Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1380195

AI KHÔNG CHÚNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA

AI KHÔNG CHÚNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA(*) Chú giải của Noel Quession

Trên con đường đi Xêdarê – Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của “Con Người” cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:

– Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một “luật lệ” được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.

Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.

Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố” nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?

Gioan đã thấy một “người trừ quỷ” mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).

Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).

Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có “những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.

Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những “con quỷ” này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé… tất cả đều phải “khử trừ” sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.

Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.

Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo… hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến… Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.

Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.

Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên “kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người”. Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh “Quyền lực của Đức Kitô”. Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.

Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới “thấy được” của Giáo Hội hay sao?

Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?

Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:

“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như gió″ (Ga 3,8).

Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài “nhóm” (Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ “đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: “ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những “người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất chúng con”.

Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài” nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu “các con đừng ngăn cản người ấy” đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.

Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa… Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là “những con người phổ quát”, “nhưng con người biết thông cảm những khác biệt” như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: “Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ” (GS 9,2).

Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. “Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn”. Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?

Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).

Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

‘Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước” lạ thường của người môn đệ: “Người ấy thuộc về Đức Kitô”. Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.

Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). “Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đó là sự lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.

Sau những lời khuyên luận lý tích cực (“cho một chén nước”), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực (“không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã”). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.

Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.

Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.

Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.

  (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

TINH THẦN KHOAN DUNG CỦA  NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B này có thể được gọi là “chia sẻ”.

Ds 11: 25-29

“Chia sẻ” những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số  về việc tấn phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để các ông trở thành những người cộng tác với ông Mô-sê trong việc hướng dẫn dân Chúa chọn.

Gc 5: 1-6

Thánh Gia-cô-bê khuyên “chia sẻ” những của cải trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng Tin Mừng về đức khó nghèo.

Mc 9: 38-43, 45, 47-48

Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết “chia sẻ” những ân ban Thần Khí, thậm chí cả bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.

BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)

Sách Dân Số là sách thứ tư của bộ Ngũ Thư, sách nầy được đặt ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Nhan đề của sách: “Dân Số”, do từ cuộc điều tra dân số mà ông Mô-sê tiến hành trước khi dân rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.

Tiếp đó, sách thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại trong sách này, thường với những biến thể hay với những viễn cách khác. Như vậy chúng ta có hai bản văn thuật lại việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để giúp đỡ ông trong công việc hướng dẫn dân chúng: một bản văn “phàm trần” (Xh 18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở chương 11 của sách Dân Số.

Bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26):

Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông Mô-đến gặp con rể của mình là ông Mô-sê. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông Mô-sê đảm nhận công việc hướng dẫn dân chúng quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế, ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy… Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên khôn ngoan nầy.

Bản văn đặc sủng (Ds 11):

Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác. Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về trọng trách quá khó nhọc mà ông phải đảm nhận trong việc hướng dẫn dân cứng cổ cứng đầu này. Việc dẫn dắt dân nầy, một dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề, một mình ông khó gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.

Việc Tấn Phong:

Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng nhưng thật ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức nầy nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục nầy lãnh nhận cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi vẫn lệ thuộc vào ông và đường lối của ông.

“Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông, thì các ông bắt đầu phát ngôn”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được biểu hiện bằng những dấu chỉ bên ngoài. Được Thần Khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục này bắt đầu phát ngôn, nghĩa là “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng này “không tái diễn nữa”. Ân ban Thần Khí được biểu hiện qua việc “xuất thần ngôn sứ” chỉ diễn ra trong một giai đoạn ngắn, như được gặp thấy trong các ngôn sứ thời xưa, và sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau đó. Trong đoạn văn này, chúng ta nên ghi nhận rằng hiện tượng xuất thần ngôn sứ nầy chỉ là phụ, không bao giờ do những nghi thức phù chú hay theo những phương thức đồng bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần hứng của mình.

Thần Khí hoàn toàn tự do trong ân ban của Ngài:

 Hai thành viên của nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy mươi thành viên khác ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? hay sợ trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ; mặc dầu không đến tham dự cuộc hội họp ở Lều Thánh theo lời hiệu triệu của ông Mô-sê, hai ông cũng được ân ban Thần Khí.

Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng thanh niên này là ông Giô-suê, người hầu cận trung thành của ông Mô-sê. Cậu lo lắng rằng hai người được ân ban Thần Khí này đã không tham dự buỗi nhóm họp chính thức trong Lều Thánh, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục ông Mô-sê chăng? Vì thế, Giô-suê nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn ngăn cản họ!”. Ông Mô-sê phê phán tinh thần bất khoan dung và hẹp hòi của ông Giô-suê khi trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời nầy, chúng ta hiểu ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân cứng cổ cứng đầu này cần phải được Thần Khí thực sự ở cùng. Nếu toàn dân được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay lòng đổi dạ biết mấy.

Ước nguyện của ông Mô-sê sẽ được thực hiện vượt quá khung cảnh này, trong truyền thống ngôn sứ sau này và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi Thần Khí ngự xuống đầy tràn trên các Tông Đồ (Cv 2: 16-21) và trong toàn thể Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân huệ của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của đoạn văn sách Dân Số nầy; bài học nầy được Tin Mừng hôm nay xác nhận.

BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)

Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.

Thánh Gia-cô-bê vừa mới bài xích sự khôn ngoan của thế gian (4: 13-17); giờ đây thánh nhân lên án những người giàu có tích trữ của cải bằng cách áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của thánh nhân thật dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than van”. Những lời nầy nhắc nhớ những lên án nghiêm khắc của các ngôn sứ. Ý tưởng thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những án phạt đang chờ đợi những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.

Sự phù du của tài sản:

Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất đống của cải và tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “Tài sản của các ông đã hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh nầy rất kinh điển. Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).

Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “Vàng bạc của các ông bị rĩ sét”. Thật ra, vàng không bị rĩ sét và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình ảnh thì rất mạnh: trước tòa án Thiên Chúa, việc tích trữ của cải cho riêng mình mà không chia sẻ với những anh em khốn khổ của mình là một trọng tội. Vì thế, thánh nhân khuyên: “Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”, tức là trong thời kỳ nầy, thời kỳ khai mạc kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất vào ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được xem là lời chúc phúc của Đức Chúa, phần thưởng cho những ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Một quan niệm như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến, những của cải tinh thần được dâng hiến cho con người cách phong phú và đòi hỏi một tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.

Người nghèo:

Thánh Gia-cô-bê còn phê phán người giàu có nặng lời hơn nữa: “Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chánh hay những thương nhân, nhưng những điền chủ. Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ phải được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của mình, như huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).

Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời gian, là vị phạm sự công bình giao hoán. Hiền nhân Si-rác đã bày tỏ nổi công phẩn trước những kẻ giàu có bắt tay với những kẻ quyền thế mà tước đoạt những phương tiện sống của những người nghèo: “Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).

Thiên Chúa của những người nghèo:

Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên cõi đất” nầy, những kẻ sống xa hoa vô độ trên xương máu của anh em đồng loại của mình, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, Đấng bênh vực những người nghèo. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh “ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ minh oan cho những người công chính và hủy diệt mọi kẻ gian ác.

Câu kết thúc của đoạn văn nầy quả thật khó hiểu: “Các ngươi đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi”. Vậy, ai là người công chính đã bị những người giàu có kết án và giết hại mà không hề cưỡng kháng? Có người nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người nghèo bị người giàu áp bức, bốc lột, tước đoạt đất đai như phương tiện sống, đó là tội sát nhân, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Người khác nghĩ rằng người công chính này được hiểu theo nghĩa tổng quát, đối lập với quân gian ác như các sách minh triết thường gợi lên. Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.

TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)

Trong bản văn Tin Mừng nầy, thánh Mác-cô quy tụ những giáo huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy nhiên, thánh ký không đánh mất mục đích của mình: Đức Giê-su huấn luyện các môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.

Tinh thần khoan dung của người môn đệ Chúa Ki-tô:

Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn nầy được khơi lên từ một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó không thuộc nhóm chúng ta, không theo phe chúng ta. Tháí độ bất khoan dung nầy của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con của Sấm Sét” (3: 17), sau nầy chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản ứng của thánh Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống như thái độ của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả trong Bài Đọc I.

Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn ngoan khi trả lời với thánh Gioan bằng một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người nầy nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức Giê-su, thì người ấy đã bước một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi. Ngài truyền cho các môn đệ phải trải lòng ra tối đa với bất cứ ai không công khai bày tỏ sự thù địch với các ông: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Những lời dạy nầy được giải thích tốt nhất chắc chắn được gặp thấy trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12: 3).

Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ tiếp đón, một thái độ bày tỏ sự thân thiện rồi.

Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động:

Được liên kết với Bài Đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền về những ân ban của Thần Khí, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của Ngài.

Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều là những thường dân, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những ngôn sứ của Ngài để nhân danh Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).

Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là, họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ: ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại nữa. Trái lại, các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ nầy mà Do thái giáo không đóng khung việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc hội hè, nhưng còn mở ra mối dây liên đới với anh chị em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn: “mến Chúa và yêu người”, của Đức Ki tô.

Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong dân Chúa chọn, nhưng tràn ra bên ngoài nữa, như câu chuyện của ông Bi-lơ-am (Ds 22-24). Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi không phải là người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng và nhạy bén trước tình đồng loại, họ xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm thế nào chúng ta không thể thấy rằng những thiện ý của họ phát xuất từ Thần Khí được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài, như lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3: 8).

Kính trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình:

Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin nầy. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.

Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mõng dòn, dể bị thương tổn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp nầy với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-Năm B

“Ở NHÀ”, VÀI LỜI NHẮN NHỦ- Chúa giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Đi theo Con Người

Chúng ta vẫn “ở nhà” tức tại Caphácnaum, nơi đây mang một ý nghĩa tượng trưng, nghĩa là nơi Đức Giêsu dạy dỗ riêng cho các môn đệ. Đức Giêsu dừng chân ở đây trên đường lên Giêrusalem. Người sẽ chịu cuộc tử nạn mà trước đây Người loan báo hai lần tại thành này.

– Đặt trong bối cảnh trên đường lên Giêrusalem, chúng ta sẽ rất dễ hiểu những lời Đức Giêsu. Trong “Tin Mừng theo thánh Maccô, B. Standaert nhận xét như sau: “Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ. Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích dẫn luật lệ trong Kinh Thánh này nọ, ông không nhìn nhận nền tảng đời sống luân lý Kitô giáo nào khác ngoài việc noi gương bắt chước Đức Kitô. Những trình thuật lớn loan báo số phận của Con Người thật ra không phải là những lời khuyến khích, nhưng khởi đi từ thân phận Đức Kitô, ta có thể hiểu ra những việc làm cần thiết mà người Kitô hữu phải tuân giữ. Ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống thực hành này là quyết liệt, không khoan nhượng. Thập giá hiện diện không những trong việc đảo lộn thân phận, làm cho người lớn nhất trở nên kẻ phục vụ mọi người, mà còn trong khả năng dám chặt tay, chặt chân, móc mắt bỏ đi, nếu những chi thể này làm cớ sa ngã”. (Cerf, tr. 78-79)

Những lời Chúa nói được Maccô thuật lại còn vượt ra ngoài phạm vi các môn đệ, để nhắm đến các cộng đoàn Kitô hữu. Điều này có thể làm cho óc suy luận kiểu Tây phương của ta kinh ngạc và lạc hướng. Điều quan trọng trong các những lời Đức Giêsu nói, không phải là những đề tài, mà là những từ đặt trong ngoặc kép, “nhân danh” Đức Giêsu, trong phần đầu đoạn Tin Mừng này, “kẻ bé mọn”và “làm cớ sa ngã” trong phần cuối.

Dẹp bỏ tinh thần bè phái.

