Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1378700

"KHÔNG AI CÓ THỂ CƯỚP"

“Không ai có thể cướp…”

(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

 

Linh mục Mike Judge, tên thật là Robert Emmet Judge, là một trong số đông lính cứu hỏa đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ ngày 11.9.2001, lúc tòa nhà tháp đôi Trung tâm Thương mại New York bị những chiếc máy bay của những kẻ khủng bố tấn công.

Là tu sĩ dòng Phanxicô, kể từ sau khi chịu chức linh mục ngày 25.2.1961 lúc 28 tuổi, linh mục Mike Judge đã được mời gọi trong nhiều trọng trách khác nhau ở New York. Dù trọng trách nào, dù khó khăn cách mấy, cha đều ra sức chu toàn nhiệm vụ cách hoàn hảo. Người ta thấy cha thường xuyên giúp đỡ những người khốn khó, những người thiếu nơi ăn chốn ở, những di dân, những người bệnh tật, những người gặp nạn… Cả những người nghiện ngập cũng được cha yêu thương đón nhận…

Tuy phải bận bịu với bao việc bác ái hằng ngày, cha vẫn không quên cầu nguyện, hăng say thực hành tất cả các nghĩa vụ thiêng liêng của một linh mục để thánh hóa bản thân. Cha gắn bó với Chúa bằng một tấm lòng tận tụy, chu đáo tuân giữ luật dòng, và tận hiến mình hoàn toàn trong sự vâng phục Bề trên. Những ai đã từng tiếp xúc, chuyện trò với cha, đều cảm nhận cha là người khiêm tốn, dễ gần gũi. Người ta cũng nhận thấy, nơi cha toát ra một sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa mà không phải ai cũng có thể có…

Năm 1992, cha được chỉ định làm tuyên úy cho lính cứu hỏa New York. Cha đã dành nhiều thời giờ đến với từng người lính cứu hỏa và gia đình họ, không phải chỉ như một vị tuyên úy; nhưng còn như người bạn và ân nhân của họ; giúp đỡ họ bất cứ lúc nào khi họ cần đến cha với tất cả tình yêu thương.

Sáng ngày 11.9.2001, ngay khi những chiếc máy bay đâm vào tòa Tháp Đôi, cha đã cùng hàng trăm lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà đang cháy và sắp sụp đổ, để cứu các nạn nhân, để giải tội, để ban bí tích xức dầu và các nghi thức cuối cùng cho lính cứu hỏa và những người Công Giáo đang hấp hối. Nhưng khi cha đang thi hành trách vụ, thì tòa nhà sụp đổ, gạch đá đập xuống đầu cha. Cha đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ Thánh Chức của mình.

Dù biết rằng, việc xông vào tòa nhà đang bị cháy là nguy hiểm vô cùng, nhưng vì trên ba ngàn con người còn kẹt lại trong tòa nhà, đã khiến cha và nhiều lính cứu hỏa bất chấp mạng sống mình, đặt nhiệm vụ cứu người bị nạn lên hàng ưu tiên. Thế nên mấy trăm lính cứu hoả và linh mục Judge vẫn anh dũng lao vào bên trong toà Tháp Đôi…

Như Chúa Giêsu khẳng định: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Và để bảo vệ đàn chiên mà Chúa Cha trao cho mình, Chúa Giêsu quyết bảo vệ đến cùng. Người đã chọn lựa: thà hy sinh chính mình, hy sinh cả mạng sống, miễn sao đàn chiên không bao giờ hư mất, không bao giờ rời khỏi tay mình. Tình yêu tuyệt đối dành cho trần thế, đã đưa Chúa Giêsu đi đến hiến dâng cuộc đời, hiến dâng mạng sống. Chính trong sự hiến dâng như của lễ đền tội thay cho cả trần thế, hiến lễ của Chúa Giêsu đã được Chúa Cha đón nhận. Chúa Cha đã làm cho cuộc hiến dâng của Chúa Giêsu nên hiệu lực cứu độ, mang lại kết quả cứu độ mãnh liệt, đời đời, cho từng con người trong trần thế không trừ ai. Hiệu lực cứu độ ấy đã được Chúa Cha làm cho dồi dào và trào tràn đến nỗi không có bất cứ điều gì có thể sánh bằng. Nhờ hiệu lực cứu độ này, Chúa Cha đã tha thứ và luôn ban ơn để bảo vệ và gìn giữ tất cả chúng ta là đoàn chiên mà Chúa Giêsu luôn yêu quý. Cũng chính trong hiệu lực cứu độ do chính mình gây nên và được Chúa Cha đón nhận, Chúa Giêsu hoàn tất và hiện thực hóa điều mà Người đã từng tuyên bố, đó là bảo vệ chúng ta trọn vẹn đến nỗi: “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.

Tình yêu mà Chúa Kitô yêu con người luôn hiện hữu trong cha Mike Judge. “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Dù chủ nghĩa khủng bố và tội ác khủng bố, dù ngọn lửa hiễm độc, dù tòa nhà cao ngất kia có thể nhẫn tâm chôn vùi hàng ngàn con người, nhưng cha quyết không để người bị nạn trong căn nhà kia chết mà thiếu vắng ơn Chúa, thiếu vắng hình bóng của linh mục. Vì thế, giữa những đớn đau tàn khốc, cha quyết xông vào để cứu sống linh hồn con người. Cha đã thực hiện chính hành động cứu sống ơn cứu độ của con người như Chúa Giêsu, để dù các nạn nhân có chết thân xác, linh hồn họ vẫn lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ. Chính cha, trong giờ phút lâm nguy, đã noi gương Chúa Kitô, quyết không để bất cứ thế lực nào “có thể cướp được” linh hồn con người…

Tình yêu dành cho Chúa Giêsu và tình yêu đối với con người biến cha trở thành người hành động. Tình yêu ấy lôi cuốn cha đến nỗi cha không còn nghĩ cho mình mà chỉ nghĩ đến những con người mắc nạn và những con người đang thi hành nhiệm vụ trong tòa nhà ngùn ngụt lửa. Tình yêu ấy dẫn cha đến trước vực thẳm nguy hiểm nhưng vẫn băng mình cho sứ vụ tròn đầy. Tình yêu ấy chính là sức mạnh giúp cha hiểu rằng Chúa Giêsu đang chờ đợi cha nơi những con người đau khổ đang trên bờ sự chết. Tình yêu ấy thúc bách cha xả thân cứu người như chính Chúa Giêsu hy sinh cho trần thế.

Cái chết trong nhiệm vụ và cho Thánh Chức của cha đã nói cho chúng ta: Linh mục Mike Judge là mục tử tốt lành. Tấm gương bình an đón nhận hiểm nguy và sự chết của cha đáng để các mục tử noi theo. Cha chết, nhưng gương hy sinh ấy sống mãi trong lòng dân Mỹ và nhiều người thiện chí trên khắp thế giới…

Trong ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những ai sống đời ơn gọi nói chung, và cầu nguyện cho các linh mục nói riêng, phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ, biết thương cảm, biết hy sinh quên mình, nhất là biết lao mình trong mọi nơi, mọi lúc, bất chấp bản thân để hy sinh vì ơn cứu độ của mọi người.

