Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1378259

AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KI TÔ HỮU

Ai yêu thương đều là Kitô hữu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần một người, người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một bà lão. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêsa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy tình thương yêu.

Người đàn bàn đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêsa bằng một giọng thều thào: “Tại sao bà lại làm như thế?”

Mẹ Têrêsa trả lời:

– “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”.

Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.

– Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!

– Tôi rất yêu mến bà, Mẹ Têrêsa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.

– Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà!

Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêsa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời nầy…

Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêsa đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta – “Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta” – Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lời di chúc của người sắp ra đi thật là trang trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã khẳng định đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!

Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.

Nhưng, thưa anh chị em, yêu thương nhau, đâu phải chỉ có kitô giáo mới giảng dạy. Văn hoá Á Đông đã từng nêu châm ngôi: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn biển là anh em. Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.

Vậy thì giới răn yêu thương của Kitô giáo có đem đến cái gì mới mẻ hơn chăng?

Chỉ dựa vào lời di chúc của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn, chúng ta đã tìm ra được nét độc đáo và đặc thù của tình yêu Kitô giáo. Đó là yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu.

Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là “tình anh em máu mủ”, cũng không còn là “bản thân mình” nữa. Mẫu mực, thước đo của tình yêu Kitô giáo là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo so sánh: “Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13).

Đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.

Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc sống hằng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta cũng vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình yêu tha nhân trong một mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều mạng” để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, có thể là linh mục chánh hay phó xứ, có thể là một anh chị em trong cộng đoàn, có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái lý luận trần tục: người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì “người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”. “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Vậy, ai không yêu thương nhau, người ấy không phải là Kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.

Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoảng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.

 

43. Đặc điểm của đức ái

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

Cách đây chưa lâu, tôi được mời tham dự vào một buổi bàn cãi về vấn đề “Hiệp nhất các giáo phái kitô giáo ly khai”, do một số các gia đình tổ chức. Buổi bàn cãi rất sôi nổi, và tôi còn nhớ ý kiến của một người phụ nữ đầy vẻ nóng nảy, nhìn về hướng tôi với những lời phát biểu như sau: “Các nhà thần học các ngài thật sự là những cái gông kìm hãm trên con đường tiến về sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Với vô số các lý thuyết của mình, các ngài đã làm cho Kitô giáo trở nên quá phức tạp và mù mịt, đến nỗi – do chấp nhất vào các hệ thống và tư tưởng thần học trừu tượng – chính các ngài cũng không còn nhìn thấy được chân lý đơn sơ của Kitô giáo nữa! Vâng, thật ra trọn vẹn niềm tin Kitô giáo chỉ có thể tóm tắt trong một câu hết sức đơn giản: Con người cần phải yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như chính mình. Chính trên nền tảng này, chính trên giáo huấn rõ ràng và quan trọng này, sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu phải được thể hiện. Thế tại sao sự việc lại trở nên quá phức tạp như thế?”

Và sau khi người phụ nữ vừa chấm dứt lời phát biểu của mình thì một tràng pháo tay tưởng thưởng của hầu hết mọi người hiện diện đồng loạt nổi lên! Và tất cả mọi con mắt trong phòng đều căng thẳng và tò mò đổ dồn về phía tôi, như chờ nghe sự tự bênh vực và bào chữa của tôi trước một lời phê bình quá thẳng thừng như thế! Và sự việc thiết tưởng không hề đơn giản chút nào! Chính Ðức Giêsu cũng đã phát biểu những lời phê bình thẳng thắn như thế đối với các vị kinh sư và các nhà thần học ngày xưa, vào thời của Người, là những người cũng vì tự giam mình trong đủ các thứ luật lệ và giáo điều rườm rà nên không còn phân biệt và khám phá ra được đâu là điều chủ yếu và cao trọng nhất trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nữa! Vì thế, ngoài dự đoán của mọi người có mặt hôm đó, tôi đã tán đồng ý kiến của người phụ nữ đó: Bà ta có lý! Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể phủ nhận được những sự khác biệt và những rào cản quan trọng – nhiều khi khó lòng vượt qua – giữa các giáo phái thuộc Kitô giáo, cũng như giữa các kitô hữu.

Vâng, đức ái thực sự là trọng điểm có tính cách quyết định của Kitô giáo, là sự hoàn tất mọi lề luật! Nhưng phải chăng đó là một điều đặc biệt? Phải chăng giới luật đức ái – nhiều hay ít – không phải là nền tảng cho mọi tôn giáo? Phải chăng chỉ Kitô giáo mới có thể sở hữu danh từ và giới luật đó cho một mình mà thôi? Phải chăng chúng ta không tìm gặp giáo lý nền tảng đó trong Hồi Giáo, Phật Giáo và trong các tôn giáo lớn khác trên thế giới? Mặc dù trong thực hành, mỗi tôn giáo áp dụng giới luật từ bi bác ái mỗi khác, theo nhân sinh quan và vũ trụ quan của tôn giáo đó, nhưng trên nguyên tắc, đã là một tôn giáo thì tôn giáo nào cũng đều luôn luôn nhắm tới đức ái để hành đạo.

