, tình chị em con rộng rãi bao la như chiếc lá me, như cái bánh cam buổi chiều. Buồn quá Chúa ơi. Giờ này con mới thấy rõ bộ mặt thật não nề!" Lời cầu nguyện này cũng là một tâm sự, một nhận xét, một thú nhận thật là chua chát. Có những người theo lẽ tự nhiên thì rất dễ thương nhau, nhưng trong thực tế thì lại rất ghét nhau. Đó là những người ruột thịt sống chung với nhau hằng ngày!

Khi còn nhỏ, anh chị em ruộït thịt một nhà sống với ngay thật là thân thiết yêu thương: ăn chung, chơi chung, đi học chung, ngủ chung... Cuộc sống thật thoải mái, nhưng tới khi những anh chị em này đã lớn, mỗi người đã có nghề nghiệp riêng, tiền bạc riêng, quyền lợi riêng, gia đình riêng thì tình nghĩa lợt lạt dần, có khi còn thù ghét nhau nữa. Có một người kia thành thật nhìn nhận rằng: "Người mà tôi thù ghét nhất, đó là... chị tôi!". Đó là một thực tế, thực tế không phải chỉ đối với một vài người nào đó, mà có lẽ đối với rất nhiều người.

Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích cái thực tế phủ phàng đó, như tại tuổi hai người xung khắc nhau, như tại cha mẹ cư xử không đồng đều với con cái. v.v. Tuy nhiên, những lý do đó không đúng, có thể còn mê tín dị đoan nữa. Lý do thật của tình trạng anh chị em ruột thịt không thương nhau lại thù ghét nhau là: Ganh ghét và thụ động.

Thứ nhất: ganh ghét. Hai anh em trong Thánh Kinh đã thù ghét nhau là Cain và Abilê. Và lý do thì rõ ràng là ganh ghét: Cain đã ganh với Abilê vì cậu em này chăm chỉ hơn mình nên làm ăn thành công hơn, hiếu thảo hơn mình nên được lòng cha mẹ hơn, đạo đức hơn mình nên được Chúa ban ơn nhiều hơn. Tình trạng bất hoà giữa nhiều anh chị em ruột thịt cũng cùng một lý do đó. Vì nó học giỏi hơn, vì nó đẹp hơn, vì nó có tiền hơn, vì nó được người ta thương mến hơn... khiến tôi bực bội khó chịu và từ đó hay kiếm chuyện gây gỗ. Ganh ghét là lý do chính. Tuy nhiên cần phải lưu ý đến khía cạnh tâm lý này: bởi vì chúng ta đều biết ganh ghét là một tính xấu cho nên ít ai chịu nhận mình có tính ganh ghét cả. Trong khi phân tích tình trạng bất hoà giữa anh chị em, ai ai cũng dễ dàng và mau mắn nhận rằng anh chị em đã ganh ghét mình, nhưng rất ít người chịu nhận mình ganh ghét anh chị em.

Lý do thứ hai là thụ động. Thụ động muốn nói đây không có nghĩa là mình không làm gì cả. Thực tế người ta rất tích cực và làm rất nhiều, nào là chê bai, nào là chửi bới, nào là nói xấu, nào là phá ngầm... Thụ động muốn nói đây là không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Nói khác đi, mình muốn hưởng mà không chịu làm. Sống chung trong nhà, mình chỉ lo cho mình chứ không lo cho ai cả rồi khi thấy anh chị em không giúp đỡ mình, không ủi an mình, không nâng đỡ mình thì mình tức tối bực bội và kiếm chuyện gây gỗ. Ở đây cũng có một nhận xét này chúng ta cần lưu ý: là người nào hay quên mình để lo lắng cho anh chị em thì người đó rất ít thắc mắc, ít đặt vấn đề. Ngược lại kẻ nào chỉ thụ động chờ anh chị em lo lắng phục vụ mình thì kẻ ấy lại thường khó chịu, cự nự, gây chuyện nhiều nhất.

Trên đây là hai lý do giải thích tình trạng anh chị em ruột thịt bất hoà với nhau: một là tính ganh ghét, hai là tính thụ động chỉ đòi người ta lo cho mình trong khi mình không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Thấy được hai lý do đó thì đương nhiên ta thấy được giải pháp của vấn đề. Làm thế nào để anh chị em ruột thịt thương yêu nhau? Thưa ai cũng phải biết nâng đỡ nhau. Tục ngữ ta có câu "Chị ngã em nâng". Đó là những anh chị em thương yêu nhau thật sự. Còn những anh chị em không thương yêu nhau thì "Chị ngã, em dửng dưng đứng nhìn, hoặc tệ hơn nữa chị ngã mà em khoái chí!

Nhưng cụ thể, nâng đỡ như thế nào?