Giáo huấn đầu tiên của Đức Giêsu phát xuất từ phản ứng bè phái của Gioan, con ông Giêbêđê, có biệt danh là “con của sấm sét” (3,17). “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy, mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Đức Giêsu không đồng ý, Người cảnh giác các môn đệ về nguy cơ muốn chiếm độc quyền về đức tin và Thánh Linh J. Hervieux cắt nghĩa: “Đức Giêsu không chấp thuận cho Hội Thánh của Người có “tinh thần kín cổng cao tường” “tinh thần pháo đài”. Lệnh của Chúa là phải mở rộng vòng tay đón tiếp hết thảy những ai không ló ra thù nghịch với mình. “Ai không chống lại chúng ta, ủng hộ chúng ta”. Chắc hẳn những lời này rất quan trọng đối với một Hội Thánh như cộng đoàn của Maccô, vì lú c đó cuộc bách hại thúc đẩy họ co cụm lại, sống kín cổng cao tường” (Lvangile de Marc”, Centurion, trang 137-138).

Chúa còn đẩy ý tưởng đó đi xa hơn, nên nêu thí dụ “ly nước lã” Một cử chỉ nhỏ bé nhất được thi hành giúp các môn đệ Người “vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” có giá trị trước mặt Chúa: “người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

Dám liều chọn lựa hy sinh.

Giọng điệu còn trở nên nghiêm trọng hơn với một chuỗi dài câu được liên kết bằng ‘từ mấu chốt’: “làm cớ sa ngã”.

Trước hết, một lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những người dựng lên chướng ngại vật, làm cho những “kẻ bé mọn” (tức là những tín hữu mà đức tin còn non yếu) bị vấp ngã. Ta còn nhờ thánh Phaolô đã cống hiến một phần lớn thư của Người bàn về nguy cơ làm cớ sa ngã. Khi giải thích cho những Kitô hữu đang hoang mang ở Côrintô rằng họ đã được giải phóng khỏi những luật lệ Do thái giáo, thánh tông đồ liền dặn thêm: “Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã… Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc” (1 Cor 8, 9-12).

Hôm nay từ miệng Đức Giêsu, chúng ta cũng đón nhận giáo huấn đó. Vào lúc, Đấng Mêsia-Tôi Tớ, đi lên Giêrusalem để trao nộp mạng sống vì yêu thương, Người long trọng tuyên bố: Trong cộng đoàn các môn đệ, phải hết sức tôn trọng người nhỏ bé nhất trong số các anh em của Người.

Kế đó là ba lời cảnh giác đối với ba chi thể của ta, vì chúng có thể lôi kéo người môn đệ sa ngã: “Nếu tay anh… Nếu chân anh… Nếu mắt anh…”

Quesnel tự hỏi: “Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu” (Mc 7, 21-22).

Ngoài ra, tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe.

Thật ra cách nói khoa trương cũng không phải là không có trong những câu có hình thức mâu thuẫn này. Hội Thánh không bao giờ giải thích theo nghĩa đen; ngôn ngữ thì đầy hình ảnh và có tác dụng là nhờ những câu đối lập nhau.Géhenne là thung lũng sâu khó xuống được, nằm ở phía dưới thành Giêrusalem, là nơi người ta đốt những rác rưởi, đồ phế thải, nên ở đó luôn xông lên mùi nồng nặc kinh khủng, như vậy, Géhenne đối lập với sự sống hay Nước Thiên Chúa. Mọi người cần tránh xa nó, vì đó là nơi tiêu huỷ tận diệt. Trái lại, sự sống và Nước Thiên Chúa là một thách thức đáng cho ta tận dụng mọi nỗ lực để đạt tới. Tất cả những gì làm ta tách xa sự sống và Nước Thiên Chúa đều xấu xa. Sự sống và Nước Thiên Chúa ấy đáng cho ta quyết tâm lựa chọn, dù có phải thiệt mất một phần thân thể. (Comment lire un évanglie Marc, Seuil, trang 170).

BÀI ĐỌC THÊM

Rừng cấm

Mọi câu lạc bộ ưu tuyển, dòng tộc, giáo phái hoặc ghettô, dù chúng thuộc dòng tu hay triều, thường gây ra và nuôi dưỡng những cơn ganh tị. Mọi cộng đoàn hoặc nhóm khép kín, co cụm, đều ra sức bám víu vào những đặc quyền, đặc lợi đã có.

