Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1379781

ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC

Ánh sao đạo đức – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.

Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.

Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.

Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
  2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
  3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?

 

12. Đi tìm Chúa hôm nay – Lm. Damien OFM

Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đấng Messia không còn là của riêng người Do thái nữa, nhưng Ngài tỏ mình ra cho mọi dân tộc.

Ngôi sao dẫn đường.

Do thái thuộc đông phương; và theo văn hóa và khoa chiêm tinh của người đông phương thì mỗi vị vua sinh ra đêù có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba nhà đạo sĩ có lẽ là những nhà chiêm tinh học, nên đã nhận ra ngôi sao chiếu mệnh của vua người Do thái mới sinh ra.

Ngôi sao chiếu mệnh nầy không như những ngôi sao chiếu mệnh của các vị vua khác, vì nó còn là ngôi sao đi trước ba nhà đạo sĩ, dẫn đường cho họ đến với Chúa. Thiên Chúa đã dùng các thiên thần để báo cho các mục đồng biết Chúa đã đến trong thế gian. Nay Thiên Chúa dùng một tinh thể làm dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Giêsu và dẫn ba nhà đạo sĩ đến với Chúa. Xưa trong sa mạc, Thiên Chúa cũng đã dùng cột mây và cột lửa để nói với dân về sự hiện diện của người giữa dân. Thiên Chúa có thể dùng thiên thần, con người(các mục đồng) hay một vật(ngôi sao) để làm dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa.

Ngày nay, ai là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa? Ngôi sao đó trước hết la Giáo Hội(“chúng con là ánh sáng thế gian”), là một vị thánh, là một linh mục, là một kitô hữu gương mẫu…Và ngôi sao soi sáng và dẫn đường cách đặc biệt là Phúc Âm.

Với lời dạy của Chúa Giêsu: “Chúng con là ánh sáng thế gian… ngọn đèn phải để trên đế, để soi sáng cho mọi người trong nhà”, mỗi người kitô hữu phải là một ngọn đèn, nghĩa là một ngôi sao dẫn đường cho kẻ khác. Cha mẹ là ngôi sao dẫn đường cho con cái, những người có trách nhiệm phải là ngôi sao dẫn đường cho những người mình chịu trách nhiệm; linh mục tu sĩ phải là ngôi sao dẫn đường cho dân Chúa; và mỗi người kitô hữu phải là ngôi sao dẫn đường cho những ai chưa biết Chúa.

Tính phổ quát của vì Vua mới.

Sự hiện diện của các mục đồng, của ngôi sao và của ba nhà đạo sĩ nói lên rằng: Đấng Messia mới sinh ra không còn là của riêng của những kẻ tử tế, Biệt Phái và Kinh sư nữa, nhưng trước hết Ngài là của những kẻ thấp hèn tội lỗi hay bị khinh chê, như các mục đồng, vì họ là những người đầu tiên được vinh dự đến với Chúa. Ngài không còn là của riêng của dân Do thái mà thôi, nhưng còn là vua của những kẻ ngoại giáo, xa xôi mà ba nhà đạo sĩ là ba đại diện; sự hiện diện của ngôi sao cũng nói lên rằng, Ngài còn là vua của cả vũ trụ nữa. Ngôi sao cũng phải phục vụ Chúa.

Vua Herôđê bối rối

“Nghe nói thế,vua Herôđê bối rối, và tất cả Giêru- salem cùng với nhà vua”: Chúa sinh ra, các thiên thần ca hát, các mục đồng vui mừng, ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến thờ lạy, còn vua Herôđê và cả Giêrusalem thì bối rối. Hêrôđê bối rối lo lắng vì sợ mất ngôi vua của mình. Các giáo trưởng và luật sĩ bối rối vì vị vua nầy đến mà không thông báo gì cho họ lại tỏ mình ra cho dân ngoại. Họ thấy chỗ đứng của mình bị lung lay. Thế là họ tìm cách tiêu diệt Ngài.

Họ không hiểu rằng vị vua nầy đâu có thèm gì ngôi báu một khi đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Họ không hiểu rằng vị vua nầy, đâu phải để cai trị nhưng để cứu vớt.

Ngày nay cũng thế, người kitô hữu phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là của riêng người công giáo mà là Thiên Chuá của mọi người, và Giáo Hội không chỉ là của riêng người có đạo mà là Giáo Hội của mọi dân tộc, của kẻ lành cũng như người bất lương. Vì Con Thiên Chúa đến để cứu vớt chứ không phải để lên án hay cai trị. Chúa sinh ra trong ngheo khó và sau nầy bị khinh chê và bắt bớ. Nên phải bỏ đi cái mơ ước hảo huyền một Giáo Hội giàu sang và quyền thế trước mặt người đời. Phải bỏ đi cái quan niệm một thứ đạo phô trương. Đừng lặp lại cái lỗi lầm của người Do thái, mơ ước một vị vua quyền thế và cao sang. Nếu không thì Chúa sẽ làm cho chúng ta thất vọng vì ngài không hề đáp ứng những mơ ước hảo huyền của ta. Và rồi chúng ta cũng sẽ bối rối như Herôđê, các Biệt Phái và kinh sư xưa trước sự hiện diện khiêm tốn của Chúa.