Chúng ta cũng luôn cầu xin cho các mục tử hết lòng thao thức và sống chết cho sứ mạng, để nếu có ai kém cõi trong đức tin, ngài biết nâng đỡ, nhũ khuyên; ai khổ đau gặp được nơi ngài sự cảm thông chia sớt; ai đau bệnh, yếu đuối, ngài ân cần hỏi han; ai lạc lối, hay xa rời đức tin, ngài tìm cách đưa về sống hiệp thông cùng Hội Thánh; ai lỗi lầm, ngài bao dung tha thứ; ai đã chuyên chăm trong đời sống đạo đức, ngài tiếp tục nâng đỡ để đức tin của họ ngày càng mạnh mẽ hơn…

Qua tất cả những nhiệm vụ vừa cao trọng, vừa vất vả bên trên mà người mục tử không bao giờ được phép lơ là, nhưng luôn nỗ lực thực hiện, người mục tử sẽ xứng đáng là biểu tượng của sự bình an cho đoàn chiên mà Chúa trao cho mình.

Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ của đoàn chiên. Bình an của đoàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Vì thế, trên hết mọi sự, chúng ta cầu nguyện cho các mục tử chẳng những luôn biết cầu nguyện, mà họ còn biết đặt trọn tâm đời mình trên đời sống gắn bó với Chúa Giêsu. Có như thế, người mục tử mới có thể vui hy sinh, vui chấp nhận nghịch cảnh, vui bền đổ phục vụ, vui xả thân, nhất là vui xả thân trong mọi hoàn cảnh, dù có thể bị mất mạng sống mình…

Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử, nhờ gắn kết với Chúa Giêsu, xứng đáng trở thành người nối trời với đất, nối thiên đàng với trần thế, nối Thiên Chúa với lòng con người… Có như thế, các mục tử mới có thể và thực sự là mục tử mang hình ảnh và là họa ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử…

Tấm gương tốt lành của linh mục Mike Judge, hay của nhiều linh mục tương tự như thế, phải là bài học nằm lòng cho các mục tử của Chúa. Chúng ta cầu nguyện nhiều hơn nữa, để nhờ ơn Chúa, các linh mục không tìm an thân cho bản thân, nhưng luôn vì uy danh Chúa Giêsu, vì lợi ích của Hội Thánh, vì lợi ích của linh hồn con người, vì lợi ích chung của toàn xã hội mà hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ con người.

Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn kiên tâm, để họ có thể tuyên bố bằng chính lời của Chúa Giêsu: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.

 

 

 

 

 

43. Chúa chiên lành – Mùa Xuân Hội Thánh

(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

 

Đã thành thông lệ từ nhiều năm, mỗi dịp mùa Chay đến, Ban Mục vụ Giới trẻ giáo phận chúng tôi bao gồm một số linh mục đang coi xứ và linh mục dòng, và nhiều tu sĩ nam nữ, dành tất cả các ngày thứ bảy và Chúa nhật trong mùa Chay, lên đường đến các giáo hạt trong giáo phận quy tụ các bạn trẻ, giúp các bạn tĩnh tâm, học hỏi Sứ điệp mùa Chay…

Còn nhớ năm 2010, Ban Mục vụ còn giúp các bạn tìm hiểu năm Thánh 2010. Ngoài ra, nhằm định hướng cho các bạn về đời sống luân lý theo ý Hội Thánh, nhiều đề tài “thời sự” được trình bày như: “Có được phép sống thử?”, “Sống thử: Lợi hay hại?”, “Tình dục: quà tặng hay nguy cơ?”…

Nhìn các linh mục bộn bề công tác, nhất là bao nhiêu việc phải sắp xếp, phải chu toàn trong những ngày Đầu tuần (theo Thánh Kinh, Chúa nhật là ngày Đầu tuần), các ngài phải làm sao hoàn thành bổn phận với giáo dân trong giáo xứ, nhưng cũng không bỏ cơ hội giúp các bạn trẻ tĩnh tâm để dọn tâm hồn mừng mầu nhiệm Vượt qua. Đa số các bạn trẻ phải đi làm suốt ngày, các buổi tĩnh tâm đều phải diễn ra từ xế chiều đến đêm. Vì thế, có hôm kết thúc buổi tĩnh tâm, vì địa bàn giáo phận quá rộng, các linh mục chia tay các bạn trẻ, về đến nhà, đồng hồ đã điểm một, hai giờ đêm…

Có lần đến nơi quy định để tổ chức tĩnh tâm, nhìn qua nhìn lại chỉ thấy có 25 bạn trẻ của cả giáo hạt đi dự tĩnh tâm (số những người trong ban tổ chức đông hơn số người tham dự tĩnh tâm), chúng tôi cứ ngỡ thất bại, cứ ngỡ các linh mục sẽ chán nản, bỏ cuộc. Nhưng không, ai đó đã lên tiếng động viên: “Dù chỉ có hai người đi tĩnh tâm, cũng sẽ giảng như giảng cho 200 người. Dù chỉ có 200 người, cũng sẽ giảng như giảng cho 2.000 người”. Thế rồi tất cả lại bắt tay vào việc với 25 người dự tĩnh tâm cũng bằng ấy “quy mô” y như… đang có 2.500 người vậy… Đúng thôi, một tâm hồn tội lỗi trở về với Chúa còn quý, huống hồ 25 con người đang khao khát yêu mến Chúa!

Theo chân Ban Mục vụ Giới trẻ trong nhiều năm, tôi càng thấy yêu các bạn trẻ, càng kính phục sự hy sinh tận tụy của các linh mục trong Ban. Để đánh thức đức tin, đánh thức niềm yêu mến Chúa, yêu mến Hội Thánh, và để kêu gọi lòng ăn năn tội, để gọi về tâm hồn thánh thiện nhằm chuẩn bị lễ Vượt qua của Chúa, Ban Mục vụ Giới trẻ Phú Cường đã không kêu gọi suông, nhưng đã hành động thiết thực.

Không dám coi những việc làm bên trên là tất cả nghĩa cử của người mục tử, bởi làm mục tử thật sự như Chúa muốn còn khác hơn nhiều, còn được đòi hỏi lớn hơn nhiều. Nhưng ít ra, đó cũng là một phấn đấu đẹp gợi hứng cho mỗi chúng ta có thể ý thức, có thể tự nhủ mình phải phấn đấu, cố gắng vươn lên từng ngày, từng ngày một.

Hôm nay, lễ Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu trì, chúng ta cùng nhìn lại hình ảnh đẹp của Ban Mục vụ Giới trẻ mà hun đúc cho bản thân tinh thần cầu nguyện: Xin cho Hội Thánh Chúa ngày càng có nhiều người ham thích dấn thân cho ơn gọi tu trì không phải để hưởng thụ, nhưng là biết xả thân vì cơ đồ của Chúa Kitô và vì mọi con người trần thế.

Hơn hết, chúng ta nguyện xin cho các linh mục, biết thăng tiến và làm đẹp ơn gọi quý báu mà Chúa ban cho mình bằng tất cả mọi nỗ lực dù phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận thử thách.

