Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1379824
BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ Biển Hồ Galilê thì họ lên chuyến đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ.
Vinh quang chính trị, lương thực trần thế thuộc bến bờ khác, thuộc lãnh vực nhân loại. Muốn gặp được Chúa thực sự, phải tìm Chúa “trên bờ bên kia”. Do đó một diễn từ dài về “Bánh hằng sống” sẽ bắt đầu và là nội dung của chương 6 Tin Mừng theo Thánh Gioan. Chúng ta sẽ đọc trong 4 Chúa nhật kế tiếp.
Diễn từ này rất khác với những gì ta thường nghe Chúa nói trong 3 Tin Mừng nhất lãm, như vậy thực sự là của Chúa hay của Gioan? Câu hỏi này đã được đặt ra từ thời các Giáo phụ tiên khởi trong Giáo Hội. Những nhà chú giải chân chính nhất ngày nay vẫn tôn trọng truyền thống và tóm lại trong câu trả lời như sau: “Chúng tôi luôn nghĩ rằng, bản chất của diễn từ nói về Bánh hằng sống chắc chắn là của Chúa, nhưng tư tưởng của Thầy được truyền lại cho chúng ta qua sự giải thích của Thánh Sử: Chính Thánh Gioan đã cho rằng phải thêm những điều đó vào. Đó cũng là điều Giáo Hội thường làm (A. Feuíllet).
Những gì Đức Giêsu thực sự đã nói, được thuật lại cho chúng ta bằng những ngôn từ, những kiểm nói soạn lại của Thánh sử. Được Chúa Thánh Thần linh hứng để viết Tin Mừng, Thánh Gioan chuyển tải cách trung thực những giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng không theo cách thuỷ như băng ghi âm. Nhờ suy ngẫm lâu dài người môn đệ trung thành, đã thấm nhuần giáo huấn của Thầy và chuyển đạt lại bằng những ngôn từ của chính mình. Ông vừa là chứng nhân, ta là người được linh hứng.
Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng các ông đã được ăn bánh no nê”.
Đức Giêsu nói chuyện với những nông dân miền Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ và no đủ là thế nào, khi họ miệt mài làm việc để thùa thu hoạch có kết quả tốt. Cũng như với người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng, Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói khát bánh nước… Sự chẩn đoán của Đức Giêsu đối với những người nông dân này vừa đúng lại vừa khắt khe: Những gì họ mong đợi không phải là những “dấu chỉ của nước trời” mà là những “lợi lộc vật chất” họ có thể thu nhận được. Sự chẩn đoán này vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Những nông dân này có lẽ ít “duy vật” hơn chúng ta ngày nay. Nếu chúng ta đón nhận sự chẩn đoán này của Đức Giêsu để duyệt xét lại chính mình chúng ta sẽ khám phá ra rằng, phải chăng chúng ta cũng đói tiền bạc, đói quyền lực, sự kính trọng, an toàn, tiện nghi, và tiêu khiển? Khi Đức Giêsu “giải gỡ” những vấn đề cho chúng ta, chúng ta sẵn sàng bước theo Người. Nhưng nếu Người thực hiện những “dấu chỉ gây rtgỡ ngàng” của nước Thiên Chúa không phù hợp với chúng ta, thì chắc chắn chúng ta cũng dễ dàng bỏ Người?