Đi tìm Chúa hôm nay.

Chúng ta đã thấy, một những ngôi sao dẫn đường cho chúng ta hôm nay đến với Chúa là Lời Chúa.Chính nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống. Phúc Âm sẽ vẽ lên cho chúng ta gương mặt đích thực của Chúa Kitô chứ không phải khuôn mặt theo những mơ ước trần tục của chúng ta. Phúc Am sẽ là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa Giêsu.

Vị vua thứ tư.

Chuyện kể rằng, khi Ba vua Gaspar, Melchior, Balthazar và đoàn tùy tùng vừa đi khỏi làng Bêlem, thì vị vua thứ tư hớt ha hớt hải chạy đến. Ông cũng đã thấy ngôi sao, ông dắt vào lưng ba viên ngọc quí, gia sản quí nhất của ông và vội vã lên đường cho kịp Nhưng ông đến trễ, ba vua kia đã về mất rồi!…Ông đến trễ và nhất là đến với hai bàn tay không… ông không còn các viên ngọc quí nào nữa…

Ông từ từ nhẹ tay mở cửa chuồng bò, nơi có Con Thiên Chúa, Mẹ người và người cha nuôi của Người. Trời tối, Giuse đang trở mớ rơm để qua đêm, bé Giêsu nằm trên tay Mẹ.

Rón rén, vị vua thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới chân bé Giêsu và Mẹ Người và bắt đầu nói qua giòng nước mắt:

– Lạy Chúa, con đến để dâng lên ngài lễ vật như ba vị vừa rồi, dâng cho Chúa ba viên ngọc to như trứng bồ câu, ba viên ngọc thứ thiệt. Nhưng giờ đây không còn nữa…Con thấy ba vị kia đi trước con trên lưng lạc đà, con định tiến lên đi với họ. Nhưng rồi rượu ngọn, tiếng chim họa mi hót làm con say mê. Đêm đó con ở lại trong một quán trọ. Khi con bước vào, con thấy một cụ già lên cơn sốt rét, nằm co quắp bên lò sưởi. Không ai biết ông ta là ai. Túi tiền ông rổng tuếch. Ông không có tiền trả tiền thuốc và những thứ cần thiết. Ngày mai, ông sẽ bị đuổi ra ngoài. Lạy Chúa, đó là một cụ già, rất già, nước da sậm và có bộ râu trắng. Ông làm con nhớ đến cha con. Lạy Chúa, xin tha cho con, con lấy một viên ngọc trong túi và đưa cho chủ quán để ông lo tìm thầy chạy thuốc và nếu ông ấy chết, thì có một cỗ quan tài che xác ông.

Ngày hôm sau, con ra đi, dục con lừa của con chạy cho kịp ba vị kia vì lạc đà họ đi chậm. Con đường con đi qua vắng vẻ, có nhiều bụi rậm. Bổng con nghe tiếng kêu cứu từ một bụi rậm. Con nhảy xuống lừa và thấy mấy chú lính đang bắt nạt một thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con thấy mình không đủ sức đọ lại với họ. Hơn nữa con đã già rồi. Lạy Chúa, xin tha cho con lần nầy nữa. Con đưa tay vào túi lấy một viên ngọc thứ hai và chuộc lại người thiếu phụ. Cô ta hôn tay con rồi chạy như bay vào miền núi như một con sóc.

Giờ đây chỉ còn lại có một viên nữa thôi, nhưng con nghĩ, có còn hơn không. Lúc đó đã quá trưa, và con nghĩ mình có thể đến Bêlem trước lúc trời tối. Nhưng kìa lính Hêrôđê đang hung hăng đốt cháy một làng gần Bêlem. Con chạy tới và và hỏi thăm thì con biết lính tráng đang thi hành lênh của vua: giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống. Ngoài một căn nhà đốt cháy, một tên lính to khỏe, đang nắm trong tay một em bé trần truồng, đưa đi đưa lại. Đứa bé hết sức dãy dụa và khóc thét lên vì sợ. Người mẹ thì đang quì lạy và khóc ngất. Anh lính nói với mẹ nó ”Bây giờ tao sẽ cho nó vào lửa và nó sẽ cháy như một con heo sữa quay!” Mẹ nó la lên thảm thiết…

Lạy Chúa, xin tha cho con! Không chịu nổi, con lấy viên ngọc cuối cùng trao cho tên lính để nó trao em bé cho mẹ nó. Mẹ nó ôm chặt lấy con, áp cứng vào lòng, không một tiếng cám ơn, chạy trốn như một con chó tìm được miếng xương. Lạy Chúa thế là con đến đây với hai bàn tay không. Xin Chúa tha cho con, xin tha cho con…

Nói xong ông sấp mặt sát đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng bò. Rồi ông ngước đầu lên, thấy Giuse đã trở rơm xong, Chuá vẫn nằm trong tay Đức Mẹ. Từ từ, Chúa quay về phía ông, gương mặt Ngài rạng rỡ. Chúa chìa đôi tay tí hon cho đôi tay trống không của vị vua thứ tư, bé Giêsu và Mẹ đều mỉm cười…

 

13. Ánh sáng đức tin – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”

Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.

Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:

– Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.

Anh liền đáp lại:

– Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.

Ánh sáng Đức Tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa rạng ngời.

Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gian nan thử thách.

Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên dường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất, họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức Tin, con đường của họ là con đường thánh giá.

Để giữ vững Đức Tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng Giám Mục Fulton Sheen khẳng định: “Để trắc nghiệm Đức Tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không pải lúc đời lên hương, thuận buồn xuôi gió”.

Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao sau khi lạc mất, người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.

Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:

– Một câu kinh thánh đánh động lòng ta.

– Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.

– Một lời khuyên nhắc nhớ chân tình.

– Một gương sáng làm ta xúc động.

Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:

“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng,

Thì hãy là ánh lửa non cao.

Nếu không thể là ánh lửa non cao,

Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình”.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong Giáo lý Năm Thánh 2000 có viết: “Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.

***

Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.

Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng và lan tỏa khắp thế giới. Amen.

 

14. Vui mừng vì được ngôi sao lạ dẫn đường

Thông thường khi muốn đến một nơi nào chưa biết, người ta sẽ bằng nhiều cách: tìm xem qua bản đồ, nhờ người biết trước chỉ hay dẫn đường. Nếu không người ta sẽ rất dễ bị lạc đường. Càng đến nơi quan trọng bao nhiêu thì người ta lại càng phải tìm hiểu kỷ bấy nhiêu.

Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Hiển linh hay còn gọi là lễ Ba vua. Nói đúng hơn đây là Ba vị hiền sĩ từ Phương Ðông. Họ được báo tin có Vua dân Do thái mới sinh ở Bêlem. Vì thế, họ cùng nhau lên đường theo sự hướng của Ngôi sao lạ đến Bêlem. Trên đường đi, chẳng may Ngôi sao lạ biến mất nên họ vào hỏi thăm vua Hêrôđê.

Không ngờ chính vua Hêrôđê cũng chẳng hay biết gì. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Ðấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu (Mt 2, 4). Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 5 – 6). Sau khi chỉ đường cho các nhà đạo sĩ vau Hêrôđê căn dặn kỷ lưỡng:: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (Mt 2, 8b). sau đó, họ đã tiếp tục lên đường. May mắn thay, Ngôi sao lạ đã tiếp tục xuất hiện và dẫn đường cho họ. “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2, 10)

Các Hiền sĩ là những người rất thành tâm thiện chí. Họ đã nhờ Ngôi sao lạ dẫn đường đến thờ lạy Hài nhi Giêsu. Mặc dù, khi Ngôi sao biến mất thì họ vẫn không nản lòng. Họ đã tìm cách hỏi thăm cho bằng được. Nhưng rồi họ lại hết sức vui mừng khi Ngôi sao lạ lại xuất hiện để tiếp tục dẫn đường cho họ.

Ngôi sao lạ ấy chính là thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Có thể lúc Ngôi sao biến mất là lúc Thiên Chúa muốn thử thách sự kiên trì của họ. Với sự kiên trì và tấm lòng yêu mến sự thật họ đã tìm được nơi và người họ muốn tìm.

Trong đời sống đức tin của chúng ta, chính lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội là Ngôi sao dẫn đường cho ta đến Thiên đàng. Những lúc cảm thấy như Ngôi sao biến mất là những lúc Chúa muốn thử thách lòng tin của chúng ta. Xin cho chúng ta luôn biết kiên trì và thật lòng như các Vị Hiền sĩ để mỗi ngày theo sự hướng dẫn của Chúa và Giáo hội đi về Thiên đàng.

 

15. Vinh quang đích thực của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Tôn giáo nào thì cũng muốn cho vị thần linh mình tôn thờ được hiển trị. Đó là một tình cảm tôn giáo đáng quí nhưng cũng thật đáng sợ, vì chính nó đã từng là nguyên nhân của biết bao cuộc bắt bớ hay triệt hạ phe đối nghịch. Lịch sử đã ghi nhận không ít cuộc chiến tranh tôn giáo. Hiển Linh là Chúa được biểu dương, là biểu lộ quyền năng của Ngài ra bên ngoài, vì hình như hình hài một hài nhi bé bỏng không xứng với Ngài? Có một thời tôi đã từng nghĩ như thế: Có thế chứ… phải là những vị vua tới thờ lạy ngài, tới cống tiến ngài những lễ vật đắt giá mới xứng; phải có những ánh sao lạ để cả thiên hạ phải trầm trồ! Và tôi lấy làm hả dạ. Tôi có tinh thần tôn giáo sốt sáng chẳng?