Phải chăng là một thái độ mang vẻ trịnh thượng khi chúng ta nghe đọc trong bài Tin Mừng hôm nay những lời: “Thầy ban cho các con một giới răn mới”? Và đâu là điều mới mẻ trong giới răn này? Phải chăng danh từ “mới mẻ” ở đây được hiểu là: vì chúng ta thường hay quên giới luật nền tảng đó, nên cần phải luôn nhắc nhở lại?

Chiếc chìa khóa để hiểu được ý nghĩa bài Tin Mừng nằm ở phần hai của câu nói mà chúng ta đang bàn tới: “…, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Ðức Giêsu ban cho chúng ta một chuẩn độ mới, khi Người nói về đức ái, cũng như Người muốn cho người ta phải hiểu đức ái là gì, đó chính là Người: “Thiên Chúa là tình yêu!”

Và ý nghĩa sâu xa là ở chỗ: Chính lúc Ðức Giêsu ban cho các môn đệ giới luật đức ái, thì Giu-đa Ít-ca-ri-ốt rời phòng Tiệc Ly ra đi, bấy giờ định mệnh của Ðức Giêsu đã được quyết định, bấy giờ nhân loại đã sẵn sàng phản bội, bắt trói, kết án, hành hạ và giết hại Người, và – như tất cả chúng ta đều biết – không vì bất cứ lý do một tội phạm nào, nhưng chỉ vì tình yêu xã kỷ và triệt để của Người đối với nhân loại. Cuộc khổ nạn thập giá của Ðức Giêsu đã mặc khải cho thấy đâu là tình yêu đích thực và đâu là tình yêu và tính cách nhân bản tạm thời hạn hẹp!

“Các con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con!” Ðó là giới luật đức ái của Ðức Kitô. Nhưng để biết được các hành động và chính cuộc sống chúng ta còn cách xa với giới luật đó như thế nào, thì người ta có thể đọc thấy được qua thái độ dửng dưng và xa lạ của chúng ta trước cuộc sống đầy bác ái của bao vị thánh nhân, như: Phan-xi-cô As-si-si, Ma-xi-mi-li-an Kol-bê hay Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta, v.v…Ðức tin Kitô giáo của các ngài đối với chúng ta xem ra thái quá, hơi sôi nổi, không bình thường. Nhưng thực ra sự thật lại ngược lại: Ðức ái triệt để của các vị thánh nhân vạch trần quan điểm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là: còn thiếu thốn hạn hẹp, chưa dứt khoát và chưa thành tâm!

Tất cả chúng ta đều biết rõ là cuộc sống và cách cư xử của chúng ta, những kitô hữu bình thường, hãy còn cách xa với chuẩn độ về đức ái mà chính Ðức Giêsu đã thiết đặt bằng chính sự sống và cái chết của mình. Vâng, chẳng những còn cách xa, nhưng trong thực tế, cái chuẩn độ về một đức ái triệt để như thế hầu như chỉ là một điều lý tưởng, nếu không nói là một ảo tưởng, khi so sánh với thái độ sống cụ thể của con người!

Mặc dầu thế, ở đây khi nhìn vào con người cụ thể người kitô hữu, tôi xin mượn phép định nghĩa rằng: Người kitô hữu là một người luôn nỗ lực vươn tới cái ảo tưởng về tình yêu đó. Theo ý nghĩa này, có lẽ ở đây câu nói của cố tổng thống Do-thái, David Ben Gurion (1886-1973), được áp dụng cho chúng ta, những kitô hữu: “Ai không có ảo tưởng, thì không phải là một người thực tế!”. Amen.

 

44. Yêu như Chúa đã yêu

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Có con là điều tuyệt vời nhất đối với nhiều phụ nữ. Tuy nhiên, để đứa con chào đời khỏe mạnh, người mẹ đã phải chịu đựng và vượt quá rất nhiều khó khăn thử thách, thậm chí hy sinh cả mạng sống của mình. Tất cả những điều đó đã xảy ra với một bà mẹ Mỹ, người gần như bị chết ngay trên bàn đẻ, nhưng được chính đứa con sơ sinh của mình cứu sống kỳ diệu một tuần sau đó.

Cặp vợ chồng Shelly và Jeremy Cawley đã vô cùng hạnh phúc chờ đón đứa con gái đầu lòng của họ – Rylan – chào đời. Giống như bất kỳ gia đình trẻ nào khác, trước đó, họ đã đi mua sắm rất nhiều quần áo và đồ dùng trẻ em, cũng như trang trí nhà cửa để chuẩn bị đón chào thành viên mới.

“Tôi nhớ rất rõ mình nằm trên một cái cáng và được đưa đến phòng mổ. Tôi đã khóc và nói với các bác sĩ rằng, tôi rất sợ mình sẽ không tỉnh dậy sau ca mổ đẻ. Điều kỳ dị là, những lo lắng của tôi đã trở thành hiện thực”, bà mẹ trẻ Shelly kể lại những gì mình đã trải qua. Trong ca mổ đẻ cấp cứu sau đó, bé Rylan đã chào đời an toàn và khỏe mạnh. Song, mẹ của em bị một cục máu đông lớn làm tắc nghẹn các động mạch chính, khiến cô rơi vào trạng thái hôn mê ngay trên bàn mổ. Các bác sĩ phát hiện, hai buồng phổi Shelly ứ đọng rất nhiều dịch, gây khó khăn trong việc cung cấp oxy cho não và làm giảm huyết áp của cô. Sản phụ trẻ được cho dùng máy hô hấp nhân tạo để duy trì sự sống, trong khi các bác sĩ tìm mọi cách cứu sống cô.