- Trước hết là nâng đỡ khi thành công. Nhưng khi thành công thì cần gì nâng đỡ? Ta dễ nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không như vậy. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có sẵn tính ganh ghét mặc dù mình không muốn nhìn nhận. Sự thành công của người khác có thể gợi lên trong ta cái tính ganh ghét nằm sẵn đó. Cho nên khi anh chị em ta thành công mà ta biết nâng đỡ bằng cách chia vui, chúc mừng, khích lệ thì đương nhiên là ta đã loại bỏ không cho tính ganh ghét trỗi dậy.

- Sự nâng đỡ càng cần thiết hơn khi anh chị em mình thất bại. Người thất bại thì dĩ nhiên phải đau buồn. Đau buồn thì cần người an ủi, đỡ nâng. Cần mà không gặp thì cô đơn chua xót. Nếu đã không gặp được nâng đỡ mà lại còn thấy anh chị em vui mừng hỉ hả vì thất bại của mình thì chẳng những cô đơn chua xót mà còn thêm đắng cay, hận thù. Có một người lâm vào tình cảnh đắng cay như thế đã than: "Lúc này tôi hoàn toàn cô độc. Buồn một mình, khổ một mình, khóc một mình. Tôi chỉ thấy có một vật có thiện cảm với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế thôi". Cái tâm trạng chán chường cay đắng vì thiếu nâng đỡ ấy dễ đưa người ta tới chỗ sa sút tinh thần, như có người nhận xét: Ít có người đã tự tử vì không chịu nỗi những đau đớn thân xác. Nhưng hầu hết các người tự tử vì không chịu nỗi đau khổ trong tâm hồn. Và có những người trong anh chị em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử phần hồn. Tự tử phần hồn là gì? Là sa đọa, là bất cần, là nổi loạn làm cho gia đình tan nát, làm cho tình nghĩa anh chị em ruột thịt đổ vỡ.

Một vị thánh đã nói "Yêu thương phải bắt đầu từ những người thân rồi mới lan xa tới những người khác". Những người thân mà chúng ta đề cập nãy giờ chính là anh chị em ruột thịt của mình.

* 4. "Cứ dấu này mà người ta nhận biết..."

Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn. Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và cũng lớn không thua kém gì các cây khác.

Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi:

- Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá!

Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại:

- Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm...

- Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng.

- Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi.

Ông chủ giải thích:

- Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn. Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quý giá nơi mi. Thế mà mi chưa sinh ra dược trái nào cả!

Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người ta thấy nó có trái. Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau.

Nhiều kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau!

Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói: "Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla". Mẹ Têrêsa đáp: "Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa" (FM)

* 5. Sức mạnh của yêu thương

Kể về kinh nghiệm lúc ở trại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel nói: những người cai tù Đức cố gắng làm cho các tù nhân quên hết bà con và bạn bè, để chỉ nghĩ tới bản thân và chỉ lo cho nhu cầu bản thân mà thôi. Họ nói rằng đó là cách để sống còn. Nhưng Wiesel thấy ngược lại: người nào chỉ biết sống cho mình thì cơ may sống sót rất ít, trái lại người nào còn nghĩ tới gia đình, bạn bè, thân thuộc, hay còn nuôi một lý tưởng thì cơ may sống sót nhiều hơn. Chính những ý tưởng yêu thương ấy đã giúp họ sống.

Tính vị kỷ khép cửa lòng ta lại và thu hẹp thế giới của ta, giam hãm ta. Nó dựng lên những rào cản, thậm chí những bức tường ngăn cách ta với tha nhân. Điều giải thoát ta khỏi sự giam hãm ấy chính là tình yêu thương thực sự và sâu đậm của ta đối với người khác.

Tình yêu luôn đòi hỏi chúng ta phải cho đi điều tốt nhất và tình yêu cũng mang điều tốt nhất lại cho ta. Khi được yêu, ta có được can đảm và nghị lực phi thường. Khi yêu cũng thế. Nhiều khi tình yêu còn làm được những điều như phép lạ. Elizabeth Kubler Ross viết: "Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm cho cõi lòng, tăng cường nghị lực cho tinh thần và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống".

Nếu không có tình yêu thì người ta sẽ ra sao? Thưa người ta sẽ sống rất nghèo nàn. Còn người yêu thương thì sống rất phong phú.

Mục đích cuộc đời là gì nếu không phải là yêu? Tự do không bị trói buộc trong tính vị kỷ và có khả năng yêu thương tha nhân, đó chính là sống.

Một bác sĩ đã chứng kiến nhiều người hấp hối cho biết: lúc sắp chết, người ta không nghĩ đến mình đã đậu được những bằng cấp gì, đã chiếm được địa vị nào trong xã hội, hay đã kiến được bao nhiêu tiền... Điều duy nhất những người ấy nghĩ đến, đó là những người họ yêu và những người yêu họ. (FM)

* 6. Những loại tình yêu

Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những việc chúng ta làm.