Thật ra câu chuyện về các nhà chiêm tinh (thường được dân có đạo nâng lên hàng vua chúa cho nó oai) đến bái lậy Hài Nhi Giê-su chỉ được Phúc Âm Mát-thêu ghi lại với chủ đích, như ông vẫn quen làm nhiều lần, là để khảng định: “thế là ứng nghiệm” việc Hài nhi ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê… việc ngài trở về từ Ai-cập… như những gì đã từng được các tiên tri loan báo. Dầu câu chuyện mang rất nhiều tính truyền thuyết, tôi nghĩ nó không chỉ đơn thuần là để nâng cao thứ tình cảm tôn giáo nói trên.

Hài Nhi mới sinh tại Bê-lem Hiển Linh, nhưng hiển linh điều gì? Đâu là vinh quang đích thực của ngài?

Ba nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) là những con người có hiểu biết và chuyên tìm tòi những qui luật của trời đất. Các ông biết về một vị nào đó rất quan trọng mới xuất hiện và các ông đi tìn ngài. Theo lô-gic, nhân vật này chắc chắn phải là một vị vua và phải tìm thấy trong chốn cung điện. Và thế là họ tìm tới Giê-ru-sa-lem là kinh thành của vương triều Da-vit; nhưng ở đó họ chỉ gặp được Hê-rô-đê, con người của quyền lực và mưu mẹo. Chỉ có ‘ngôi sao’ mới có thể dẫn họ tới một nơi không ngờ: làng quê Bê-lem hẻo lánh, và tìm thấy một hài nhi với thân mẫu trong sự đơn sơ và nghèo hèn. Chúng ta tất cả đều biết ngôi sao đó chính là biểu tượng của niềm tin vào Tin mừng. Chỉ có Tin Mừng của đức Giê-su Ki-tô mới chỉ cho chúng ta tới gặp được một Thiên Chúa, không phải trong vinh quang của quyền uy và đầy công thẳng, mà là trong một diện mạo thơ nhi quá gần gũi: Thiên Chúa của lòng từ nhân và hay thương xót… cứu độ chứ không phải một Thiên Chúa luận phạt. Nếu ba nhà chiêm tinh phải từ bỏ lô-gic thông thái của họ (điều này không dễ mấy đâu) để có thể sấp mình bái lậy một hài nhi nghèo hèn, thì mọi người, kể cả tôi và bạn, (nhất là khi càng cho mình là thông minh chính trực) còn cần phải làm một cuộc cách mạng trong niềm tin để có thể bái lạy vinh quang Thiên Chúa trong sự hiền lành, từ nhân và hay thương xót.

Câu truyện còn cho tôi thấy có sự đối kháng thâm sâu giữa một bên là uy quyền thống trị và trừng phạt (điển hình là vua Hê-rô-đê) với bên kia là sự yếu đuối ẩn dật của một Hài Nhi bé bỏng nép mình bên lòng mẹ. Sự công thẳng có sức mạnh của nó và xem ra không thể đội trời chung với lòng trắc ẩn nhân ái. Uy quyển của bạo vương Hê-rô-đê không thể được chia sẻ với Tân Vương cứu độ mới sinh ra. Ở đâu có sự công thẳng ở đó không thể có chỗ cho lòng trắc ẩn thương xót, và ngược lại. Sự công thẳng nổi cộm như một quyền lực thống trị trong khi lòng nhân ái lại luôn tỏ ra quá yếu đuối ẩn dật. Chính vì thế mà khi đề cao lòng trắc ẩn thương xót thì nhiều người lại tỏ ra e dè sợ sệt. Họ lo sợ sự hợp lý đầy uy quyền của ‘lành thưởng dữ phạt’ sẽ bị phá đổ, và thế là họ rắp tâm ‘tiêu diệt’ lòng thương xót, ít là trong hiểu biết và suy nghĩ của họ. Thiên Chúa giáng trần đã chọn hình hài của một thơ nhi yếu đuối ẩn dật để biểu lộ lòng xót thương cứu độ loài người quả là điều thích hợp… có điều Ngài phải chịu sự toan tính tiêu diệt của bạo vương quyền uy thì cũng là tự nhiên thôi.

Lạy Hài Nhi đang ngủ yên trong vòng tay âm yếm của Mẹ, xin cho con dặt cược toàn bộ cuộc sống con trên sự nhỏ bé, yếu đuối của lòng thương xót Chúa. Chính những lúc tâm hồn con lo sợ cuống quýt trước quyền lực ghê gớm của sự công thẳng Chúa, xin đưa con vào vòng tay hiền mẫu để con cũng có được giấc ngủ của an bình trong tin tưởng phó thác vào lòng thương xót. Xin che chở để con không bao giờ bị sự công thẳng Chúa nhấn chìm trong lo âu sợ hãi. Amen.

