Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1379827

BÁNH HẰNG SỐNG

BÁNH HẰNG SỐNG(*) Chú giải của Noel Quession

Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”.

Họ nói: “ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”

Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những “thính giả đầu tiên” của Đức Giêsu đã “phản đối” khi họ nghe nói về “Thánh Lễ” chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ . Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời”?

Đức Giêsu bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”.

Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “ân sủng” hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu ‘hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.

Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ “chẳng có gì hấp dẫn”, bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của “sự hiện diện”, tiếng Hêbrơ gọi là “Shekinnar” có nghĩa là “sự cư ngụ thực sự” của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.

Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc “bình ca” hay nhạc “tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một “hồng phúc của Thiên Chúa”. Một thứ ân sủng: “Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa”.

Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.

Đức Giêsu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:

– Vai trò ưu tiên của “ân sủng”, một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.

Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha “lôi kéo”, “dạy bảo” và “đề nghị”. Nhưng con người có thể “lắng nghe” và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.

Chỉ có những kẻ nào ưng thuận “lắng nghe lời dạy của Chúa Cha” mới có thể bước vào mầu nhiệm “Bánh hằng sống”. Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: “Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: “Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ”. Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp” (Ga 1,11).

Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng…

Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.

Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. “Ngôi vị Thiên Chúa” đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là “Đấng duy nhất” biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một “lỗ hổng”… một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.

Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.

Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.

Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.

Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc “sáng tạo đầu tiên từ hư không”.

Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: “Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: “Tôi sẽ cho người ấy sống lại”.

Tôi là bánh trường sinh.

Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là “Đấng hiện hữu YAHVEH”. Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: “Tôi hiện hữu”, “Tôi là Bánh hằng sống”.

Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.

Ở đây chỉ đặt vấn đề “sự sống”. Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống” (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về “Bánh hằng sống” (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do “cây hằng sống” mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. “Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa”. Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.

Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử”, sự sống không chết “này nhờ đức tin” đã được ban cho những người, không còn phải ăn “cây hằng sống”, nữa mà là “bánh hằng sống”: Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình”: Không ai đã thấy cái “vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một “sự sống” vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực “lý trí”. Nhưng tại sao chúng ta không để cho “Chúa Cha dạy bảo”? Tại sao chúng ta lại không tin Người?

Từ chối sự “dâng hiến” siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt” (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để “ban cho” chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người?

Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.

Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.

An sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên “cảm thấy được”; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: “Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn .

Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.

 (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B

TỪ LỜI HẰNG SỐNG ĐẾN BÁNH HẰNG SỐNG (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông

Diễn từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.

1V 19: 4-8

Bài Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc phương Bắc, đơn độc và chán nãn trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.

Ep 4: 30-5: 2

Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Thiên Chúa, thực hành đức ái như Đức Giê-su đến mức tận hiến bản thân mình. 

Ga 6: 41-51

Tin Mừng giới thiệu tiếp diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố chính Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.

BÀI ĐỌC I (1V 19: 4-8)

Đây là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).

Bối cảnh lịch sử:

Vua A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven, ái nữ của vua Xi-đôn, lại còn phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt thành truyền bá việc thờ kính thần Ba-an trong vương quốc phương Bắc, nhưng còn cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở Sa-ma-ri.

Ngôn sứ Ê-li-a kịch liệt chống đối việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi Các-men. Trong một cuộc thách đố, vị ngôn sứ của Thiên Chúa Ít-ra-en đã chiến thắng các ngôn sứ của thần Ba-an: hy lễ và lời cầu nguyện mà các ngôn sứ của thần Ba-an dâng lên cho thần để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, chỉ hy lễ và lời cầu nguyện mà ngôn sứ của Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, dâng lên cho Ngài thì được nhậm lời ngay lập tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an.

Hoàng hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ; bà ra lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a phải rời khỏi vương quốc ngay, nếu không ông sẽ bị giết chết như vậy.

Cuộc hành trình đến núi thánh.

Ngôn sứ Ê-li-a ra đi hướng về sa mạc phương Bắc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra.

Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán nãn muốn bỏ cuộc, vì vậy ông xin Chúa cho ông được chết đi: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì họ đã nghi ngờ.

Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của Đức Chúa đã phải chán nãn ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn”. Ông đưa mắt nhìn, một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức uống thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.

Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể lay chuyển tâm trí của vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.

Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình.

BÀI ĐỌC II (Ep 4: 30-32-5: 2).

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Ki tô.

Sống theo Thần Khí:

Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào ngày lãnh nhận phép Rửa Tội, họ được bảo đảm ơn cứu độ, ơn cứu độ chỉ đạt viên mãn “vào ngày giải thoát” (hoặc sau khi qua đời hay vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi, điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.

Thánh Phao-lô không ngại gợi lên cách ăn nếp ở của con người làm phiền lòng Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật, ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en đã nhận được trong suốt lịch sử của mình. Từ đó, vị ngôn sứ kêu gào: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo bạo nầy. Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tỡm những chuyện bất công” (Kn 1: 5).

Bắt chước Thiên Chúa:

Phải nói rằng thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín hữu bắt chước Thiên Chúa, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức Ki-tô. Chúng ta nên lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn trước bởi việc tha thứ: “Biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, trong Đức Ki-tô”, điều này rõ ràng ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).

Thực hành đức ái như Đức Ki-tô:

Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết “sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô”. Từ “tha thứ” đã dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, từ “yêu thương” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức Ki-tô cũng như vậy: “Như những người con yêu dấu, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, và sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô, Đấng đã yêu thương chúng ta…”. Chúng ta lưu ý rằng động từ “yêu thương” đồng xuất hiện với tỉnh từ “yêu dấu” và danh từ “bác ái” trong cùng một câu.

Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ một cách cao vời qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ. Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.

TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)

Chúng ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Hướng nhắm của bản văn vẫn là Thánh Thể, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi những người lắng nghe Ngài hãy tin vào Ngài, vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.

Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Chung chung danh xưng “người Do thái” mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư; danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin trong khi danh xưng “người  Ít-ra-en” được dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc tranh luận sắp diễn ra và cuộc tranh luận này được đinh vị theo cùng một hướng đi như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh luận của chương 5).

Vấn đề đức tin:

“Ông nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những người mà thánh Gioan nhắm đến một cách mãnh liệt trong thư thứ nhất của mình. Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.

Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi”. Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi con người phải mở rộng cõi lòng mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách thính giả của Ngài không có được một thái độ như thế; có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc, những thành kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén của những người lắng nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ sự tò mò, để chuẩn bị tâm trí họ đón nhận những lời mặc khải mà Ngài sắp ban cho: “Ai đến với tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.

Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái, những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những người không chấp nhận thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng định rằng chính Ngài nắm giữ trong tay quyền cho các vong nhân được sống lại. Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bữa tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người…” Tại các ngôn sứ, lời loan báo bàn tiệc cánh chung được nhiều lần nối kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ ở đây.

“Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:

Đức Giê-su trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị về Giê-ru-sa-lem vào thời thiên sai: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Qua đó, Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm; chính Ngài, Đấng được Chúa Cha sai đến, đem đến cho con người sự hiểu biết về Thiên Chúa. “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến”, như vậy Ngài khẳng định nguồn gốc và giáo huấn siêu việt của Ngài, tức Lời Hằng Sống. Vì ai đón nhận và gắn bó với giáo huấn của Ngài, “có sự sống đời đời”. Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3).

Đức Giê-su chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy tiếp tục mời gọi dự phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở bàn tiệc thiên sai, Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống đời đời, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện.

Từ Lời Hằng Sống đến Bánh Hằng Sống:

Những người lắng nghe Ngài là những người Do thái chắc chắn biết Kinh Thánh. Bánh man-na được tiên báo vào thời thiên sai không phải là bánh hằng sống mà Đức Giê-su hứa ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời sao? Đức Giê-su lay động tâm trí của họ. Trong ánh sáng của các bản văn, tâm trí họ phải mở ra mà hiểu cho được.

Lúc đó, Đức Giê-su khẳng định thêm một lần nữa: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế.

home Mục lục Lưu trữ