Bởi tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hy sinh. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, một khi mang trong mình chính tình yêu hy sinh của Chúa Giêsu, và ấp ủ trong đời mục tử của mình hình ảnh Chúa Giêsu, người linh mục cũng phải biết yêu, phải biết hy sinh như Chúa, để không chỉ khắc họa lại hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử trong đời hiến dâng của mình, mà chính qua sự hiến dâng, linh mục còn cho thấy, linh mục chính là hiện thân của Chúa Giêsu nơi trần thế.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục luôn có một tình yêu tận hiến đến cùng cho Thiên Chúa và cho con người. Một tình yêu tận hiến đến cùng sẽ giúp linh mục không còn gì hối tiếc vì đã không hết mình cho sứ vụ. Tình yêu tận hiến đến cùng phải là nhân đức hàng đầu của người linh mục. Bởi nếu không có tình yêu tận hiến ấy, mỗi ngày trong đời sống của linh mục trôi qua sẽ nặng nề, buồn tẻ, mệt mỏi… Nhất là khi phải đối diện với những thách đố, nếu không sẵn sàng tận hiến đến cùng bằng một tình yêu trong sứ vụ, vì sứ vụ, người linh mục dễ chán nản, buông xuôi. Nếu đời sống của linh mục mà không còn ham thích chiến đấu, không còn vươn lên cho lý tưởng, không còn tha thiết với sứ mệnh Chúa trao, đồng nghĩa với việc, linh mục sẽ là gánh nặng cho giáo dân, gây thiện hại cho Hội Thánh Chúa, và xúc phạm đến chính hồng ân mà Chúa trao ban cho người linh mục.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, để các ngài chỉ biết tìm niềm vui trong sự hiến dâng, trong mọi công tác thánh hóa các linh hồn, trong sự say mê phục vụ người nghèo, phục vụ người bất hạnh. Bởi nếu các linh mục mà không tìm niềm vui trong sứ mạng của mình, không thấy mình hạnh phúc trong vai trò phục vụ, thì không còn gì nguy hiểm bằng. Bởi như sự bù trừ, nếu một người không tìm thấy hạnh phúc ở chỗ này, anh ta sẽ tìm hạnh phúc ở chỗ khác. Nếu linh mục không nhận ra sứ vụ của mình là chân lý để đạt tới hạnh phúc thật, cám dỗ về một lý tưởng khác, một đam mê khác, một hình ảnh khác, một con đường khác… sẽ có cơ hội len lỏi vào đời sống các linh mục. Như thế, sự đổ vỡ tấn công các ngài chỉ còn là yếu tố thời gian. Như vậy, đời linh mục sẽ không còn đau đớn nào bằng, Hội Thánh sẽ không còn nỗi buồn nào bằng, cộng đoàn nơi linh mục đang sống sẽ không còn ê chề nào bằng… Vì thế, chúng ta nguyện xin Chúa giúp các linh mục chỉ yêu Chúa và yêu hình ảnh của Chúa nơi con người mà Chúa ban cho họ trong một trái tim không bao giờ san sẻ…

Cách riêng với giáo phận của tôi, tôi thấy các linh mục trong Ban Mục vụ Giới trẻ, tuy chưa nhiều, tuy chưa lớn, nhưng việc làm của các ngài phục vụ đời sống tâm linh của các bạn trẻ, cách nào đó, đã có thể có tiếng vang. Ước mong các ngài sẽ kiên trì tiếp tục công việc của mình không ngại khó, không ngại khổ, ngày càng phát huy hơn, tiến triển hơn, sáng tạo hơn để lôi kéo các bạn trẻ về với Chúa, yêu mến Chúa. Biết đâu nhờ tấm gương hy sinh của các ngài, nhiều bạn trẻ sẽ can đảm dấn thân cho Chúa, sống đời ơn gọi.

Ngắm nhìn từng linh mục trong linh mục đoàn của giáo phận tôi, với mọi hăng say, mọi lao tác mà các ngài thể hiện, tôi tin rằng, ơn Chúa đang tuôn đổ dồi dào cho giáo phận. Bởi đó, tôi cũng tin rằng, nhờ từng anh em linh mục chúng tôi nỗ lực sống từng ngày trong thánh chức mộc cách thiết thực, và luôn không bằng lòng, không thỏa mãn với sự dâng hiến mà mình đã trao đi để xây dựng Nước Chúa tại giáo phận nhà, sự phát triển về đời sống thánh thiện sẽ còn tiến xa hơn, tiến mạnh hơn cho chính bản thân người linh mục, và cho tất cả mọi anh chị em mà linh mục có trách nhiệm phục vụ…

Tôi vẫn thấy, mùa xuân, hoa vẫn nở rực rở, khoe đủ màu, đủ loại trong cánh rừng, trong những vườn ươm trồng, trong từng ngỏ, trong từng nhà… trên quê hương tôi. Tôi vẫn thầm so sánh, hy vọng và ước mong: ơn Chúa qua tay anh em linh mục chúng tôi, thực sự nở rực trên khắp cùng mọi nơi trong Hội Thánh nói chung và trong chính giáo phận này. Tôi vẫn tin, với ơn Chúa thắm tươi đậm đà trên khắp Hội Thánh, mùa xuân Hội Thánh mãi mãi không bao giờ tàn phai, dẫu tiết trời có thể sang đông, sang hạ!…

Để mùa xuân nở rộ trong Hội Thánh, không thể thiếu vắng hồng ân linh mục. Vì thế, linh mục không nỗ lực cộng tác để hồng ân của Chúa lớn lên từng ngày, đồng nghĩa với việc linh mục giết chết mùa xuân Hội Thánh…!

 

 

 

 

 

44. Theo Chúa

 

Chúa Giêsu là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước vị đó thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy.

Đâu là bổn phận của con chiên đối với chủ chăn của mình? Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi ấy và chúng ta ghi nhận được hai bổn phận chính yếu, đó là lắng nghe và bước theo.

Lắng nghe: mỗi buổi sáng, chủ chăn mở cửa chuồng gọi tên từng con chiên và dẫn chúng tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Ban chiều, chủ chăn đưa chiên về chuồng và thay phiên nhau canh giữ chúng qua đêm. Vì thế, con chiên muốn được nuôi sống, muốn được bảo đảm an toàn, thì không những phải biết nghe tiếng chủ chăn mà còn phải có can đảm bước theo sự dẫn dắt của chủ chăn nữa.

Chúng ta cũng vậy, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là hãy lắng nghe tiếng Chúa. Chúa đã nói: “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. NHư vậy, dấu hiệu và cũng là điều kiện để trở thành con chiên tốt lành của Chúa là nghe tiếng Ngài.

Mặc dù hôm nay Chúa không phán dạy chúng ta cách tỏ tường như ngày xưa Ngài đã phán dạy dân Do thái và các môn đệ. Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục nói với chúng ta. Phải, Ngài nói với chúng ta qua tiếng lương tâm, bởi vì lương tâm chính là tiếng nói âm thầm của Chúa, phát xuất từ thẳm sâu cõi lòng, thôi thúc chúng ta làm lành tránh dữ. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta qua Tin Mừng, bởi vì với Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống, cũng như những cách thức giúp chúng ta giải quyết những tình huống gặp phải.

Bước theo: lắng nghe tiếng Chúa là điều tương đối dễ, nhưng điều quan trọng là phải dám bước theo Chúa. Người Do thái ngày xưa đã từng được nghe chúa giảng dạy và họ cũng đã từng cảm phục sự khôn ngoan của Chúa, nhưng lại chẳng bao giờ thực hành, để rồi cuối cùng họ đã quay lưng chống lại Chúa. Họ giống như những người ngồi xem xiếc. Đúng thế, người xem xiếc cảm phục kẻ đi trên dây, nhưng nếu bảo họ tiến lên để cùng đi trên dây thì họ lại không dám. Cũng như chàng thanh niên giàu có, cảm phục Chúa và đã đến hỏi Chúa về con đường trọn lành. Thế nhưng khi nghe Chúa bảo: “Con hãy về, bán hết của cải và chia sẻ cho người nghèo, rồi đến theo Ta”, thì chàng đã buồn rầu cúi mặt vì chàng không có đủ can đảm dứt bỏ những níu kéo của tiền bạc, chàng không dám liều, không dám dấn thân để bước theo Chúa.