Sau một tuần hôn mê, chẳng còn mấy hy vọng sống dành cho Shelly. Trong một nỗ lực cuối cùng, trước khi chính thức tuyên bố bà mẹ trẻ đã chết, các bác sĩ đã thực hiện một hành động được cho là mang tính trực giác nhiều hơn khoa học. Họ đặt bé Rylan lên trên ngực Shelly, để hai mẹ con chạm vào da của nhau lần đầu tiên và kích thích để đứa con khóc bên bầu vú mẹ.

Và điều kỳ diệu thực sự đã xảy ra. Shelly bắt đầu bộc lộ các dấu hiệu sự sống. Trước sự kinh ngạc và vui sướng của mọi người, bà mẹ trẻ dần hồi sinh từ cõi chết và hiện đã hồi phục hoàn toàn.

“Tôi nghĩ đây là điều rất đáng kinh ngạc. Một đứa trẻ vô cùng non nớt (mới 1 tuần tuổi) lại có thể mang đến ảnh hưởng lớn đến như vậy. Trong lúc vô vọng, các bác sĩ gần như đã không thể làm được gì, nhưng con bé (Rylan) lại có thể… Tiếng khóc của con có thể đã tiếp cho tôi sinh lực để chiến đấu giành giật sự sống”, Shelly bộc bạch. Cô và chồng đã viết một cuốn sách về câu chuyện kỳ lạ của mình với hy vọng sẽ tạo nên cảm hướng cho những người khác vững niềm hy vọng trong cuộc sống. (Tuấn Anh, Bé một tuần tuổi cứu mẹ thoát chết kỳ diệu, theo Diply, USA Today)

Chính cháu bé Rylan bất ngờ đánh thức tình mẫu tử kỳ diệu, đã cải tử hoàn sinh cho mẹ Shelly. Một dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời. Tình yêu nhân trần tuy còn bất toàn, hạn hẹp, mong manh vẫn là thần dược cứu sống. Tuy nhiên,“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49, 15) Tình Chúa cao siêu, tuyệt diệu, vô biên, vượt trội hơn cả mối tình mẫu tử, còn thương ban cho con người được ân hưởng phúc trường sinh.

Yêu như chính mình

Trong chương 19 sách Lêvi, nêu ra chỉ thị về luân lý, những điều cấm đoán, nhưng nổi bật một điều khẳng định:”Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại (tha nhân) như chính mình.”(Lv 19, 18) Tuy nhiên tình yêu quy chiếu bản thân làm tiêu chuẩn, thường mỏng dòn, thiếu hoàn hảo, khó trường tồn, vì con người vốn yếu đuối, mong manh, dễ thay đổi, mau lung lạc theo thời gian và không gian.

Tình yêu con người bất cập, vì thường lệ thuộc vào tâm trạng bất an, hay bất thường do hoàn cảnh, môi trường tác động, nên dễ dàng biến chuyển, phai màu, thay đổi, sáng nắng chiều mưa.“Yêu nhau chưa ráo mồ hôi, chưa tan buổi chợ, đã rời nhau ra!” (Ca dao)

Tình yêu con người bất hạnh, vì thói bái vật, thực dụng, tôn thờ tiền tài, danh vọng, chức tước, quyền lực. Những ảo ảnh phù phiếm không bao giờ đủ, không bao giờ thoả mãn bản năng thú tính và dục vọng bất tận.“Hồi nào nhắn xuống nhắn lên. Bây giờ em đứng một bên anh không nhìn.” (Ca dao)

Tình yêu con người bất hảo, vì lòng vụ lợi ngăn cản, vây hãm, áp đảo, chế ngự. Muốn được phản hồi, mong được đáp lại, ước được đền ơn đáp nghĩa, thích được trân trọng, quý mến, ái mộ. “Trách người quân tử bạc tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!” (Ca dao)

Tình yêu con người còn bất toàn, vì bị hạn chế bởi vị kỷ. Muốn chiếm hữu, hưởng thụ, lạm dụng, tham lam, vơ vét, tích luỹ vào cái tôi bần tiện, bon chen, hẹp hòi, ganh tương, dối trá, tị hiềm. “Có chả em tình phụ xôi. Có cam phụ quýt, có người phụ ta.” (Ca dao)

Yêu như Chúa đã yêu

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13, 34) Chúa Giêsu trao cho nhân loại Điều Răn Mới: Anh em hãy yêu thương nhau không như Lề Luật cũ đã ấn định: như chính mình, mà như Thầy đã yêu thương anh em. Đó chính là tình yêu phục vụ, khoan dung, hiến tế.

Xả kỷ, bỏ mình, khiêm tốn, cúi mình, quỳ xuống, hầu hạ rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn công khai biểu lộ và nêu gương sáng ngời tình yêu phục vụ.“Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”(Ga 13, 14-15) Không phải chỉ là một gợi ý, mong ước đơn thuần, nhưng chính là một mệnh lệnh rất cấp bách, minh bạch, rõ ràng và thực tế dành cho những ai muốn đi theo Người.