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Chúa Giêsu dùng lương thực để so sánh, giúp chúng ta hiểu những gì Người mang đến cho nhân loại. Có hai thứ sự sống và hai loại của ăn: của ăn thân xác, cho ta sự sống dễ ‘hư nát’ và của ăn từ trời, cho ta ‘sự sống đời đời’. Được Thiên Chúa tạo dựng và được dựng cho Thiên Chúa, nên con người đói khát Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không gì có thể làm con người hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả những lương thực trần gian không làm con người no thỏa. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường “lương thực hằng ngày” nhưng hãy ao ước “Bánh ban sự sống vĩnh cửu”. Đức Giêsu không xúi chúng ta biếng nhác trong công việc cần thiết cho sự sống nhân thế, nhưng Người muốn chúng ta “làm việc” cùng với sự nhiệt tình như thể để tìm kiếm sự sống không thể hư mất được. Khác với Bouddha, Đức Giêsu không bảo chúng ta phải diệt dục, nhưng ngược lại phải thăng hoa nó: Anh em chớ hài lòng với cuộc sống chẳng qua của anh em… Anh em hãy ước muốn sự sống đời đời. Hãy làm những gì cần thiết để chiếm được sự sống đó, và hãy sống sự sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ.
Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Ở đây bắt đầu một mạc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu. Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chúng hằng triệu lần từ 2.000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Người .
Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, Ông đã làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? ông sẽ làm chi đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực”.
Họ vẫn còn dừng lại tại chân trời quen thuộc của họ, họ vẫn luôn ở bờ bên này, Đức Giêsu tìm cách gợi lên trong họ những khát vọng cao siêu, khởi đi từ những nhu cầu vật chất. Nhưng ngày nay, chúng ta đang đói cái gì? Mỗi ngày người ta nói với chúng ta rằng, con người sẽ có hạnh phúc khi mua một cái máy nào đó để làm việc nội trợ, ngậm một viên kẹo, dùng một thuốc khử mùi hay dầu gội dầu nào đó… Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta, những thứ “man-na” đó chỉ là một thứ thức ăn vật chất rất thô thiển, có thể nói là dành cho loài vật, nếu so với hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho ta. Các bạn có để ý đến một hiện tượng trong xã hội Tây phương mà chúng ta có thể gọi là hiện tượng “bú mút”: Suốt ngày, trên các đường phố, chúng ta thấy người ta ăn, nhai, ngậm, nuốt kẹo, đặc biệt là mọc lên rất nhiều hiệu bánh kẹo đủ loại. Những nhà phân tâm học nhận thấy trong hiện tượng này một sự thoái hóa, trở về tình trạng trẻ nít: Đứa bé thường tự giải buồn bằng cách mút ngón tay cái của nó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu biểu lộ con người chỉ thích thỏa mãn với những lạc thú phiếm diện, hời hợt sao?
Dĩ nhiên, Đức Giêsu đang đứng ở mức lãnh vực khác hẳn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đói khát lương thực cốt yếu.
Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Chúng ta nên suy gẫm về sự lạ lùng mà những chữ này gợi ra cho ta không? Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn, dù không, cơn đói của chúng ta, chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói “Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Sau khi đã đi tìm tất cả mọi lạc thú trần gian, Thánh Angustinô đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn, đến nỗi không gì có thể lấp đầy được ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Người. Sau mỗi lạc thú dục vọng lại sinh ra dục vọng, đó là dấu hiệu của sự đòi hỏi vô biên này.
“Bánh từ trời xuống” đó là man-na lương thực huyền siêu như bài đọc một Chúa nhật này đã nhắc cho chúng ta: Cái gì đây? Man-na? Người ta chờ đợi sự tái xuất hiện lương thực lạ lùng làm no thỏa, vào thời Đấng Mêsia. Nhưng khi lặp lại cách diễn tả truyền thống xa xưa, Đức Giêsu đã coi Man-na của thời Môisen chỉ là biểu tượng của “quà tặng từ trên cao”, “lương thực bởi trời”. Lời của Thiên Chúa. Theo sách Đệ nhi luật, mục đích sâu xa của phép lạ thời xuất hành không phải là để nuôi những người Do Thái về mặt vật chất trong sa mạc, nhưng nhằm giúp họ quen “tin tưởng” vào Chúa: “Con người không chỉ sống nhờ bánh mà còn nhờ những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,2-3) Đức Giêsu đã mượn câu này của sách Đệ nhị luật để nói với Satan: “Bánh vật chất” không đủ. Sự liên hệ này cho thấy, “Đấng Kitô” của Tin Mừng thứ 4 theo Thánh Gioan không khác với Đức Giêsu lịch sử đã được mô tả trong 3 Tin Mừng kia (Mt 4,4; Lc 4,4). Đức Giêsu cũng tuyên bố giáo thuyết của Người, hay hơn nữa, chính bản thân Người là lương thực: Con người không chỉ sống bằng bánh mà còn bằng lời Chúa.
Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh”.
Quan niệm cho rằng lời Chúa, giới răn của Chúa là thức ăn thiêng liêng bổ dưỡng cho con người, cao quý hơn thức ăn thông thường đã có trong suốt Cựu Ước.
– A-mốt 8,11: “Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lò Thiên Chúa”.
– Giêrêmia 15,16: “Khi nghe lời của Người, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”.
– Đức Giêsu theo Thánh Gioan (4,32-34).
Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.
Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.
Trong bài Thánh thư Chúa nhật hôm nay, Thánh Phaolô nói với chúng ta về những người dân ngoại đã để cho sự hư vô dẫn đắt họ (Ep 4,17-24). Nếu những hiệu bánh ngọt cũng đủ làm thỏa mãn chúng ta, thì thật là đáng tiếc! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh của Chúa, Này đây, tay con đang giơ lên cao
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
PHẢI MỞ TÂM TRÍ RA TRƯỚC MẦU NHIỆM (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta một trong những bản văn chính yếu của Tin Mừng Gioan: bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.
Xh 16: 2-4, 12-15
Tất cả các Bài Đọc I của bốn Chúa Nhật liên tiếp đều được chọn theo cùng một viễn cảnh nầy. Vì thế, vào Chúa Nhật XVIII nầy, chúng ta đọc đoạn trích sách Xuất Hành tường thuật bánh man-na, “bánh bởi trời” nầy nuôi dưỡng dân Do thái trong hoang địa.
Ep 4: 17, 20-24
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô mời gọi người Ki-tô hữu đổi đời tận căn để trở nên một con người mới, được tái tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ga 6: 24-35
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần đầu của bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, sau dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều.
BÀI ĐỌC I (Xh 16: 2-4, 12-15)
Sách Xuất Hành không chỉ là chuyện tích về cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc hành trình trong hoang địa, nhưng còn là bản phác thảo lộ trình tâm linh. Chính hoang địa đã là nơi ưu tiên Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân, nhưng cũng còn là nơi Thiên Chúa thử thách dân Ngài.
Nơi thử thách:
Để đến được Đất Hứa, ông Mô-sê đã có thể dẫn dân Do thái đi theo một lộ trình ngắn nhất, tức là con đường chạy dọc theo Địa Trung Hải (thật ra con đường nầy đã được quân đội Ai-cập xây dựng những đồn lủy để ngăn chận mọi cuộc xâm nhập của ngoại bang), ấy vậy, ông đã chọn con đường băng qua hoang địa đầy gian khổ và khó khăn.
Một tháng đã trôi qua kể từ lúc ra khỏi đất Ai-cập: dân Do thái vừa mới đóng trại trong ốc đảo trù phú mà sách Dân Số nói có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là (Ds 33: 9); bây giờ họ đi sâu vào trong sa mạc Xin trên đường tiến về sa mạc Xi-nai, ở đây họ lâm vào cảnh đói và khát. Đây là lần đầu tiên, nhưng không là lần cuối cùng trong suốt cuộc hành trình dài lâu nầy, toàn thể “cộng đồng” con cái Ít-ra-en kêu trách: khi còn ở Ai-cập, chúng tôi đâu có thiếu thịt và bánh.
Dù dân kêu ca trách cứ, Thiên Chúa đáp trả bằng tấm lòng nhân hậu của Ngài; tuy nhiên, Ngài đòi hỏi họ phải tin tưởng vào Ngài: “Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Chúa các ngươi”.
Chim cút và bánh man-na.