Như vậy, “nghe tiếng” Chúa không phải là chỉ nhận ra tiếng nói, tiếng gọi của Chúa, mà chủ yếu là tuân theo, là giữ lời Ngài truyền dạy, đặc biệt là giữ các điều răn của Ngài, nhất là điều răn mới, tức là điều răn yêu thương: “Cứ dấu này người ta biết các con là môn đệ Thầy”, là các con thương yêu nhau. Càng yêu thương nhau chúng ta càng chứng tỏ chúng ta là những con chiên tốt lành của Chúa.

Nói rõ hơn, đối với chúng ta, bước theo Chúa có nghĩa là phải cố gắng thực thi những điều ngài truyền dạy, đặc biệt là thực thi giới luật yêu thương, bởi vì giới luật yêu thương chính là cốt lõi của Tin Mừng. Ngày kia, có một linh mục đứng giảng ở ngã ba đường, kêu gọi mọi người đóng góp cho việc từ thiện. Rất nhiều người đã hưởng ứng. Tuy nhiên, có một thanh niên, khoảng 30 tuổi, tiến đến và quì dưới chân vị linh mục, rồi đặt một hòn đá và mấy đồng bạc. Anh nói: “Thưa cha, xin cha hãy nhận lấy của lễ con dâng và xin cha tha tội cho con. Bởi vì lúc đầu con đến đây với ý định dùng hòn đá này để đập bể đầu cha. Nhưng lời Chúa qua sự giảng dạy của cha đã thực sự làm con xúc động và con đã từ bỏ hành vi ám muội của con”.

Chúng ta gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo Hội, là Đức Giáo Hoàng, giám mục, linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, cộng tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo Hội.

Sau hết, hôm nay là ngày Giáo Hội toàn cầu dành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúng ta phải cầu nguyện vì chính Chúa đã dạy: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Nếu muốn có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu, chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chúng ta luôn cầu xin Chúa gửi tới cho chúng ta nhiều thợ gặt, và nhiều thợ gặt lành nghề, nghĩa là ban ơn soi sáng cho giới trẻ biết nghe tiếng Chúa và các linh hồn kêu gọi họ dấn thân tận hiến cuộc đời cho sứ mạng Chúa Giêsu. Những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa, Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, như Chúa đã nói: Ai xin sẽ được, quê hương nào xin nơi ấy được.

Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử tốt lành. Xin Chúa cho chúng ta cũng là con chiên tốt lành của Chúa, tức là luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và sống theo lời Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử khôn ngoan, thánh thiện và tài giỏi để tập họp mọi người và dẫn dắt mọi người biết yêu thương nhau để tất cả trở nên một đoàn chiên duy nhất của Chúa.

 

 

 

 

 

45. Nhân loại vẫn cần…

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

 

Ngày ấy, khi lớp chúng tôi có gần một nửa lớp chịu chức linh mục, linh mục Nguyễn Duy, (lúc đó cũng đang là chủng sinh, dù thuộc lớp đàn anh, nhưng được phân bổ vào lớp chúng tôi để hợp thức hóa và bổ túc chương trình học), đã cảm tác bài hát “Nhân loại vẫn cần” để tặng cả lớp.

Bài hát ấy, tôi vẫn nhớ, vẫn hát. Mỗi lúc nhớ thầy, nhớ trường, nhớ bạn, hoặc mệt mỏi vì rong ruổi trong suốt dọc dài con đường phục vụ, tôi đã nhiều lần hát đi hát lại, để vừa cầu nguyện cho mình, cho thầy, cho anh em, cho sứ vụ của từng người trong lớp chúng tôi, cho cả những gương mặt thân yêu của cộng đoàn mà mình sống và làm việc hôm nay, vừa tìm cách củng cố sức lực do năm tháng đã không ít hao mòn.

Đối với riêng tôi, bài hát ấy hay, nó gợi lại trong tôi cả khung trời kỷ niệm, đồng thời giúp tôi hiên ngang nhìn về phía trước mà thực hiện chính sứ mạng của Chúa Kitô, được Chúa Kitô trao cho mình… Cứ thế, mà tôi hát: “Nhân loại vẫn cần người biết sống ơn gọi của Chúa. Nhân loại vẫn cần người làm chứng tình Chúa yêu thương. Nhân loại vẫn cần người mục tử dẫn đường chỉ lối, cùng đoàn chiên đêm ngày đi tới, về nhà Cha mến yêu muôn đời… Nhân loại vẫn cần người đi tiếp con đường của Chúa. Nhân loại vẫn cần người dám sống cuộc sống Giêsu. Nhân loại vẫn cần người nhiệt tâm trong đời ngôn sứ, chỉ truyền rao những lời của Chúa để trần gian sống trong sự thật… Nên Chúa đã sai từng người chúng con, những linh mục bước đến cùng thế giới. để đáp ứng những khát vọng khắp nơi. Để tô thắm những ước mơ con người. Nghe tiếng Chúa nay từng người chúng con quyết lên đường loan Tin Mừng Cứu Rỗi. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con được nên thánh trong cuộc đời chứng nhân…”

Trong những ngày này, chuẩn bị mừng lễ Chúa Chiên lành, ngày Hội Thánh cầu nguyện và cổ võ cách đặt biệt đối với ơn gọi tận hiến, tôi càng ý thức hơn vai trò và trách nhiệm mục tử của mình. Sau mỗi thánh lễ sáng xong, tôi đóng cửa phòng rồi cứ thế mà cất lên cung điệu Nhân loại vẫn cần… để cầu nguyện, để tạ ơn Chúa, để đánh thức mình hãy nên mục tử nhân lành.

Sau bài hát, tôi lại đọc đi đọc lại bài Tin Mừng theo thánh Gioan để nguyện gẫm: “Chúa Giêsu nói với người Dothái rằng: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,27-30). Ước mong một điều chính đáng rằng, ngày nào tôi còn thi hành chức vụ mục tử, và Hội Thánh còn tiếp tục tin tưởng trao cho tôi sứ mạng mục tử, ngày ấy, tôi vẫn cứ xông vào trận chiến với thế gian, với tội lỗi và với mọi cơn cám dỗ trong đời một cách không mệt mỏi để làm cho từng con chiên của Chúa Kitô thực sự yêu mến Chúa Kitô, nghe Lời Chúa Kitô. Nhờ đó họ không bị diệt vong, không bị bất cứ thế lực nào của sự dữ cướp khỏi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và lãnh nhận sự sống đời đời mà Chúa Kitô ban cho họ.

Để hoàn thành xuất sắc vai trò mục tử như Mục Tử Giêsu, một hình ảnh mục tử mà mãi mãi nhân loại vẫn cần, vẫn tha thiết trông chờ, vẫn hoài hy vọng, tôi nghiệm ra rằng, trước hết mình phải là chiên xuất sắc của Mục Tử Giêsu. Một khi đã là chiên tốt, chắc chắn, tôi cũng sẽ là mục tử tốt như Chúa Giêsu.

1. Cùng anh chị em, linh mục là thành phần của đoàn chiên Chúa

Trước khi là mục tử, người linh mục đã thuộc về đàn chiên. Biết mình là chiên, cũng mang thân phận con người đầy khiếm khuyết, có khi đã nhiều lần, do chủ quan, do mải ngụp lặn trong biển đời nhiều sóng dữ, đã để xảy ra nhiều thương tật cho đời sống tâm linh của bản thân.

Biết mình là chiên như mọi con chiên trong đoàn chiên của Chúa, người linh mục luôn luôn học lấy lòng khiêm nhường, hiền từ như Mục Tử Giêsu. Cùng là người như mọi anh chị em của mình, người linh mục không bao giờ được phép coi thường những điều kiện căn bản để vươn lên trong ơn thánh Chúa như: cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình, đọc Lời Chúa, viếng Thánh Thể, thường xuyên lãnh bí tích hòa giải…

Người linh mục càng phải ra sức cộng tác với ơn Chúa để sống một đời sống gương mẫu, mực thước, tự chủ, biết sống lành mạnh, không xa hoa, không tìm danh lợi, không mưu cầu cách ích kỷ sự giàu có cho bản thân… nhưng luôn biết từ chối tất cả mọi nguy hiểm có thể đánh đổi ơn gọi của mình là thứ quý giá trên hết mọi thứ quý giá.