Với môn đệ Giuđa phản bội, Đức Giêsu hết lòng khoan dung, tha thứ, từ ái, nhẹ nhàng, thân thương nhắc nhủ hồi tâm, cảnh tỉnh trước mặt các đồng môn.”Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.”(Ga 13, 21) Nhưng ông Giuđa chẳng hề tỏ ra động lòng, nghĩ lại, trở về. Xót xa, đau buồn, nhẫn nhục, Người đành công khai, thẳng thắn cho mọi người biết đó là ai.”Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy… Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: “Rápbi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: “Chính anh nói đó!” Nhưng lòng chai dạ đá, Giuđa cứ cố chấp, tiếp tục lún sâu vào tội ác. Người đành tế nhị, ý tứ nhắc riêng:”Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13, 27) Dẫu vậy, Người vẫn tỏ ra tiếc thương, không cứu vãn nổi người môn đệ bạc nghĩa, phụ tình.” Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26, 23-25)

Với ông Phêrô sẽ xúc phạm thô bạo, Người cũng bình thản tỏ lòng rộng lượng, ưu ái, ân tình, chua xót cảnh báo:”Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.”(Ga 13, 38)

Khi kẻ thủ ác vừa rời bàn tiệc, Đức Giêsu liền công bố cuộc khổ nạn bắt đầu khởi sự. Người sắp trở nên Con Chiên hiến tế, chuộc tội cho toàn thể nhân loại. Trung thành vâng lời Đức Chúa Cha, Người chịu khổ nhục, chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá. Đó chính là thời điểm Người được tôn vinh trọn vẹn qua Tình Yêu hiến tế “Khi Giuđa đi rồi, Ðức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người, Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” (Ga 13, 31-32)

Yêu là dấu chỉ Kitô hữu

Lời trăn trối cuối vô cùng thấm thía và cảm động của Đức Giêsu đến nay vẫn còn mãi vang vọng trên thế gian:“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35) Yêu thương tha nhân như Người để làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô. Nhưng yêu như Thầy Giêsu đã yêu chẳng phải dễ dàng thực hành, vì chẳng phải yêu trong chốc lát, tuỳ hứng, tuỳ tiện, mà phải yêu suốt đời, cho đến hơi thở cuối cùng, thật là một thách đố ngặt nghèo cho tất cả Kitô hữu. Hoàn toàn bất khả thi, nếu không có Đức Chúa Thánh Thần yêu thương, ban thêm sức mạnh tình yêu, lửa mến, niềm tin, đức cậy.

“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: tình yêu Chúa đổ vào quả tim con.” (Đường Hy Vọng, số 178)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin giúp chúng con biết bỏ mình, từ bỏ bản thân, khiêm nhu, hiền lành, khoan dung, thứ tha yêu thương phục vụ tha nhân, nhiệt thành sống cho tha nhân. Sẵn sàng chịu hao mòn, chịu tan biến, để bừng lên ngọn lửa mến sưởi ấm tha nhân, đang cơ cực vì thế gian băng giá, lạnh lùng, vô tình.

Kính xin Mẹ Maria luôn cầu bầu, nhắc nhở, răn dạy chúng con biết thiệt sự yêu thương, bác ái, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, nhất là những người khốn khổ, đang bị bỏ rơi, khinh miệt, bên lề xã hội, để thế gian nhận ra chúng con chính là môn đệ của Chúa. Amen.

 

45. Tình yêu, Điều Răn mới

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Tháng 3 năm 1930, Lm Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp về nhận họ đạo Tắc Sậy. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ, thành lập nhiều họ đạo vùng phụ cận như: Bà Ðốc, Cam Bô, An Hải, Ðầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Ðồng Gò, Rạch Rắn.

Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà con dân chúng di tản, Cha Bề Trên điạ phận Phêrô Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và cả người Pháp cũng gọi ngài lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì trở về họ đạo, nhưng ngài trả lời: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên. Tôi không đi đâu hết.”

Ngày 12-3-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại lẫm luá của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi của giáo dân, ngài đã chết thay thế cho những người bị bắt chung.

Ngài mất trong khi thi hành nhiệm vụ chủ chăn. Xác ngài được vớt lên từ một cái ao của ông giáo Sự, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.

Thi hài ngài được chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo. Ðến năm 1969, hài cốt ngài được di dời về nhà thờ Tắc Sậy, nhiệm sở của ngài thi hành chức vụ chủ chăn trong 16 năm. Ngôi nhà mồ của ngài hiện nay, được trùng tu và khánh thành ngày 4-6-1989. Ngài là Cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy. (Lm Nguyển Ngọc Tỏ, Tiểu sử Lm Fx Trương Bửu Diệp)

Trích thuật Tin Mừng thánh Gioan hôm nay loan báo Chúa Giêsu ban cho các môn đệ một Điểu Răn Mới. ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Gioan 13, 34 -35). Điểm quan trọng nhất là“anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

Trong Kinh Thánh tiếng Hy Lạp có tất cả bốn chữ để diễn tả tình yêu: eros là tình yêu trai gái; philio là tình yêu giữa bạn bè; storge, tình yêu giữa anh chị em trong gia đình; và agape, là tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện.