Sách Dân số cung cấp cho ta một thí dụ điển hình. Khi Giosuê ganh tị, bực tức thấy có hai người nói tiên tri, mặc dầu họ không được uỷ quyền, cũng không được “thụ phong”. Họ là những tay săn trộm trong rừng cấm.

Đây cũng là một cơn ghen thực sự mà Gioan, đại diện cho Nhóm Mười Hai, mắc phải. Hãnh diện vì thuộc về nhóm tông đồ tuyển chọn và được quyền xua trừ các thần dữ nhân danh Giêsu, các ông thấy đặc quyền của mình bị đe dọa bởi ‘một người không đi theo Đức Giêsu mà làm được các phép lạ’. Các ông giận dữ, chống đối, tố cáo, đòi lên án. Khốn cho tên cạnh tranh bất lương!

Phản ứng và câu trả lời của Môsê cũng như của Đức Glêsu, tuy rất vắn gọn, nhưng mang cùng một ý nghĩa và một giáo huấn trong sáng có thể đưa đến những kết quả khôn lường. Các anh la lối tức giận vì thấy một điều thiện, một điều tốt được thực hiện bởi một người không công khai, chính thức thuộc về nhóm “ưu tuyển”, hoặc thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô sao? Trái lại, nào các anh không nên vui mừng vì thấy Thần Khí Chúa tỏ mình, và thấy thần dữ bị xua trừ sao? Các anh lấy quyền gì để hạn chế Thiên Chúa can thiệp; tự mình đặt ra những biên giới, những điều kiện bắt Thiên Chúa phải tuân theo? Các anh nghĩ rằng Thiên Chúa của Aùpraham, của Isaac, của Giacóp và của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, là tư hữu độc quyền của một dân tộc, một Giáo Hội, một đường lối tu đức, hoặc một đường lối mục vụ sao?

Trong lúc họp nhau cử hành Thánh Thể, ta ý tứ đừng tạo ra một “nhóm người sạch”, và hãy áp dụng cho ta lời Thánh Vịnh: sai có thể nhận ra những lầm lỗi của mình? Lạy Chúa, xin thanh tẩy con khỏi những tội con không hay biết. Xin gìn giữ tôi tớ Người khỏi tính kiêu căng: xin cho nó đừng bao giờ chiếm giữ lòng con”.

Cạm bẫy của ngôn từ “xin” và “cho” (Points de repère en pastorale sacramentelle”, Document – Episcopat, số 10-11, juin 94, introduction, trang 2 -3).

Chúng ta thường bị mắc kẹt bởi cách dùng ngôn từ: cho và xin. Ta tự nghĩ mình, và chỉ có mình, là những người cho, vì mình có các bí tích, như thể chúng ta tạo ra và phân phát các ơn lành do bí tích ban. Nhưng phải nhìn nhận rằng cả chúng ta cũng chỉ là những người xin khi lãnh nhân hoặc ban các bí tích. Vì lý do thần học, có một điều ta không dám nêu lên trong lãnh vực mục vụ bí tích, đó là Chúa Thánh Linh đã hoạt động trong tâm hồn con người trước chúng ta, và rằng Nước Thiên Chúa luôn vượt ra ngoài ranh giới của Giáo Hội hữu hình. Nhờ hoạt động của mình, Thánh Linh thực hiện tác vụ ngôn sứ nơi những người nhận lãnh, để mạc khải cho ta công trình Thiên Chúa thực hiện nơi họ.

(..) Nói cách khác, chúng ta cần học hỏi nơi những người đến với ta hoặc ta đến gặp họ: đó là học để biết nhìn họ với con mắt khác, để tìm ra một điểm gặp gỡ khác, chứ không chỉ qua các bí tích. Phải chấp nhận để Thánh Linh được tự do nói với ta qua họ, về Thiên Chúa và về cách khám phá ra Người.