Ngoài ra, dù là mục tử, người linh mục sẽ không ít lần bắt gặp những mẫu gương rất tốt nơi anh chị em mà mình có thể học lấy. Chẳng hạn, nhiều anh chị em quyết không bước vào con đường gian tham, tội lỗi, dù rất nghèo. Hoặc nhiều người đau khổ đến cùng cực, nhưng đức tin vẫn lung linh cháy sáng. Nhiều anh chị em tham gia phục vụ người nghèo, phụ vụ nhà thờ, phục vụ cộng đoàn hết sức miệt mài, nhiệt tâm y như việc họ làm là làm cho chính gia đình, cho chính bản thân của họ vậy… Tất cả những hình ảnh ấy, càng làm cho người linh mục khám phá ra một chân lý rất bình thường, nhưng rất đỗi quang trọng: Dù là mục tử, người linh mục vẫn là thành phần của đoàn chiên Chúa. Nhận ra mình cũng là chiên như anh chị em, người linh mục sẽ không bao giờ dám coi chức linh mục của mình là quan chức, là hướng nhắm của sự thành công, để khi đạt được rồi, sẽ hưởng thụ, tệ hơn, vơ vét mọi thứ cho cá nhân mình…

Tắt một lời, khi biết rèn giũa cho hình ảnh “chiên” nơi mình càng đẹp, càng sáng, thì khi làm mục tử, người linh mục cũng sẽ là mục tử tốt lành mang lấy và phản chiếu hình ảnh tốt lành của Mục Tử Giêsu.

2. Là mục tử của đoàn chiên Chúa

Rất nhiều lần, và ngay chính lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng, thánh chức linh mục mà Chúa ban cho mình quý giá vô cùng. Bởi nó là danh dự, là sự điểm tô lộng lẫy cho chính người linh mục đã vậy, quan trọng hơn, nó chính là sự cần thiết của đời sống tâm linh con người. Chức linh mục vẽ thêm vào cuộc đời, vốn vàng thao lẫn lộn, những nét tươi mới của tin yêu, của niềm an úi, của hy vọng. Bởi không có ai khác nhưng linh mục, đã gắn bó với từng anh chị em mà Hội Thánh trao cho mình, gắn bó suốt đời mình để phục vụ, để hiến thân.

Chính linh mục mới là người biết rõ, biết nhiều về tâm tư con người. Cả trong tòa giải tội, lẫn ngoài đời thường, không biết bao nhiêu lần người linh mục chia sẻ những tâm tư, những bức xúc, những bí mật rất thật về chính bản thân của anh chị em. Dường như chỉ có linh mục mới có thể giải tỏa nhiều chông chênh, ngang trái mà anh chị em gặp phải trong một lòng thương mến thật, thông cảm thật. Anh chị em đến với linh mục bằng một niềm tin tưởng thật, vì thế họ cũng sẽ nhận được từ người linh mục một trái tim rung cảm thật, nhằm tiếp thêm ngọn lửa của sức mạnh chịu đựng, tiếp thêm sức nóng xóa tan băng giá của cả một đời đầy dông bão.

Vì trót cả cuộc đời của những người mang lấy đức tin, là cả cuộc đời mang dấu ấn của thánh chức linh mục. Bởi không ai khác, nhưng là chính bàn tay linh mục, trong bí tích rửa tội, đã đưa một con người từ thưở bé thơ vào cộng đoàn Hội Thánh để làm Con Thiên Chúa. Dù trong anh chị em, có người không nhìn nhận, thậm chí chống đối cá nhân linh mục này, linh mục khác, thì anh chị em cũng không thể chối từ ảnh hưởng của thánh chức linh mục trên cuộc đời mình. Chỉ nhờ linh mục, anh chị em được lãnh nhận ân sủng từ kho tàng bí tích mà Chúa trao cho Hội Thánh. Những khi anh chị em muốn tìm lại bình an nội tâm sau những lần ngã quỵ vì cám dỗ, vì tội lỗi, cũng chính linh mục nhân danh Chúa ban ơn Thánh Thần tha thứ cho anh chị em. Đến tuổi trưởng thành, cũng nhờ chính bàn tay linh mục, mà mỗi một người chính thức bước vào đời sống gia đình cách hợp pháp. Có thể nói, trong bí tích hôn phối, người linh mục đã liên tục sinh ra các gia đình mới cho Hội Thánh. Hay suốt cả một đời làm Kitô hữu của mình, từng anh chi em đã không thể đếm hết bao nhiêu lần đã cậy nhờ thánh chức linh mục, và chính bản thân người linh mục mà lãnh nhận hết hồng ân này đến hồng ân khác, hết hy tế thánh lễ này đến hy tế thánh lễ khác, hết lời giảng dạy này đến lời giảng dạy khác… Và giây phút quan trọng nhất, nhưng cũng kinh hoàng nhất, đáng sợ nhất của đời người là giây phút sắp lìa đời, thì sự hiện diện lần cuối cùng của linh mục lại ấm áp, thiêng liêng, ý nghĩa vô cùng. Nó mang lại niềm an ủi, mang lại sự xoa dịu nỗi sợ hãi, xoa dịu cơn đau đớn không thể tả để anh chị em thanh thản lìa đời. Và cuối cùng, cũng chính bàn tay linh mục đưa lên ban phép lành lần cuối thay lời từ biệt trao gởi anh chị em về với Đấng Hằng Hữu, Đấng mà từ đó, đã làm phát sinh sự sống của không biết bao nhiêu sinh linh trong cõi đời này.

Như vậy, linh mục rất cần vai trò làm chiên cùng với đoàn chiên của Chúa. Làm con chiên như anh chị em, người linh mục sẽ hiểu nhiều hơn, sẽ dễ thông cảm hơn với từng mảnh đời, từng hoàn cảnh của anh chị em. Là chiên của Chúa, thấu hiểu nỗi lòng của đoàn chiên, để khi đứng trong vai trò mục tử, người linh mục sẽ dẫn đưa anh chị em của mình đến sự sống, một sự sống hoàn thiện, sự sống dồi dào…

Đúng là nhân loại vẫn cần, mãi mãi cần những mục tử của Chúa, những mục tử thay thế Chúa săng sóc đoàn chiên Chúa. Nhân loại vẫn cần những con người dám hiến thân vì người khác giữa cuộc đời mênh mông và biến động. Nhân loại cần lắm những bàn tay nâng đỡ lòng người, cần lắm những con người luôn luôn thao thức vì hạnh phúc của loài người, cần lắm những bóng mát làm dịu cơn khát tình yêu, xua đi nỗi buồn chán, lấp đầy những khoảng trống cô đơn của con người. Nhân loại vẫn cần vô cùng những tấm lòng từ ái, những con người của ơn hòa bình, những dấu chỉ của niềm hy vọng, những hiện thân của hạnh phúc trường cửu, mà chính người mục tử ghi dấu, để mỗi anh chị em luôn cảm nhận tình yêu, luôn tìm ra một chỗ dựa mỗi khi cần, luôn thấy mình được an ủi vỗ về khi đau đớn…

Nhân loại vẫn cần, cần lắm những linh mục thánh thiện, những linh mục nhân lành. Bởi họ chính là những mục tử như lòng mong ước…

 

 

 

 

 

46. Các mục tử hãy nên giống Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

 

Chúng ta, những người dấn thân trong ơn gọi tu trì của Hội Thánh Chúa Kitô. Vì thế, tất cả chúng ta hãy luôn để lòng mình thấm thía lời Chúa Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Nhất là những ai đang mang trọng trách lãnh đạo đoàn chiên của Chúa trong vai trò của một mục tử, chúng ta càng phải cầu nguyện để các chính mình luôn luôn ý thức như Chúa Giêsu đã ý thức: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”.