 

16. Hãy là sao lạ dẫn đường giới thiệu Chúa

Epiphany: manifestation or striking appearance có nghĩa là Lễ Hiển Linh.

Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’).

Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng theo truyền thống xa xưa. Vào Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại.

Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1.

Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới.

Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.

Lời ngôn sứ Isaia đã vang vọng từ 700 năm trước Công Nguyên về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1).

Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60, 3).

Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.

Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6).

Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước.

Chúa Giêsu đã dạy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).

Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá.

Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng “Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6, 20-21).

Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa.

Ánh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: “Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban” (Eph 3,6).

Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Ep 13, 1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.

Qua Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”(Mt 2, 2).

Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua trang Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.

Việc đi theo ngôi sao lạ để đến bái thờ và dâng Chúa những của lễ thật sự chẳng phải là việc giản đơn và cũng không phải ai cũng làm được như 3 nhà đạo sĩ.

Muốn như vậy, trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.

Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.

Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.

Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường.

Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ. Chúa mời gọi ta loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Và như vậy, ta hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những luồng sáng tự nhiên phát ra từ ta ấy, chắc chắn mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.

 

17. Tìm Chúa

Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng ba vua ở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm thõa mãn trí tưởng tượng của khán giả, người ta thường đem đến những vật kỳ lạ, và cho là lễ vật của ba vua tiến Chúa như: khỉ, vẹt, lạc đà… Lễ ba vua còn có một thủ tục khác nữa là chơi trò bắt thăm làm vua. Người ta cho một hạt đâu hay một tượng nhỏ vào trong chiếc bánh ngọt, và chia ra thành từng phần cho những người trong nhà, ai được miếng bánh có hạt đâu hay tượng nhỏ đó sẽ được làm vua, được đội triều thiên trong bữa ăn. Thủ tục này bắt chước thủ tục của dân ngoại ở Rôma, Đức… còn trong tu viện nếu được làm vua sẽ được làm chủ tọa cộng đoàn khi dự nghi lễ phụng vụ và chủ tiệc ngày hôm ấy. Từ thời Trung Cổ người dân ngoại và cả người Công Giáo đều ao ước được giống như ba vua, để được dâng lễ vật tiến Chúa, được chủ tọa nghi lễ phụng vụ… Đó chỉ là những hình thức bên ngoài của thời Trung Cổ, nhưng ít nhiều cũng cho thấy tâm tình bên trong; họ ao ước giống ba vua cả trong đức tin, hành động và cả lòng can đảm.:

  1. Trong đức tin

Ba vua chính là những người dân ngoại đầu tiên nhận biết Chúa. Và chính nhờ đức tin qua ngôi sao lạ đã hướng dẫn đường đi, nước bước cho các ông. Thật vậy đức tin chính là ơn ban cao trọng nhất, vì không có đức tin chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa được. Hơn nữa không có đức tin thì sẽ như người mù lòa không biết đường biết hướng về đâu. Nhưng phài luôn nhớ rằng đức tin luôn là ơn ban nhưng cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Đức tin đến với ba vua không như một phép lạ để họ nhận biết Người. Họ được ngôi sao lạ dẫn đường , ngôi sao này có thật hay không chúng ta không cần biết. Điều quan trọng là qua ngôi sao lạ ba vua nhận biết đó là điềm Thiên Chúa gởi đến soi sáng và đưa họ đến Bêlem để thờ lạy Chúa.

Ngày xưa ba vua nhờ đức tin soi sáng dẫn đường đã được thõa lòng hạnh phúc. Ngày nay Thiên Chúa cũng soi sáng chúng ta bằng nhiều cách qua các biến cố. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết lấy đức tin để đón nhận chưa?

  1. Hành động

Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. Nếu ba vua nhìn thấy ngôi sao mà không lên đường, thì việc trông thấy ngôi sao nào có ích gì? Đối với chúng ta cũng vậy, nếu có đức tin mà không sống theo đức tin thì có ích gì. Ba vua vừa nhìn thấy ngôi sao lạ thì nhận biết ngay đó chính là quyền phép Thiên Chúa thì các ông không cần tìm hiểu nguyên do, mà mau mắn bước theo. Thật là một niềm tin mãnh liệt là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Dứng trước chân lý đức tin đòi hỏi ta cũng phải có thái độ tùng phục như vậy. Do đó chúng ta hãy mau mắn làm theo ba vua, khi thấy “ngôi sao đức tin” phải vội vã lên đường, nếu ta còn lưỡng lự chậm chạp rất có thể ngôi sao đó sẽ tắt lim và không còn ánh sáng nào soi đường cho ta đi về quê thật là nước thiêng đàng nữa.