Tình Yêu agape được Chúa Giêsu đề cập đến khi hỏi ông Phêrô: “Này anh Simon con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?“ (Ga 21, 15). Như vậy Tình Yêu agape trọn vẹn siêu việt trong Điều Răn Mới phải rất đặc biệt.

Yêu một chiều

Tình yêu thông thường như eros, philio, storge thì luôn luôn đòi hỏi hai chiều, âm hưởng giữa hai đối tượng. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Có đáp ứng lại với nhau, mới phát sinh tình cảm yêu thương. Nhưng Tình Yêu agape trái lại, chỉ duy nhất một chiều, không cần điều kiện vì, do hay nếu, không mong chờ đền đáp, dù rất mong muốn.

Vì là một chiều, Tình Yêu agape mới có thể vươn xa, ra khỏi bản ngã, cái tôi đáng ghét, ra bên ngoài mối thân thích, họ hàng, bạn bè quen thuộc, đến với kẻ xa lạ, thậm chỉ đến với cả địch thù, chống báng, đối đầu, bất cộng đái thiên.

“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc 6, 27-28)

Không những yêu thương kẻ thù, mà còn chúc lành và cầu nguyện cho kẻ thù nữa. Hoặc cho vay, mà chẳng mong đển trả, khác chi cho không biếu không, nói tắt là Tình Yêu agape trao tặng vô điều kiện.

“Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” (Lc 6, 35)

Yêu là chết đi

Nếu không dẹp đi những cản trở vị kỷ, thì không thể chân thành yêu thương người khác được. Những toan tính vụ lợi cá nhân ngăn chận bước chân thân tình đến với tha nhân. Lòng tự phụ, kiêu căng, sĩ diện, so đo, đố kỵ, tham lam, ác độc, chỉ hoàn toàn phủ nhận, hạ bệ, chà đạp tha nhân, thay vì đón tiếp vào vòng tay nhân ái. Do vậy, cần chết đi cách sống cũ ích kỷ, bất nhân, từ tâm tưởng, lời nói và hành động, nếu muốn yêu thương theo Chúa Giêsu.

“Những ai thuộc về Đức Kitô thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.” (Gl 5, 24)

Cha Phanxicô Xaviê Trưởng Bửu Diệp đã mạnh dạn ra đi theo Chúa, gắn bó với sứ vụ mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho Tình Yêu agape trọn vẹn viên mãn.

Yêu là sống cho

Chết đi những thói hư tật xấu, những đam mê phù phiếm, những ham muốn xác thịt, để Tình Yêu agape có thể phục vụ tha nhân trong sự khiêm hạ và thân tình. Như thế Tình Yêu agape sống cho tha nhân, cũng như sống cho Chúa, chứ không còn ràng buộc vào sống cho mình, mưu cầu hạnh phúc bản thân.

“Chúng ta có sống là sống theo Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14, 8)

Với Tình Yêu agape trọn vẹn của Chúa, sống cho tha nhân trong tinh thần khiêm tốn, biết quên mình phục vụ, như Chúa từng khiêm hạ, quỳ xuống rửa chân các môn đệ.

“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20) Thánh Phaolô đã xác tín mạnh mẽ như thế trong Thư gửi tín hữu Galat.

Các thánh càng già thì quả tim họ càng trẻ. (Đường Hy Vọng, 177)

Đừng để tháng ngày làm quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: Tình yêu Chúa đổ vào quả tim con. (Đường Hy Vọng, 178)

Lạy Chúa Giêsu, xưa Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, xin cho con noi gương Chúa, biết khiêm hạ, bỏ mình và phục vụ trong Tình Yêu dâng hiến trọn vẹn.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con nuôi dưỡng Tình Yêu agape trọn vẹn của Chúa, để con biết tha thứ, quên hết hằn thù, chúc phúc và cầu nguyện cho những người ám hại con. Amen.

 

46. Tôn vinh – Lm. Vũ Đình Tường

Hy sinh lớn, tôn vinh lớn; hy sinh nhỏ, tôn vinh nhỏ. Tôn vinh lớn nhất, cao trọng nhất, trọn vẹn nhất là thí mạng sống cho người mình yêu như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha xuống thế để thực hiện trọn vẹn ý Chúa Cha.

Ta đến không phải để làm theo ý Ta mà làm theo ý Đấng đã sai ta (Gn 6,38)

Đức Kitô thể hiện ý đó bằng con đường khổ nạn, con đường thập giá, con đường bị chính môn đệ mình bán rẻ, chối bỏ, phân tán và lẩn trốn sau cửa then cài vì sợ.

Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình chết cho người mình yêu (Gn 15,13)

Đức Kitô yêu mến Chúa Cha đến nỗi – thể hiện ý Cha – chết trên thập tự, ban ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài chấp nhận hy sinh với í chí sắt son, quyết tâm vượt qua tất cả mọi chướng ngại, rào cản, vực sâu. Không gì ngăn cản, lay chuyển, tình yêu Ngài dành cho Cha. Ý Ngài đã quyết và Ngài quyết tâm thực hiện tốt đẹp, trọn vẹn điều mình đã quyết. Ngài chấp nhận mọi đau khổ rùng rợn, hành hạ thân xác.