Yêu thương chẳng hạn. Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại:

Thứ nhất là tình yêu vụ lợi: ta yêu thương người nào đó vì người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ. Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.

Thứ hai là tình yêu lãng mạn: chúng ta có tình cảm với người nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.

Thứ ba là tình yêu "dân chủ", dựa trên sự bình đẳng trước pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt cho ta.

Thứ tư là tình yêu nhân bản: đây là yêu người cách chung. Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể: tôi yêu người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.

Thứ năm là tình yêu kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu. Đây là tình yêu vô vụ lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói cách khác, ta mong "được người yêu" hơn là "yêu người". Vì nghĩ thế nên ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ... Kết quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta. Trái lại nếu ta "yêu người" thì người sẽ yêu ta vì chính con người của ta.

Có 3 tình trạng yêu thương: (1) Không yêu và không được yêu: tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này; (2) Yêu mà không được yêu lại: tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ nhất; (3) Yêu và được yêu: đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa Giêsu:"Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con".

Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu. Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình. (FM)

* 7. Chuyện minh họa

Có hai anh em nhà kia: người anh tên Stephen 12 tuổi có một chân què; người em tên Mark 10 tuổi cả hai chân đều mạnh khoẻ. Nhiều khi Stephen ganh tị với em, thậm chí còn muốn em mình què còn mình thì đủ hai chân mạnh khoẻ.

Một đêm kia Stephen nằm mơ thấy mình lạc vào một khu rừng và gặp một bà phù thuỷ. Bà này ban cho cậu một điều ước, ước gì được nấy. Stephen chẳng chút do dự ước ngay: "Ước gì tôi có đôi chân mạnh khoẻ". Bà phù thuỷ liền mang Stephan từ khu rừng trở lại nhà cậu. Khi ấy Mark em cậu đang ngủ. Bà phù thuỷ giở tấm mền của Mark ra. Stephen hỏi:

- Bà làm gì thế?

Phù thuỷ đáp:

- Ta sắp giải phẫu, lấy đôi chân của em cậu sang cho cậu và rồi lấy đôi chân của cậu cho nó.

- Không thể được.

- Có sao đâu, khi tỉnh dậy em cậu sẽ chẳng biết gì hết. Nó cứ tưởng là từ trước tới nay nó vẫn có một chiếc chân què.

Stephen thoáng nghĩ đến tương lai. Cậu thấy mình chạy giỡn thoải mái với đôi chân lành. Cậu rất sung sướng. Nhưng khi nhìn lại phía sau thì thấy Mark khổ sở chạy theo với một cái chân khập khiễng thì Cậu không chịu được. Khi ấy cậu nói với bà phù thuỷ: "Tôi không muốn có đôi chân lành lặn nữa."

Giật mình thức dậy, Stephan nhìn xuống đôi chân của mình, rồi nhìn sang đôi chân của em. Thấy mọi sự vẫn như cũ, cậu mỉm cười sung sướng. Từ đó trở đi, không khi nào cậu còn ganh tị với em nữa.

Stephan muốn sung sướng, nhưng không phải bằng cái giá là sự đau khổ của em mình. Hạnh phúc thật chỉ được xây dựng bằng một tình yêu không vị kỷ. Yêu thương ai là dặt người ấy lên hàng đầu. (FM)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, di chúc của Chúa Giêsu gồm tóm trong một câu: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Với quyết tâm sống theo điều răn mới của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:

1. Hội thánh có một bí quyết hết sức hữu hiệu để phản đối sự độc ác của con người / đó là bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết cố gắng tận dụng bí quyết này trong đời sống chứng nhân của mình.

2. Hiện nay / chiến tranh / hận thù / khủng bố / kỳ thị chủng tộc / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Thánh thần Tình yêu tác động đến lòng trí con người hôm nay / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.

3. Lòng bác ái thì nhẫn nhục / hiền hậu / không ghen tương / không vênh vang / không tự đắc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu / biết sống theo lời dạy của thánh Phaolô tông đồ.

4. Lòng bác ái tha thứ tất cả / tin tưởng tất cả / hy vọng tất cả / chịu đựng tất cả / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cố gắng thực hiện lời khuyên nhủ của vị tông đồ dân ngoại.

Chủ tế: Lạy Chúa, thánh Phaolô đã dạy chúng con: Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn điều răn mến Chúa yêu người. Chúng con cầu xin

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là con của cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta biết yêu thương nhau như những người anh chị em ruột thịt.

VII. Giải tán

Anh chị em hãy ghi nhớ lời Chúa dạy hôm nay: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".

home Mục lục Lưu trữ