  1. Can đảm

Ba vua đã từ giã gia đình thân yêu, không ngại thân già sức yếu, đường sá nguy nan, chấp nhận tất cả những khó khăn chỉ mong làm tròn thánh ý Chúa đã tỏ ra với mình. Chúng ta những người đang lữ hành, con đường mình đi chắc chắn cũng có rất nhiều chông gai hiểm trở. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng với bản thân mình, với những xu hướng xấu từ ngay trong chính bản thân… Như ba vua đã đạt được đích đến là Thiên Chúa, thì chúng ta tin rằng với con đường đức tin mình cũng sẽ đạt được hạnh phúc đời đời. Vì thế mà mỗi người hãy can đảm vượt mọi trở ngại đời này, để sống xứng đáng với đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho ta.

Không, phải con đường đức tin lúc nào cũng trơn tru, lắm lúc cũng bị mây mù che khuất như ba vua hôm nay, nhưng với sự quyết tâm và lòng thành các ông đã vượt qua bằng cách hỏi thăm đường. Chúng ta cũng vậy lắm lúc con mắt đức tin mình cũng bị che mù làm ta không còn nhận ra đường đi nữa, không còn biết phải đi con đường nào và xử sự ra sao. Lúc đá cũng hãy biết chạy đến những người khôn ngoan, hướng dẫn đức tin như: cha sở, cha linh hướng hoặc những người khôn ngoan, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lầm lạc và cũng tìm được Chúa như ba vua xưa đã thấy.

Trong ngày lễ hiển linh hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài đồng tâm tình thờ lạy. Ta chẳng có vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng chúng ta có tấm lòng, có con tim. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa với tất cả lòng chân thành và con tim yêu mến đó.

Lạy Chúa, chỉ tin không thì chưa đủ, mà còn đòi hỏi con phải mau mắn thi hành những điều đức tin dạy, như thế mới là sống theo ý Chúa. Amen.

 

18. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Bêlem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Bêlem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà mới trở về Nagiarét (x. Mt 2).

Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà ba nhà đạo sĩ là những đại diện.

Epiphaino” có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Đức Kitô, tự làm cho mình có thể trông thấy được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho ba đạo sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật sự ẩn mình của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, nơi Trẻ Thơ Bêlem. Thì lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.

Việc các đạo sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên” (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.

Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia: “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi” (Is 66,1-3).

Đây là một lời mời hướng tới Giáo hội Chúa Kitô và hướng tới từng người trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng đến khắp địa cầu. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: “Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật” (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và phổ biến ánh sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta.

Các thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc ba nhà đạo sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nagiarét mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: ” Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng” (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô chứng tỏ sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.

Tước hiệu “Vua Do Thái”, mà ba nhà đạo sĩ ám chỉ Hà Nhì mới sinh sẽ xuất hiện trên miệng của Philatô vào lúc ông xét xử Chúa Giêsu và trên bảng ghi trên thập giá.

Trước câu hỏi của ba nhà đạo sĩ, “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? ” khiến nhà vua, các đại giáo trưởng và luật sĩ thông thạo Thánh Kinh bối rối. Đó cũng là thái độ của các nhà lãnh đạo Do Thái trong đời sống cộng đoàn và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sau này.

Vì thế sự tỏ mình của Chúa Giêsu cho các đạo sĩ chính là khởi điểm của việc thể hiện tỏ tường sẽ được thực hiện trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô, nhất là bừng sáng vào ngày Ngũ Tuần.

Giáo hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Người đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo hội cũng mời gọi chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà đạo sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởng và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.

 

19. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Theo một cổ truyền mà Thánh Giustinô thế kỷ thứ II đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Mẹ Maria đem Chúa lên Giêrusalem dâng cho Thiên Chúa. Theo Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh. Trong khoảng thời gian đó đã xảy ra nhiều việc quan hệ. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính ở đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.

Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.

Việc các Đạo Sĩ đên tôn thờ Chúa Giêsu đã mau được nhìn nhận như là việc làm cho trọn những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Trong sách Tiên Tri Isaia có viết như sau: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên” (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.

Các thượng tế tại Giê-ru-sa-lem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: ” Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng” (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô “(Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.

Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng phải được mở ra để tìm kiếm sự thật đôi khi do dự, dao động hoặc biến thái, mà vẫn còn là trung tâm của nhân loại, và phản ánh những mong muốn của cuộc sống về hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho.

Trong bối cảnh cử hành Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tưởng nhớ, và vui mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Thiên Chúa. Năm Đức Tin là cơ hội để chúng ta tự hỏi: chúng ta làm gì với những gì chúng ta đã nhận được, những điều chúng ta tin? Chúng ta đã, đang và sẽ làm điều gì trong Năm Đức Tin?