Họ thay nhau nguyền rủa, xỉ nhục, vu vạ, cáo gian; Ngài đứng lặng câm, ngán ngẫm lời thề gian, làm chứng dối của người không tôn trọng sự thật. Nghe những lời đó tinh thần ngài đau khổ đến chết được nhưng Ngài không hề đối chất.

Linh hồn Thầy đau buồn đến nỗi chết (Mt 26,38)

Nhìn những cánh tay dâng lên nắm chặt hung hăng thét ‘giết nó đi’, giết nó đi’ khiến Ngài liên tưởng đến tính bồng bọt, háo thắng của con người. Kẻ chống đống Ngài nghĩ giết chết thì còn chi để nói, để sợ. Họ đã lầm và lầm lớn. Chính lúc Ngài chết đi lại là lúc thức tỉnh lương tâm người lính gác dưới chân thập tự khi anh ta tuyên xưng,

Người này quả thật là con Thiên Chúa (Mt 27,54)

Kẻ mưu toan đóng đinh giết Đức Kitô, ngày họ mất an; đêm mất ngủ, lo lắng vì tin Ngài sống lại từ cõi chết. Tổ chức họp kín liên miên. Tìm cách dậy lính phao tin dối trá. Họ chạy cửa trước, luồn cửa sau, lo đủ tiền đút lót. Ban hành lệnh lạc, ra sức đối phó, bịt miệng dân chúng đồn thổi tin Đức Kitô Phục Sinh. Họ đóng đinh diệt khẩu không ngờ có hàng triệu triệu môi miệng ngày đêm cao rao, ca tụng Đấng bị diệt khẩu. Đấng một thời rao giảng giờ đây trở thành Đấng được mọi thế hệ rao giảng.

Vui mừng

Đức Kitô vui mừng khi thấy giờ hiến tế đến gần. Giờ Ngài từ lâu mong đợi. Không phải Ngài ham chết, sợ sống hay coi thường sự sống. Vì yêu quí sự sống nên Ngài tự hiến để ban sự sống trường sinh cho toàn dân. Qua đó Ngài tôn vinh Chúa Cha.

Con Người được tôn vinh. Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (Gn13,31)

Hoa trái của tôn vinh

Cái chết và sự Phục Sinh của Ngài mang lại hoa trái đầu tiên để tôn vinh Chúa Cha. Lịch sử nhân loại từ trước tới nay và từ nay về sau, sẽ không còn tôn vinh nào cao quí, tuyệt vời hơn tôn vinh Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Tôn vinh cao cả vô song Ngài thể hiện trên thập tự. Tự hiến giọt máu cuối cùng trong tim diễn tả tình yêu tuyệt vời dành cho Cha.

Thứ đến là hoa quả ơn cứu độ Đức Kitô ban cho con người. Những ai tin vào Ngài nhận sự sống trường sinh.

Hoa quả cho vũ trụ là toàn thể vũ trụ được đổi mới nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Thánh Gioan (Kh 21,1) nhìn thấy trời mới, đất mới mở ra cho toàn dân. Đức Kitô Phục Sinh Vinh Hiển luôn ở với dân Ngài. Một dân được tuyển chọn bằng máu của con Chiên hiến tế là chính Đức Kitô chịu đóng đinh, ban ơn cứu độ cho những ai tin, sống tinh thần Tin Mừng. Lời loan báo xưa của thiên sứ thể hiện,

Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta trong thành vua Đavít. (Luca 2,10)

Các phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm nghe thiên sứ loan báo, Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói (Mat 28,6).

Đổi mới

Trong Cựu Ước Yavê Thiên Chúa đổi mới qua trận lụt Đại Hồng Thuỷ. Chỉ ít người ngay lành sống sót.

Đức Kitô hiến tế để đổi mới, không phải huỷ diệt mà là đổi mới. Vẫn trời cũ, đất cũ, vũ trụ cũ, con người cũ. Đổi mới đến cho những ai chấp nhận ơn Cứu Độ Đức Kitô ban. Ơn cứu độ thay đổi con người từ nội tâm đến lối sống. Trong tinh thần đổi mới đó người ta sống với nhau bằng yêu thương. Cư xử với nhau bằng bác ái. Thông cảm cho nhau bằng thứ tha và giao hoà. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là Anh em có lòng yêu thương nhau c.35

 

47. Giới răn yêu thương – Flor McCarthy.

Suy Niệm 1. ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC

(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Viết về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để được sống còn. Người ta sống nhờ những gì mà người ta cho đi.

Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng lên các rào cản, cả những bức tường giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi tình cảm sâu sắc, quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em và chị em, người yêu là điều sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục của tính ích kỷ.

Brian Keenan trải qua bốn năm bị giữ làm con tin ở Li-băng. Sau đó, ông đã viết:

“Chỉ khi chúng ta vượt qua chính mình để cứu mạng, hiểu biết và sau cùng khắc phục nỗi đau của người khác mà chúng ta trở thành chúng ta trọn vẹn. Chúng ta trở nên cởi mở và phong phú khi nhận ra nỗi đau của người khác và tiến đến cảm nhận và cưu mang”.