Đó chính là những lời tâm sự của Chúa Giêsu. Một khi các mục tử nơi trần thế, được Chúa Giêsu ủy quyền để lãnh đạo đoàn chiên của Người, các mục tử phải là những người trước tiên cưu mang, uống lấy, luôn tâm niệm, luôn say trong lời của Chúa Giêsu. Nhờ đó, khi các ngài hành động trong vai trò một người lãnh đạo nơi đoàn chiên của Chúa, các ngài sẽ thực sự hành động trong tư thế của Chúa Giêsu. Để chính khi thừa lệnh Chúa, theo ý Hội Thánh, cử hành bí tích, cử hành thánh lễ, cử hành quyền giảng dạy, các mục tử cử hành cách hết sức sốt sắng, đầy tinh thần trách nhiệm, nhằm mang lại nhiều hiệu quả nhất cho đời sống tâm linh cũng như đời sống vật chất, linh hồn cũng như thể xác của tất cả nhưng ai mà các ngài dấn thân phục vụ.

Chúng ta luôn ý thức và xin Chúa cho mình được trở thành những nhà lãnh đạo kiên trung trong đức tin, bền bỉ trong đức cậy, mạnh mẽ trong đức mến. Nêu cao tấm gương tận tụy hy sinh, phục vụ quên mình, sống thánh thiện, thực hành đức bác ái mục tử…

Các mục tử của Chúa hãy là những người rập khuôn cuộc đời Chúa Giêsu. Các ngài hoàn toàn đi theo dấu chân Chúa Giêsu không bao giờ ngơi nghỉ. Các ngài ý thức từng giây phút rằng, chính các ngài chứ không phải ai khác, là họa ảnh của Chúa Giêsu hôm nay, nơi trần thế này, để làm sao, mọi người khi nhìn thấy mục tử của họ là chính lúc họ an tâm rằng, Chúa Giêsu đang hiện diện nơi vị mục tử ấy. Tắt một lời, các mục tử hãy sống suốt đời của mình như Chúa Giêsu đã sống.

Phải sống như Chúa Giêsu, các mục tử của Chúa mới có thể tự hào mà nói rằng, đàn chiên Chúa trao cho tôi đã lắng nghe tiếng tôi, đã theo tôi.

Sống như Chúa Giêsu, các mục tử mới có thể biết chiên của mình, biết từng nỗi ưu tư, khắc khoải của họ; biết họ đang là người bị loại trừ hay đón nhận mà nâng đỡ họ; biết họ lâm cơn thử thách hay bình an mà trao cho họ lời động viên khích lệ; biết từng cách sống nguội lạnh hay sốt sắng mà hướng dẫn họ…

Sống như Chúa Giêsu, các mục tử là người đưa tay chỉ đường về trời cho đàn chiên không lạc lối. Khi đó, các mục tử mới thật sự là những người ban cho đàn chiên sự sống đời đời.

Sống như Chúa Giêsu, các mục tử ra sức bảo vệ đàn chiên và bảo vệ tới cùng, để đàn chiên không bao giờ phải diệt vong, để không ai, không quyền lực tội lỗi, quyền lực sự xấu nào có thể cướp được đàn chiên khỏi tay mình.

Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ phải ghi khắc không bao giờ quên rằng, tôi có làm gì, có lãnh đạo như thế nào, thì sự thật vẫn là: đàn chiên không phải của riêng tôi. Tôi không sở hữu theo ý mình để rồi muốn làm gì thì làm, nhưng là “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi”. Người “lớn hơn tất cả”. Tôi chỉ là đầy tớ của Người, chỉ làm theo ý Người mà thôi. “Cha tôi” mới là Đấng có quyền. Người thi hành quyền của Người trong tình yêu tuyệt đối.

Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ hết sức khiêm nhường phó thác trọng trách của mình, phó thác đàn chiên Chúa trao cho mình trong sự cầu nguyện chìm đắm không bao giờ được phép quên sót. Các mục tử phải luôn luôn thi hành quyền mục tử trong niềm tin tưởng lớn lao rằng, đàn chiên ấy là của “Cha tôi”. Các ngài phải thi hành quyền làm mục tử đến cùng, dù có phải mỏi mòn, bạc nhược, bị hiểu lầm, đuối sức… Phải thi hành đến lúc không còn có thể thi hành được nữa mới thôi. Các mục tử hãy biết rằng, mình chỉ là con người. “Cha tôi” mới là Đấng làm nên tất cả, điều khiển tất cả. Các mục tử hãy tin vững vàng rằng, “Cha tôi” sẽ ban ơn cho tôi, sẽ ban ơn cho đàn chiên mà tôi nhận trách nhiệm coi sóc để không bao giờ có ai có thể cướp được đàn chiên khỏi tay Cha tôi.

Ngoài tâm tình cầu nguyện dành cho các mục tử đang đại diện Chúa nơi trần thế, ta không quên cầu nguyện cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, nhất là có đủ can đảm để theo tiếng gọi đó bằng một đời dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, phụ vụ người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu… Chúng ta cầu nguyện cho các bạn trẻ khắc ghi lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mà nung đốt lòng mình niềm mơ ước sống đời tận hiến: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời” (Sứ điệp ngày Quốc tế Ơn gọi năm 2000).

Lạy Chúa, xin gìn giữ các linh mục, các tu sĩ là những người Chúa đã gọi và tuyển chọn, để họ luôn yêu mến Chúa và yêu mến con người, nhờ đó hành động, suy nghĩ, đời sống của họ ngày càng nên giống Chúa Giêsu Con Chúa, là Mục Tử Nhân Lành của chúng con.

Xin Chúa sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ, để các bạn quản đại đáp lại tiếng gọi của Chúa, yêu mến đời sống của Chúa Giêsu và hiến thân như Người. Nhờ đó, họ có thể tiếp tục làm tất cả những gì Người đã làm nơi trần gian. Amen.

           

 

 

 

 

47. Linh mục

 

Trong một quyển chuyện đề tựa “Quyền lực và vinh quang”, nhà văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở nam Mỹ: Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa số các linh mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một linh mục. Ông này ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu linh mục thì họ lại cần đến ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu. Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền: rửa tội một em bé là mấy đồng, giải tội một người lớn là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự lễ là mấy đồng… tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích nên ông linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước lúc bị bắt, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa bàn tay ban phép giải tội cho ông, đó là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.

Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều:

Thứ nhất: Linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người công giáo được bàn tay linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng: Khi ta vừa mới sinh ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình thánh Chúa cho ta rước lễ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thốn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho họ.

Thứ hai: Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong câu chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc “Này là Mình ta” thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng; ông nói “Ta tha tội cho con” thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực sự là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân.

Hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta cũng chắc ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài”. Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn.

Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.

 

 

 

 

 

48. Đàn chiên

 

Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu thương, đó là một cảm giác vô cùng an ủi. Ai mà không muốn thuộc về đàn chiên của Chúa! Thế nhưng thế nào là thuộc về đàn chiên Chúa? Muốn thuộc về đàn chiên Chúa thì phải làm sao?