Là những người đã chịu Phép Rửa tội, chúng ta nhận được từ Thiên Chúa sứ mạng, và khả năng để làm chứng nhân cho đức tin trong mọi tình huống của cuộc sống, như trong gia đình, khi gặp gỡ bè bạn, nơi công xưởng, xí nghiệp, nơi học đường, tóm lại là ở bất cứ nơi nào người Kitô hữu có mặt. Chúa Giêsu đã mở cánh tay của mình ra chào đón dân ngoại. Là Kitô hữu, chúng ta tự hỏi: làm thế nào con người thời nay có thể tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống? Làm thế nào để con người ngày hôm nay yên mến tha nhân, và sẵn sàng giúp giúp đỡ anh em? Đó là nhiệm vụ của chúng ta.

Giáo Hội của Chúa Kitô là kết quả của một câu chuyện tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta, Ngài là Giao Ước Mới. Nơi Giáo hội của Ngài, con người có thể đặt câu hỏi, tìm câu trả lời, và dần dần khám phá ra Hài Nhi năm trong máng cỏ, là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa, là Thiên Chúa Cứu Độ.

Năm Đức Tin mời gọi chúng ta: “Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa! Hãy để cho Chúa Kitô chạm đến chúng ta! Hãy mở ra những cánh cửa, để đón nhận tình thương nhân từ của Thiên Chúa! Hãy trình bày cho Chúa Kitô những niềm vui cũng như những nổi buồn của chúng ta! Hãy để cho ánh sáng của Chúa soi sáng trí khôn chúng ta bằng ánh sáng của Người, và chạm đến tâm hồn chúng ta bằng ân sũng của Chúa”.

Trong tinh thần này, chúng ta hãy cầu nguyện sốt sắng cho muôn dân trên khắp địa cầu được ơn Đức tin, để họ tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa Cứu Độ duy nhất. Chúng ta cũng cầu cho sự hiệp nhất trọn vẹn của tất cả mọi người tin vào Đức Kitô, ngõ hầu chứng tá của họ trở nên chất men hiệp thông cho toàn thế giới. Xin Mẹ Maria Rất Thánh, Mẹ của Chúa Kitô và là Mẹ của Giáo Hội nguyện giúp cầu thay.

 

20. Ánh sáng soi đường

Nhờ Ánh Sao dẫn đường, ba nhà đạo sĩ từ Phương đông đã đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có thể nói, họ là những con người khao khát chân lý và qui phục sự thật. Theo quan niệm vẫn có nơi nhiều nền văn hoá trên thế giới, mỗi khi có vị quân vương ra đời thì trên bầu trời xuất hiện một ánh sao lạ. Và người ta cũng thường nghĩ rằng, cuộc đời của một con người gắn liền với một vì sao nào đó!

Khi Chúa Giêsu giáng sinh, Ngài đã tỏ mình ra nhiều người, bằng nhiều cách thế khác nhau. Trước hết, Ngài tỏ mình ra cho những con người đơn sơ, nghèo khó như các mục đồng chăn chiên ngoài đồng; cho những con người thánh thiện và tốt lành như cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna. Hôm nay, với việc các nhà đạo sĩ từ Phương Đông tìm đến với Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói được rằng: Chúa đã tỏ mình ra với muôn dân, ngay cả với Dân ngoại. Nói cách khác, Chúa đã tỏ mình ra nơi mọi tâm hồn thành tâm thiện chí đi tìm Ngài bất luận họ là ai, thuộc dân tộc nào!

Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều này là: với việc Giáng sinh làm người của Chúa Giêsu, thì Ánh Sáng đã đến trần gian. Ánh sáng này đã xoá tan ranh giới phân biệt Do thái và Hy Lạp, tuyển dân và Dân ngoại. Nhưng cũng từ đây, một “ranh giới” mới xuất hiện, không phải Thiên Chúa muốn nhưng do con người tạo ra, đó là cuộc đối đầu giữa Ánh sáng và Bóng tối. Theo thánh Gioan tông đồ, vẫn có Ánh sáng thật và cũng có Bóng tối thật! Chúa Giêsu là Ánh sáng – Ánh sáng ban sự sống, xuất phát từ Chúa Cha và những ai tìm đến với Ngài với tâm hồn ngay chính cũng được Ánh sáng soi dẫn và sống trong Ánh sáng. Nhưng khi Ánh sáng xuất hiện thì Bóng tối cũng lộ diện rõ ràng, mà Hêrôđê chính là đại diện cho những con người sống trong Bóng tối. Bóng tối trong cuộc đời này xem ra rất mạnh thế. Bóng tối cũng vô cùng tinh xảo và khôn ngoan theo kiểu thế gian. Vua Hêrôđê căn dặn những nhà đạo sĩ rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Đó là những lời nghe có vẻ rất đạo đức và thánh thiện của vị bạo Chúa Hêrôđê, nhưng tận đáy lòng của vị vua này là muốn tiêu diệt Hài Nhi Giêsu vì ông lo sợ rằng: với việc ra đời của Chúa Hài Nhi thì ngai vàng của ông bị lung lay. Ông sợ Vua Giêsu sẽ cướp mất quyền làm vua của ông. Thật là một suy tính tiểu nhân và trẻ con vô cùng! Ông đâu biết rằng: “mọi quyền hành ở trần gian này đều do Chúa ban và thiết định”. Ông cũng đâu hiểu rằng: Chúa Giáng trần cũng là để cứu chuộc mọi người trong đó có ông nữa. Thật tội nghiệp cho ông, một vị vua sống trong bóng tối vì bị đam mê dục vọng lôi cuốn.