Đoạn trích sách Xuất Hành nầy tập hợp hai biến cố cho thấy Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài như thế nào: chim cút bay đến rợp cả trại và bánh man-na rơi xuống đầy trên mặt đất. Thật ra hai biến cố nầy đã không xảy ra cùng một ngày. Ít ra sách Dân Số trong cùng một câu chuyện cho thấy điều nầy (Ds 11 cho thấy hai truyền thống được trộn lẫn với nhau, trong đó truyền thống Gia-vít chỉ kể ra hiện tượng bánh man-na).
Hiện tượng chim cút bay đến rợp cả trại xem ra là cuộc thiên di của đàn chim, chúng bay từ lục địa Phi-Châu vượt qua Địa trung Hải, và khi đến hoang địa thì kiệt sức sà cánh xuống mặt đất, nên rất dễ bị tóm bắt. Man-na có thể do từ nhựa cây liễu bách tiết ra khi bị những côn trùng châm vào; khi đêm xuống khí trời lạnh, nhựa đông cứng lại và rơi trên mặt đất trông như những hạt nho nhỏ mịn màng có vị mật ngọt. Theo sách Dân Số, “man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì manna cũng rơi xuống” (Ds 11: 7-9).
Chúng ta không thể tin rằng trong hoang địa dân Do thái được nuôi dưỡng chỉ bằng bánh man-na; họ còn sống bằng những sản phẩm từ đàn vật của họ và từ những ốc đảo. Nhưng bánh man-na đã là lương thực phụ thêm trong suốt cuộc lữ hành nầy.
Với tư cách là thiên ân, bánh man-na cũng là dịp thử thách: “Ta muốn thử thách chúng xem chúng có tuân theo luật pháp của Ta hay không”. Đức Chúa phối hợp thiên ân với sự thử thách qua lời căn dặn rõ ràng: “Dân sẽ ra mà lượm lấy khẩu phần từng ngày một”, mỗi người tùy theo nhu cầu của mình. Không được tích trữ. Không được bận lòng đến ngày mai, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Lời của Chúa (từ đó một mối giây liên kết chặc chẽ hầu như cho đến mức đồng hóa, giữa bánh man-na và Lời Chúa). Đó cũng là bài học Đức Giê-su ban cho các môn đệ Người khi dạy họ kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Bánh bởi trời.
Cho đến lúc đó, đối với dân Do thái, đây là lương thực bất ngờ và lạ thường được xảy đến vào thời điểm khó khăn. Vì thế, truyền thống đã lý tưởng hóa và thần thánh hóa bánh man-na được xem như “bánh bởi trời”. Nhà biên soạn sách Xuất Hành đã nói rồi: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn”. Theo sách Đệ Nhị Luật, Đức Chúa “đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông của anh em đã chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời Đức Chúa phán ra” (8: 3). Thánh Vịnh 78: 25 gợi lên bánh man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi đã chuyển dịch thành “bánh thiên thần”. Sách Khôn Ngoan ca ngợi bánh man-na là lương thực bởi trời, “bánh có muôn hương vị, thỏa mãn mọi sở thích” (16: 20-29). Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh man-na sẽ là lương thực của thời thiên sai, khúc dạo đầu cho bàn tiệc cánh chung. Theo cùng cách thức giải thích của truyền thống Cựu Ước, thánh Phao-lô xem bánh man-na là “thức ăn thần thiêng” (1Cr 10: 3).
Chính ở nơi truyền thống Cựu Ước nầy mà Đức Giê-su quy chiếu, dù minh nhiên hay mặc nhiên, trong bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” của Người.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 17, 20-24)
Sau phần đạo lý (ch. 1-3), thánh Phao-lô đưa ra những lời khuyên luân lý: trước hết thánh nhân kêu gọi mọi người Ki-tô hữu hãy hiệp nhất với nhau (chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật vừa qua) và sống một cuộc sống mới trong Đức Ki-tô, đó là chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật hôm nay.