Tình yêu luôn luôn đòi hỏi điều tốt nhất của chúng ta và thể hiện điều tốt nhất trong chúng ta. Được yêu thương cho người ta một lòng can đảm và năng lực lạ lùng. Khi yêu cũng thế, người ta nói: tình yêu và năng lực sẽ được ban cho bạn, ở đâu có tình yêu lớn, ở đó luôn có phép lạ. “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta, đem lại năng lực cho tinh thần và cung cấp đam mê cho đời sống của chúng ta. Nó là sự liên kết của chúng ta với Thiên Chúa và người khác” (Elizabeth Kubler-Ross).

Khi bước vào nhà tù, Oscar Wilde nói: “Bằng mọi giá, tôi phải giữ gìn tình yêu thương trong lòng tôi. Nếu tôi vào tù mà không có tình yêu thương thì linh hồn của tôi sẽ ra sao?”.

Nếu không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng những người sống yêu thương, có một đời sống phong phú và hiệu quả. Mục đích của đời sống là gì nếu không phải là yêu thương? “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học toả sáng tình yêu thương” (William Blake). Giải thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý nghĩa của đời sống.

Một bác sĩ, được chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của nhiều cuộc đời nói rằng, con người đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng, điều thật sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn.

Những người chọn lựa yêu thương mở rộng tâm hồn mình cho những hạnh phúc lớn hơn những người không bao giờ biết đến yêu thương. Yêu thương là hạnh phúc. Nó làm chúng ta sung mãn. Từ chối yêu là bắt đầu chết. Yêu thương là bắt đầu sống. Trong lúc đức tin làm cho mọi sự thành có thể, tình yêu làm cho mọi sự được dễ dàng. Yêu thương chữa lành mọi người –cả kẻ cho lẫn người nhận.

Suy Niệm 2. SỰ PHONG PHÚ CỦA YÊU THƯƠNG

Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta biết bản tính phức tạp của con người, và cả những động lực liên kết đàng sau mỗi việc chúng ta làm. Ít nhất có năm loại yêu thương.

Loại thứ nhất là yêu thương vụ lợi. Chúng ta yêu thương người khác bởi vì họ có ích cho chúng ta. Nhưng như thế giống với tình ích kỷ hơn là tình yêu. Tôi muốn có một vật nào đó của bạn, nhưng tôi không muốn có bạn.

Loại thứ hai là yêu thương lãng mạn. Đó là loại tình cảm hướng chúng ta về người khác bởi vì niềm vui thích mà người khác đem lại cho chúng ta. Chúng ta say mê người khác. Nhưng đó không phải là tình yêu. Chúng ta tưởng rằng mình yêu người khác, nhưng thật ra, chúng ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu này không kéo dài, đó là lý do làm cho một số các cuộc hôn nhân thất bại.

Loại thứ ba yêu thương có tính chất dân chủ, đặt trên nền tảng bình đẳng theo luật pháp. Chúng ta tôn trọng những người khác vì họ là những công dân. Chúng ta thừa nhận tự do của họ để ngược lại, tự do của chúng ta cũng được thừa nhận. Lý do chúng ta góp phần vào điều tốt cho người khác là niềm hy vọng được đáp lại bằng điều tốt.

Loại thứ tư là yêu thương nhân bản. Đó là tình yêu dành cho nhân loại nói chung. Nhược điểm của nó là một tình yêu trừu tượng không có gì cụ thể: “Tôi yêu nhân loại, nhưng tôi không thể dính dáng gì với họ”.

Loại thứ năm là tình yêu Kitô giáo, tóm tắt trong giới răn: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Ở đây chúng ta đang nói về tình yêu thương vô vị lợi, yêu thương cả khi chúng ta không được gì trong tình yêu ấy. Tình yêu ấy vẫn luôn tồn tại cho dù bị thù ghét và bách hại. Nó không phải là một nhiệt tình đột biến, nhưng là một quan hệ bền vững. Nó biểu lộ trong việc phục vụ, yêu mến và hy sinh bản thân. Loại yêu thương này chỉ có thể hoàn thành với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.

Người ta nói rằng nếu bạn làm một công nghiệp tốt, nhưng có một hậu ý không nói ra thì tốt hơn không làm. Nhưng việc bác ái là ngoại lệ duy nhất. Cho dù người ta làm việc bác ái với một lý do không rõ ràng thì nó vẫn là một hành động tốt và đem lại lợi ích cho người khác, lý do của bạn không có gì quan trọng. Ngoài ra, việc tính ích kỷ và lòng quảng đại cùng có mặt trong chúng ta làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện càng được đáng khen. Nó đến từ một cuộc tranh đấu.

Người ta thường xem vấn đề yêu thương là được yêu thương hơn là trở thành một con người yêu thương. Vì thế, mọi nỗ lực của người ta là làm cho mình dễ thương, khả ái bằng việc đạt đến sự thành công, có vẻ đẹp mê hồn, có quyền lực hoặc giàu có… Và như thế sau cùng họ không có tình yêu thương, bởi lẽ họ được yêu thương không phải vì chính họ mà vị sự vật họ có, hoặc sự nghiệp họ đã hoàn thành. Nhưng nếu họ trở thành một con người yêu thương, họ có thể được yêu vì chính họ. Và sau cùng, mọi người chúng ta muốn được yêu vì chính mình. Những ai không được yêu thì tìm cách cho người ta ngưỡng mộ mình.