Trong con người chúng ta, hình như cũng có bóng dáng của ba nhà đạo sỹ mà cũng có bóng dáng của Hêrôđê ẩn hiện đâu đó. Có những lúc tâm hồn chúng ta bay bổng, tha thiết muốn đi tìm Chúa, muốn sống chết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Những lúc đó, chúng ta muốn sẵn sàng hiến dâng cho Chúa tất cả: “Đây tâm tư con, thân xác con, nguyện hiến dâng Ngài từ đây đến trót cuộc đời…!” Đó cũng là những khi chúng ta thấy Chúa luôn hiện diện bên cạnh mình, thấy mình được mọi người thương mến và quí trọng… Đời thật đáng sống làm sao! Yêu Chúa và yêu người dễ dàng làm sao!

Nhưng rồi có những lúc, chúng ta gặp phải những thất bại, những chống đối, những hiểu lầm; những lúc cuộc đời của ta không thuận buồm xuôi gió, thiếu trước hụt sau… Chúng ta cầu xin Chúa hoài mà Chúa vẫm im lặng, thì tự nhiên chúng ta cũng muốn buông xuôi tất cả. Những lúc đó, chúng ta dễ hành xử như những người không có niềm tin và hy vọng. Chúng ta rất dễ có những hành động như Hêrôđê là muốn phá đổ, muốn huỷ diệt tất cả vì mình không thấy hạnh phúc và mất bình an. Những lúc đó, ta dễ dàng nghĩ rằng: “Tha nhân là hoả ngục đối với tôi”. Tôi không còn muốn tin ai ngay cả Thiên Chúa! Thật nguy hiểm biết bao! Khi trong chúng ta, hình bóng của Hêrôđê làm chủ rồi thì Chúa phải ra đi! Bóng tối không muốn tiếp nhận Ánh sáng nữa. Nhưng người con cái của Chúa đích thực thì không nên sống như thế. Chúng ta phải kiên quyết xua trừ Bóng tối ra khỏi con người của chúng ta để Ánh Sáng là chính Chúa vào làm chủ trong ta. Bất cứ lúc nào, chúng ta biết nói lời yêu thương, tha thứ, nâng đỡ nhau thì khi đó trong ta Ánh sáng đã chiến thắng Bóng tối.

Có chuyện kể rằng: Đứng trước hung tin: Jacques, cậu con trai yêu quí vừa từ trần, nữ bá tước Littry vô cùng đau khổ và cảm thấy tiêu tan hết nghị lực; tuy nhiên, bà vẫn cố gắng lao mình vào công việc phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Eperny. Ngày nọ, một thương binh người Đức được cho đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch đã giết chết con trai bà bá tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận một cách vui vẻ. Đến khi lúc soạn đồ đạc, áo xống của người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, nữ bá tước Littry chỉ biết thốt lên: “Đúng đây là tên lính đã giết con trai mình!”. Nhưng kìa, một mảnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống. Bà Littry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đập mạnh vào mắt bà: “…Mẹ yêu quý! con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu nguyện cho con…” Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc tên lính Đức cách tận tình. Trên mặt y, một giọt nước mắt của bà rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như hạt sương mai…!.

Nữ bá tước Littry đã để cho Ánh sáng xoá tan Bóng tối trong tâm hồn bà, để bà được tiến bước trong cuộc đời tràn ngập Ánh sáng của tình yêu.

Các nhà đạo sỹ ngày xưa đã để cho Ánh sao lạ soi dẫn đường mình đi và họ đã đến được với Chúa nhờ lòng nhiệt huyết và đầy tin tưởng của họ. Ngày nay, chúng ta cũng có những Ánh sao soi đường để chúng ta đến được với Chúa. Ánh sao đó chính là Lời của Ngài. Nhưng thử hỏi, chúng ta có sẵn sàng để cho Lời Chúa dẫn đường mình đi không? Câu hỏi ấy đang chờ từng người chúng ta trả trời trước Chúa Giêsu Hài đồng trong Mùa Giáng Sinh này cũng như trong suốt cuộc đời chúng ta.

home Mục lục Lưu trữ