Để là một người Ki-tô hữu đích thật, thánh Phao-lô đưa ra ba chỉ dẫn tổng quát: trước hết đừng ăn ở như dân ngoại, tiếp đó học biết Đức Giê-su để mà sống như Ngài đã sống, và sau cùng thay đổi đời sống tận căn và mặc lấy con người mới.
Đừng ăn ở như dân ngoại.
Thánh Phao-lô ngỏ lời với các Ki-tô hữu thuộc các cộng đoàn Tiểu Á, đa số họ xuất thân từ lương dân; nhưng lời khuyên bảo của thánh nhân cũng có giá trị đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái giáo. Cả thư gởi tín hữu Rô-ma lẫn thư gởi tín hữu Cô-lô-sê cũng đều chứa đựng những lời cảnh giác tương tự. Trước khi tiếp tục đề cập đến những lời cảnh giác, thánh nhân nêu lên phẩm chất của người Ki-tô hữu, chính phẩm chất này đòi buộc phải thay đổi đời sống.
Học biết Đức Giê-su để mà sống như Người.
Thánh nhân nhắc nhở giáo huấn mà họ đã lãnh nhận khi họ “học biết Đức Giê-su”. Cách dùng động từ “học biết” với túc từ chỉ người thì hiếm, nhưng ý nghĩa thật là đặc biệt: người Ki-tô hữu không gắn bó với bất kỳ thứ đạo lý trừu tượng nào, nhưng với một con người, con người ấy chính là Đức Ki-tô, Ngài là “Sự Thật hiện thân”.
Mặc lấy con người mới.
Thánh Phao-lô khai triển tư tưởng của mình với mệnh lệnh: trước tiên, phải cỡi bỏ con người cũ với nếp sống xưa; tiếp đó, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em; và sau cùng, phải mặc lấy con người mới.
Đây là chương trình giáo lý về Phép Rửa. Ý tưởng chủ đạo là đổi mới triệt để đời sống Ki-tô hữu. Trước tiên, phải cởi bỏ con người cũ, con người trước đây phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Tiếp đó, chính nhờ Chúa Thánh Thần khai lòng mở trí mà người Ki-tô hữu đổi mới cuộc đời mình, chủ đề mà thánh Phao-lô chủ ý lấy lại để minh chứng rằng Ki-tô giáo mở ra hướng đến sự khôn ngoan cao vời. Và cuối cùng, người Ki tô hữu là một con người mới, mà Phép Rửa đã tái sinh, đã tái tạo, đã phục hồi trong tình trạng ban đầu “theo hình ảnh Thiên Chúa để sống theo sự công chính và thánh thiện đích thật”.
TIN MỪNG (Ga 6: 24-35)
Với đoạn trích Tin Mừng nầy, chúng ta bắt đầu bài diễn từ về Bánh Hằng Sống của Đức Giê-su mà thánh Gioan định vị vào ngày hôm sau dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều.
Việc định vị bài diễn từ về Bánh Hằng Sống vào biến cố này thật là quan trọng: dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều đánh dấu đỉnh cao sứ vụ của Chúa Giê-su ở Ga-li-lê. Khởi đi từ đó, Đức Giê-su đòi hỏi phải chọn lựa càng lúc càng quyết liệt hơn: tin vào Đức Giê-su hay từ chối Người. Diễn từ về Bánh Hằng Sống là một trắc nghiệm có tính quyết định: nó mở ra một giai đoạn: hoặc từ chối tin vào Người mà ra đi hay khẳng định niềm tin vào Người. Vì thế, Đức Giê-su sắp nhấn mạnh, tiên vàn phải “tin” vào Người.
Bài diễn từ về Bánh Hằng Sống bắt đầu ở “bên kia Biển Hồ” (6: 25) và chấm dứt ở “trong hội đường Ca-phác-na-um” (6: 59).
Bối cảnh.