Có ba tình trạng: (1) Không yêu thương và không được yêu thương, điều này xem ra giống hoả ngục trần gian. (2) Yêu thương nhưng không được yêu thương đáp lại –dù đây là điều đau khổ nhưng vẫn tốt hơn tình trạng đầu tiên. (3) Yêu thương và được yêu thương –đây là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui hưởng: “Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy đã yêu mến anh em!”.

Yêu thương biểu lộ điều tốt nhật trong con người đang yêu. Người ta sống trong sự tốt lành nhất và rực rỡ nhất khi yêu. Họ giống như một ngọn đèn toả sáng. Tình yêu là một chọn lựa chớ không phải là một cảm nhận. Nhưng từ chối yêu thương là bắt đầu chết. Điều tệ hại nhất là sự dửng dưng lạnh giá.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC:

  1. Một ông nọ người Hy Lạp, năm mươi tuổi đã chết trong một nhà tế bần ở New York. Ông đã có một đời sống tốt lành, theo lời ông nói. Ông đã muốn có lại một đời sống tốt đẹp, muốn vui vẻ bỏ bớt tiền bạc và sức khoẻ để thực hiện điều ấy ở Mỹ, chỉ cần ông có thể có lại vợ con, gia đình và có lại tình yêu thương ngày nào. Tình yêu đã là một điều quan trọng trong đời sống. Chính tình yêu đã giữ cho mọi sự vật, ở bên nhau và đem lại ý nghĩa cho đời sống.

Hôm trước ngày ông mất, ông đã nhắn lại cho những thành viên của gia đình mà theo lời ông hay gây gổ và xung khắc nhau. Ông nói với họ một cách nghiêm trang rằng họ phải học yêu thương nhau, phải cố gắng nhiều hơn để sống yêu thương. Yêu thương là tất cả, tất cả. Họ phải tin vào điều đó, vì đó là lời nói của người sắp chết.

Đức Giêsu đã nói những lời tương tự cho các bạn hữu của Người trong đêm trước khi Người chết. Người đã cho họ một sứ điệp đơn giản, rõ ràng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

  1. Người ta kể câu chuyện về một cậu bé mười hai tuổi tên Stephen. Cậu bị què vì bệnh viêm tuỷ xám. Cậu có một em trai Mark, mười tuổi. Như những đứa con trai khác, chúng thường đánh nhau, nhưng trong thâm tâm, chúng vẫn đối xử tốt với nhau. Thỉnh thoảng Stephen ganh tỵ với em mình có đôi chân mạnh khoẻ.

Một đêm kia, nó nằm mơ thấy mình ở trong rừng sâu và huyền bí. Ở đó, nó đến một hang động tối đen. Giữa hang động một ngọn lửa cháy sáng. Kế đó, từ bóng tối một người mặc áo choàng dài bước ra. Ông ta nói với Stephen, ông là thần của khu rừng và để thưởng cho người nào tìm ra hang động, người ấy sẽ có một lời ước được thực hiện –chỉ một lời ước thôi cho dù là ước muốn điều gì.

Stephen không cần nhiều thời gian để suy nghĩ. “Tôi muốn có một đôi chân khoẻ mạnh” nó nói. Lúc đó, ông thần bỏ áo choàng ra và trước khi Stephen hiểu được ý nghĩa, nó thấy mình nằm lại trên giường. Em nó nằm ngủ ở giường bên cạnh với những tiếng thở đều đều. Ông thần giở cái chăn ra khỏi đôi chân của Mark.

“Ông định làm gì?” Stephen hỏi.

“Tôi sẽ bắt đầu cuộc phẫu thuật” Ông thần nói.

“Cuộc phẫu thuật gì?”.

“Chuyển đổi. Khi cuộc phẫu thuật hoàn tất, cậu sẽ có đôi chân của Mark còn nó sẽ có đôi chân của cậu. Nhưng đừng lo. Không ai biết được đâu, người ta sẽ nghĩ rằng mọi việc vẫn như cũ”.

“Tôi không bao giờ nghĩ mọi việc vẫn như thế” Stephen nói.

“Cậu chắc không mong tôi lôi đôi chân khoẻ từ trong không khí ra đó chứ?”.

Nhưng Stephen ở trong tình trạng xúc động mạnh. Một hình ảnh loé ra trong tâm trí cậu. Cậu thấy chính mình tự do chạy nhảy còn phía sau cậu, em Mark của cậu kéo lê đôi chân của nó. Cậu không thể làm điều đó cho đứa em trai của mình. “Tôi không muốn điều đó” cậu hét to.

Khi nghe tiếng hét, ông Thần già tức giận bỏ đi. Stephen vui mừng khi nhìn lại mình. Sáng hôm sau, cậu thức dậy và nhìn sang em cậu. Nhớ lại giấc mộng, cậu mỉm cười. Từ ngày đó trở đi cậu không bao giờ cảm thấy ganh tỵ với em cậu và yêu thương nó hơn bao giờ hết.

Stephen muốn sống hạnh phúc nhưng không phải bằng cái giá là gây ra đau khổ cho em trai cậu. Hạnh phúc thật chỉ tìm thấy trong tình yêu vô vị lợi. Yêu thương là đặt người khác đừng trước mình.

 

home Mục lục Lưu trữ