Vì những lý do này, mục vụ bí tích không chỉ là mục vụ đức tin hoặc khai mở đức tin. Nó còn là mục vụ tình thương vô vị lợi, biết đón tiếp và biết lắng nghe. Chúng ta có thể cải hoá bản thân mình nhờ điều mà những người này nói với ta về cuộc sống của họ, hoặc nhờ những câu họ hỏi về Thiên Chúa, về Hội Thánh, nhất là khi lòng họ bị tổn thương, oán giận hoặc những ước muốn mơ hồ.

Đón tiếp luôn đi đôi với cố gắng để nhận định những mong muốn thầm kín thường được che giấu bởi một đòi hỏi trực tiếp.

Tự do của Thiên Chúa (Các Giám mục Pháp, trong “Lettre aux catholiques de France”, Cerf, trang 76-77).

Kinh nghiệm về việc Phúc âm hoá ngày nay giúp ta có nhận xét sơ khởi này: ngày nay trong xã hội chúng ta, có một số nơi đang mong đợi điều gì đó từ Hội Thánh, và họ có thể bày sự mong đợi đó khi tiếp xúc với Hội Thánh bằng cách này hay cách khác: hoặc đến xin lãnh bí tích rửa tội, hôn phối; hoặc vào lúc, những biến cố vui mừng hay thử thách xảy ra trong đời họ; hoặc do tình cờ họ gặp một cộng đoàn Kitô hữu, một nhóm nào hoặc cũng có thể họ gặp một phong trào có tổ chức, giới thiệu cho họ con đường khai tâm dẫn tới Tin Mừng, tuỳ theo hoàn cảnh sinh sống của họ.

Ta không công nhận rằng: những gặp gỡ như vậy thường chất vấn ta và đẩy lùi kiểu lô-gíc truyền giáo đã in sâu trong tâm trí ta đó sao? Bởi vì theo lô-gíc thương mại, hoặc lô-gíc chức năng, chúng ta tưởng rằng muốn truyền giáo, Giáo hội cần phải giữ một thứ luật cung cầu, nghĩa là Giáo Hội ở phía người cung, còn những kẻ khác, những người mong đợi, ở phía người cầu.

Trong hoàn cảnh thực tế cũng như trong kinh nghiệm thực tiễn mà Giáo Hội có qua sự gặp gở những người này, điều gì đã thực sự xảy ra và con đường dẫn tới đức tin đã diễn tiến như thế nào?

Không được phép coi những người mong đợi này như những khách hàng của Giáo Hội luôn sẵn sàng tiêu thụ điều mà chúng ta bày ra, theo kiểu lô-gíc thương mại. Trước hết, ta nên nhở, họ là những người nam hoặc nữ, do lòng mong đợi và sự tìm kiếm, họ làm chứng cho sự tự do của Thiên Chúa và công việc của Chúa Thánh Linh, Đấng có thể khơi dậy nơi mọi người ước muốn vượt lên trên những gì họ đang sống. Bằng cách thế, đôi khi gây sửng sốt, họ nhắc nhở ta rằng địa chỉ hàng đầu cho Phúc âm hoá chính là cuộc sống con người, rằng sẽ không có Phúc âm hoá nếu không có đối mặt thực sự giữa Tin Mừng Đức Kitô, mạc khải của Thiên Chúa và sự mong đọi thẳm sâu nơi mỗi người.

Nhưng đối lại, khi hiểu được mong đợi của con người và đáp lại lòng mong đợi ấy, Giáo Hội có trách nhiệm phải bày tỏ cho thấy, Giáo Hội không chỉ muốn đáp lại những mong đợi tức thời của họ, mà còn có sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu, sứ mạng đó là trình bày và mở đường dẫn họ đến với Người.

Trong nhiều cộng đoàn và các nhóm khác nhau, Giáo Hội được mời gọi không những phải đón tiếp rộng rãi và vô vị lợi rnà còn phải tỉnh thức tích cực, để nhận ra những dấu chỉ bất ngờ của Chúa qua vô số những đòi hỏi của con người thời nay, đồng thời cũng hiểu rằng những đòi hỏi này kêu gọi có một cuộc khai tâm kéo dài dẫn đến mầu nhiệm Đức Kitô, Lời Người, các bí tích và sự sống mới mà Người là nguồn mạch”.

home Mục lục Lưu trữ