Vào buổi chiều dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều, Đức Giê-su đã buộc các môn đệ lên thuyền trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Người thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy mà đi lên núi một mình, đoạn, giữa đêm Người đã đi trên Biển Hồ sóng to gió lớn mà đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra khơi một mình trong khi Đức Giê-su không xuống thuyền cùng với các môn đệ (thánh Gioan xác định ở đó chỉ có một con thuyền: 6: 22). Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giê-su không còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Người (6: 23). Khi đến thành Ca-phác-nu-um, họ gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?”. Câu hỏi của họ mặc lây một lời chứng gián tiếp về việc Đức Giê-su đi trên mặt biển.
Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này, Người nói thẳng ra ý định nào thôi thúc đám đông mong ước được gặp lại Người: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Trong Tin Mừng Gioan, lời khẳng định đặc trưng: “Thật, tôi bảo thật”, đem lại một cung giọng trang trọng cho những lời nói theo sau: Đức Giê-su quở trách tâm trí của những người Ga-li-lê nầy quá trần tục: họ chỉ thấy Người là một người phép thuật thần thông đã cho họ ăn no nê. Lúc đó, cuộc đối thoại sắp được thiết lập mà tuyến phát triển của câu chuyện rõ ràng cùng một tuyến phát triển như cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri.
Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với đám đông dân chúng.
Trước tiên, Chúa Giê-su muốn họ biết rằng Người là một con người mầu nhiệm, Người có khả năng ban cho nhân loại những thiện hảo còn hơn cả bánh vật chất nữa.
Với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã hẳn ban cho chị nước hằng sống” (4: 10).
Với những người Ga-li-lê, Đức Giê-su nói: “Các ông hãy ra công làm việc không phải lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Những lời nầy gây ấn tượng mạnh trên họ, vì thế vài người đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi, có thể với ý định ngay thẳng, nhưng cũng có thể với mục đích làm cho Người lúng túng: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”. Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Đức Giê-su không muốn giản lược việc Thiên Chúa muốn họ làm là chỉ việc “tin vào Người”, nhưng những lời mà Người sắp công bố quá mạnh mẻ đến mức khó mà hiểu được, nếu trước hết những người đối thoại với Người không có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Người. Đức tin phải là thái độ đầu tiên mà Người đòi hỏi ở nơi họ.
Nhưng ngay lập tức dân chúng tỏ thái độ nghi ngờ Người và bắt bẻ Người: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Ở nơi lời bắt bẻ nầy, chúng ta gặp lại cũng một lời bắt bẻ của người phụ nữ Sa-ma-ri trong cuộc đối thoại với Ngài: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lại lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11).
Với cụm từ “tổ tiên chúng tôi” trong lời bắt bẻ của những người Ga-li-lê nầy, Đức Giê-su đáp lại với từ “Cha tôi”, bằng cách đồng hóa “Cha tôi” với “Cha trên trời”, Đấng đã cho họ bánh bởi trời đích thật, và bằng cách đồng hóa bản thân Người với Bánh Hằng Sống. Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su nói về “bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian”, trong khi bánh man-na trong sa mạc “nuôi sống chỉ một mình dân Ít-ra-en”. Nói cách khác, Đức Giê-su là Mô-sê mới nhưng cao vời vô tận trên ông Mô-sê. Lúc đó, những người Ga-li-lê thốt lên: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh nầy”; cũng như người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đã thưa: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy , để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15).
Phải mở tâm trí ra trước mầu nhiệm.
Lúc đó, Đức Giê-su vén mở thêm nữa bức màn mầu nhiệm của Người: “Chính tôi là bánh ban sự sống”. Trong Tin Mừng Gioan đây là lần thứ ba xuất hiện biểu thức: “Chính tôi là” (Ego eimi). Lần thứ nhất, Đức Giê-su tỏ mình ra với người phụ nữ Sa-ma-ri khi chị gợi lên việc Đấng Mê-si-a đến: “Đấng ấy chính là tôi” (theo sát từ: “Ego eimi”: 4: 26) và lần thứ hai Đức Giê-su tỏ mình ra với các môn đệ Người, họ kinh hoàng khi thấy một người đi trên mặt nước: “Thầy đây mà, đừng sợ” (theo nghĩa văn tự: “Ego eimi”: 6: 20).