– Thứ nhất là phải tin vào Ngài: Chúng ta gia nhập đoàn chiên Chúa và trở thành tín hữu, nghĩa là người tin.

– Nhưng tin chỉ mới là bước thứ nhất. Bước thứ hai là phải nghe tiếng Ngài: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Nghe tiếng Chúa Giêsu nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ.

– Thứ ba là đi theo Ngài: “Chiên của Ta đi theo Ta”. Theo Chúa là thực hành lời Ngài dạy.

Liên hệ giữa chúng ta với Chúa phải là hai chiều. Con chiên phải chọn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu không muốn và cũng không thể cứu ta ngược với ý muốn của ta. Nhưng chỉ cần ta thực lòng muốn và cố gắng thuộc về Ngài thì Ngài sẽ chăm sóc ta trong cuộc sống và trong cái chết nữa. Ngài hứa ban cho ta sự sống đời đời: “Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong”.

Nhưng như thế không có nghĩa là hễ thuộc về Chúa thì sẽ được Ngài bảo đảm cho có một cuộc sống dễ chịu ở đời này đâu. Ngược lại là đàng khác. Những kẻ thuộc về Chúa có thể bị bách hại, nhưng ai vẫn trung thành thì sẽ được chia phần vinh quang của Ngài trên trời (bài đọc 2). Gian truân và thử thách là những cơ hội để ta chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục Chúa.

Đàn chiên là hình ảnh của nếp sống cộng đoàn. Ngay cả trên bình diện nhân loại thôi thì ai cũng cần có cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Chúa muốn những kẻ theo Ngài phải sống trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta tìm được sự nâng đỡ, khuyến khích và tình thân. Chúng ta không thể thuộc về Chúa Giêsu mà không thuộc về đoàn chiên của Ngài.

 

 

 

 

 

49. Ơn gọi – Hồng ân và Chọn lựa

(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

 

Chúa Nhật Cầu Cho Ơn Thiên Triệu

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe nói nhiều về ơn gọi. Nhiều lúc chúng ta thắc mắc vì không hiểu được tại sao có người đi tu; tại sao Chúa lại chọn những con người này. Vì ơn gọi rất huyền nhiệm, nên nhiều bạn trẻ muốn đi tu hay tìm hiểu ơn gọi nhưng không chắc chắn rằng mình có ơn gọi hay được Chúa gọi không? Nhân dịp Ngày Quốc Tế Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu, chúng ta tìm hiểu về chủ đề này.

Ơn thiên triệu là gì?

Trước hết chúng ta thử hỏi: ơn thiên triệu hay ơn gọi là gì?

Thông thường khi nói tới ơn thiên triệu, ta nghĩ ngay tới ơn Chúa gọi ai đó đi tu làm linh mục, thầy dòng, hoặc nữ tu, còn giáo dân không đi tu, họ ở giữa thế gian, nên không có ơn thiên triệu. Chúng ta cần phải xét lại các hiểu đó.

Từ ngữ “Thiên Triệu” dịch từ tiếng Vocatio trong tiếng Latinh do động từ vocare có nghĩa là kêu gọi, mời gọi.

Khi dùng trong lãnh vực tôn giáo, vocatio thường dùng để chỉ lời kêu gọi của Thiên Chúa gọi người này, kẻ kia làm việc gì theo ý Ngài, nên ta dịch từ ngữ Vocatio là ơn thiên triệu.

Jacque Guillet định nghĩa: “Ơn gọi là tiếng Thiên Chúa mời gọi kẻ Ngài đã chọn ủy thác làm một công việc đặc biệt trong kế hoạch cứu rỗi loài người và trong vận mệnh của dân Ngài” (trong Vocabulaire de theologie biblique, 1970). Định nghĩa này thu hẹp “lời Thiên Chúa kêu gọi” trong những trường hợp riêng biệt để đảm nhận công việc đặc biệt trong dân Chúa.

Công Đồng Vaticano II hiểu ơn thiên triệu theo nghĩa rộng: Có nghĩa là tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi, đều có ơn thiên triệu: làm người và làm Con Chúa, tất cả đều được mời gọi nên thánh. Công Đồng xác định đây là ơn gọi phổ quát, một ơn gọi mà tất cả mọi kitô hữu đều được mời gọi hướng tới. Trong văn kiện Lumen Gentium số 40 Công Đồng nói rằng: “Tất cả mọi người tín hữu dù ở cấp bậc đều được mời gọi đạt tới sự thánh thiện”. Chính vì vậy, không chỉ có giám mục, linh mục và tu sỹ, cả giáo dân, tất cả đều được mời gọi đạt tới sự hoàn thiện (LG 39). Cũng theo Công Đồng này, trong Giáo Hội có nhiều hình thức của đời sống: ơn gọi linh mục, tu sĩ, giáo dân. Đây là những hình thức đời sống để nên thánh hay để đạt tới sự hoàn thiện kitô giáo.

Nhưng hiểu theo nghĩa nào, cuối cùng ta phải nhìn nhận: Ơn thiên triệu luôn có hai phía hay hai yếu tố đi liền với nhau: Thiên Chúa gọi và con người đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Theo cái nhìn đó, ơn gọi là sáng kiến của Thiên Chúa: Thiên Chúa dự định, Thiên Chúa chuẩn bị, Thiên Chúa ban ơn, Thiên Chúa thúc đẩy. Con người đáp trả cách tự do, chọn lựa, từ bỏ và bước theo Chúa, sống cho Chúa, hiến thân cho Chúa.

Ơn gọi vừa là hồng ân vừa là chọn lựa dứt khoát

Ơn gọi hay đi tu là một hồng ân mầu nhiệm của Thiên Chúa, vừa là một sự chọn lựa riêng của mỗi người. Chúng ta tìm hiểu những câu chuyện ơn gọi nỗi bật trong Cựu Ước và Tân Ước.

Câu chuyện ơn gọi của Abraham là một điển hình. Chúa gọi Abraham để ông trở thành tổ phụ của một Dân riêng và “Cha của những kẻ tin”. Thiên Chúa chọn Abraham trong dòng dõi Sem, người ‘sinh ra từ Ur’ (St 11,10-31) và dẫn đưa ông bằng những con đường đến vùng đất mà ông không hề biết (Dt 11,8). Ông đã ra đi theo tiếng gọi đó, dù không biết đi về đâu, nhưng ông biết chắc một điều là có Chúa dẫn đường. Ông đã phó thác cho Chúa hướng dẫn.

Ơn gọi của Giêrêmia cũng rất huyền nhiệm: Chúa nói: “Trước khi ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc”. Giêrêmia đáp lại: A, a, a lạy Thiên Chúa là Thiên Chúa, tôi đâu có biết ăn nói, vì tôi còn là con nít”. Chúa lại phán: ngươi đừng nói ngươi là con nít… ngươi đừng sợ họ, vì ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi” (x. Gr 1,4-10).

Tin Mừng tường thuật về việc Chúa chọn các tông đồ cách lạ lùng:

Chúa Giêsu chọn và mời gọi các môn đệ đầu tiên như Phêrô, Gioan và Giacôbê: “Hãy theo Ta. Ta sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 3,20). Họ từ bỏ và mau mắn đáp trả theo Chúa. Họ là ai? Họ là những người đánh cá, bình dân, quê mùa, không có học vấn cao, bằng cấp, có địa vị… nhưng họ đã đáp trả lời mời gọi đó một cách hăng hái và từ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ đã được Chúa biến đổi và làm cho trở thành những “kẻ lưới người như lưới cá”.

Trường hợp ơn gọi của Matthêu cũng gây nhiều ngạc nhiên: ông là một người thu thuế, nhưng khi nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo ta! Ông trả lời tức thì và quảng đại, bỏ tất cả, ông đứng dậy, đi theo Người (Lc 5,28). Tất cả đều được Chúa mời gọi và tất cả đã đáp trả và từ bỏ để theo Chúa.

Như thế, ơn gọi vừa rất huyền nhiệm vì Thiên Chúa gọi ai Ngài muốn, gọi vào thời điểm nào và ở nơi nào đều tùy ý Ngài (x. Mc 3,13). Nhưng ơn gọi cũng là một chọn lựa liên lĩ, đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ của những ai mà Thiên Chúa muốn gọi. Vì thế, nếu nhìn ơn gọi như là một hồng ân của Thiên Chúa, việc đi tu hay theo Chúa không phải hệ tại nơi khả năng và tài cán của con người, nhưng hệ tại nơi lòng muốn và ân sủng của Thiên Chúa. Nếu nhìn ơn gọi như là chọn lựa, đi tu bao gồm sự hy sinh, từ bỏ để dấn thân cho Thiên Chúa và cho tha nhân.

Những dấu chỉ của ơn gọi

Rất khó trả lời một cách chắc chắn rằng bạn có ơn gọi tu trì hay không. Nhưng dựa trên những dấu chỉ mà mình có để phân định ơn gọi và để vững tin tiến bước.

Nếu Thiên Chúa đang kêu mời bạn đi tu, chắc chắn ngài sẽ ban cho bạn những phẩm chất cần thiết để trở thành linh mục hoặc tu sỹ.

Có hai dấu hiệu cho thấy một người có ơn gọi tiến tới đời sống linh mục: đó là có ý hướng ngay lành và những phẩm chất sự phù hợp.

Ý hướng ngay lành:

Ý hướng ngay lành liên quan tới ơn gọi linh mục hoặc thánh hiến bao gồm những nội dung sau đây: Khát khao phụng sự Chúa Kitô vì tình yêu mến chính Ngài và có lòng yêu mến Giáo Hội, yêu mến giáo huấn Giáo Hội, yêu mến đời sống đạo đức, có tinh thần hy sinh chịu khó; khát khao đi tu để phục vụ người khác và muốn dẫn đưa các linh hồn về cho Chúa. Đó là dấu hiệu cho thấy ý hướng ngay lành. Trái với ý hướng ngay là ý hướng lệch lạc: đi tu vì những động cơ nhân loại như để mưu cầu danh dự, tìm đặc ân đặc quyền, thích được trọng vọng và để thoát đời…

Những phẩm chất phù hợp:

Dấu hiệu thứ hai của ơn gọi tu trì là có những phẩm chất phù hợp đó là phẩm chất đạo đức, trí thức, thể lý, tâm sinh lý và hoàn cảnh gia đình.

Trước hết là khả năng về đạo đức: ai muốn đi tu trước hết phải là người có khả năng sống đời sống nội tâm hay tâm linh. Phẩm chất này bao hàm không chỉ khả năng sống khiết tịnh suốt đời mà còn bao hàm các nhân đức khác nữa như khiêm tốn, vâng phục, tự chủ, nhân hậu, quảng đại, vị tha, cẩn trọng, yêu mến sự thật, thẳng thắn, có lòng đạo hạnh, có đời sống luân lý tốt… Tóm lại: là người có lòng yêu mến Chúa và tha nhân.

Khả năng tri thức: đi tu phải có những phẩm chất trí năng cần thiết để thi hành sứ vụ tông đồ.

Phẩm chất về thể lý và tâm sinh lý: đi tu phải là người khỏe mạnh và bình thường về thể lý và tâm lý. Đây là phẩm chất cần thiết để hoàn thành các bổn phận của người theo Chúa. Ứng sinh phải không bị vướng mắc những bệnh nan ý, rối loạn thần kinh và rối loạn chức năng vốn là biểu hiện của một tình trạng “lệch lạc” hoặc bệnh hoạn về tâm lý trong phán đoán, thái độ và hành động.

Sự phù hợp về gia đình – Ứng viên phải xuất phát từ một gia đình có cha mẹ đàng hoàng, có tiếng tốt. Khi xem xét để trao tác vụ linh mục, yếu tố danh thơm tiếng tốt của ứng viên trong cộng đồng cần phải được cân nhắc như giáo luật đòi hỏi. Một ứng viên xuất thân từ một hoàn cảnh gia đình phù hợp thì sẽ là sự thuận lời cho đời sống và sứ vụ linh mục sau này.

Vì thế, trong quá trình tìm hiểu ơn gọi, ứng sinh cần phân định kỹ lưỡng về ơn gọi và những khả năng của mình để chọn lựa và sống ơn gọi tu trì. Cùng với cầu nguyện, biện phân ơn gọi là một công việc quan trọng trong quá trình tìm hiểu và đào tạo.

Những đòi hỏi của Giáo Hội đối với ứng sinh linh mục

Mọi ơn gọi Kitô hữu đều đến từ Thiên Chúa, đó là ơn huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi ấy không bao giờ được ban bên ngoài và tách biệt khỏi Giáo Hội, nhưng luôn luôn ở trong Giáo Hội và qua Giáo Hội. Giáo Hội được Chúa giao phó cho nhiệm vụ tuyển chọn và đào tạo ơn gọi.

Giáo Hội – “người sinh ra và giáo dục các ơn gọi” – có nhiệm vụ phân định ơn gọi và sự phù hợp của các ứng sinh vào tác vụ linh mục. Thật vậy, tiếng gọi bên trong của Thánh Thần cần được Giám mục giáo phận và những người có trách nhiệm nhìn nhận xem có phải là tiếng gọi chân thực không.

Chính vì vậy, Giáo Luật 1983 đòi hỏi: Điều 241,1: “Giám mục giáo phận chỉ nên thâu nhận vào Đại Chủng Viện những người nào, xét theo các đức tính nhân bản và luân lý, đạo hạnh và trí tuệ, sức khỏe thể lý và tâm lý cùng ý muốn ngay thẳng của họ, được coi là có đủ khả năng hiến trọn đời cho các tác vụ thánh”.

Ngoài ra, Giáo luật còn yêu cầu cả những đức tính nhân bản, thể lý tâm lý phù hợp với đòi hỏi của thiên chức linh mục:

Điều 1029: “Dựa theo sự phán đoán khôn ngoan của Giám mục riêng hoặc Bề Trên cao cấp có thẩm quyền và sau mọi cân nhắc kỹ lưỡng, chỉ nên cho tiến chức những người có đức tin tinh tuyền, chí hướng ngay thẳng, kiến thức đầy đủ, danh thơm tiếng tốt, tác phong đoan chính, nhân đức đã được thử luyện và những đức tính khác về thể lý và tâm lý tương ứng với chức thánh sẽ lãnh nhận”.

Kết luận:

Giáo Hội hoàn vũ đang đối diện với cơn khủng khoảng về ơn gọi tu trì. Nếu nhìn ơn gọi tu trì là quà tặng của Thiên Chúa, thì mỗi người kitô hữu cần phải cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi như lời Chúa Giêsu dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến” (Lc 10,2).

Nếu hiểu ơn gọi đồng thời là sự đáp trả của con người, thì mỗi người chúng ta cần có ý thức và cộng tác để vun trồng các mầm ơn gọi trong gia đình và trong giáo xứ. Mỗi người cần biết cổ võ ơn gọi và nâng đỡ các chương trình mục vụ ơn gọi trong Giáo Hội để càng ngày Giáo Hội có nhiều người trẻ dám quảng đại dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