Biểu thức: “Chính tôi là bánh ban sự sống” nầy khai mạc một loạt “tôi là” đi theo với thuộc từ: “tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “tôi là mục tử nhân lành”, vân vân (những lời khẳng định luôn luôn được liên kết với viễn cảnh của ơn cứu độ).
“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Ở đây cốt là cái đói và cái khát thần thiêng. Cách nói nầy quy chiếu đến Kinh Thánh, chính xác là đến bản văn của sách Huấn Ca. Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa lời của sách Huấn Ca và lời của Chúa Giê-su. Lời mà Sách Huấn ca áp dụng cho Đức Khôn Ngoan theo hình thức khẳng định: “Hỡi những ai khao khát Ta, nào hãy đến… Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 19-21). Qua hình thức khẳng định này, hiền nhân nầy muốn nói rằng ai đã nếm lương thực mà Đức Khôn Ngoan ban thì người ấy ước muốn được nếm mãi không thôi. Trái lại, Đức Giê-su lập lại lời của sách Khôn Ngoan và áp dụng vào chính mình theo hình thức phủ định, nghĩa là, những thiện hảo siêu nhiên mà Ngài hứa ban làm no thỏa hết mọi nhu cầu của cái đói và cái khát thần thiêng, nghĩa là những ai đã nếm lương thực mà Ngài ban sẽ chẳng còn đói và khát Thiên Chúa bao giờ.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-Năm B
ĐỨC GIÊSU, BÁNH TRƯỜNG SINH- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
Từ lương thực ‘mau hư nát’ đến lương thực ‘trường tồn’
Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ Người xuống thuyền đi sang “bên kia Biển Hồ”; còn Đức Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua: Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh.
Trước tiên Chúa cảnh giác đám thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): “Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X. Léon Dufour nhận xét: Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vi của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con người sẽ ban cho” (“Lecture de l’evangile de Jean”, cuốn 11, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải “làm việc” để kiếm tìm.
Ngộ nhận mới do những từ ngữ “làm”, “những việc” gợi lên. Dân chúng hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác.
Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua “những việc” (số nhiều) để nghĩ đến “Việc Thiên Chúa” (số ít): bởi lẽ “việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
Từ “bánh bởi trời” đến chính Đấng là “bánh trường sinh”.
Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được Người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon Dufour còn nhấn mạnh: “Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào” (OC. trang 134).
Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Aùpraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”.
Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất Hành mà làm bằng cứ:
+ Người ban manna, “bánh bởi trời” không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là “Cha” của Người.
+ Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. Aân huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X. Leon Dufour viết tiếp: “Giữa quá khứ và tương lai thì đây là ‘hiện tại của Thiên Chúa’. Từ việc nhớ lại manna trong sa mạc” (hồi ức) và khao khát “được ăn mãi thứ bánh ấy” (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể” (OC. trang 137).
+ Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống” không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. Bánh đem lại sự sống cho thế gian ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng.
-“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”, dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy (4, 15) .
– Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ “chính tôi đây là bánh trường sinh”, bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. “Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy” (X.Léon-dufour, Sđd, trang 136).
Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến” với Người và “tin” vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc 1 Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: “Ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
BÀI ĐỌC THÊM
“Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị” (R. Josse trong “Célébrer” tạp chí của CNPL, số 240, trang 41).
Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”, cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiều đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết.
Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhở đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian.
Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai, nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.
“Lương thực đích thực” (Đức Cha L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 81-82).
“Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gõ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác… Họ không muốn dấn thân: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: “Thật, tôi bảo thật các ông không phải ông mô sê đã cho các ông ăn bánh bởi trỏi đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam