Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1378377

BÁNH HẰNG SỐNG

Bánh Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Ông tổ Abraham đi cứu người cháu là ông Lot bị bắt giữ, khoảng 1850 năm trước khi Chúa Giêsu giáng trần. Trên đường trở về đi qua Salem, ông Abraham đã gặp ông Melchizedek vừa là vua và là tư tế. Melkizedek đã dâng bánh và rượu cho Abraham. Bánh và rượu là biểu tượng của Bí tích Thánh Thể sau này được hiến dâng bởi tư tế theo dòng Melkizedek: Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao (Stk 14, 18). Từ thuở xa xưa, con người đã biết biến chế hạt miến, hạt mì thành bánh và ép những trái nho ủ lên men thành rượu. Đây là một tiến trình hòa lẫn biến đổi bánh rượu thật tuyệt vời. Tất cả mọi loài vật khác trên địa cầu đều ăn tươi nuốt sống theo luật tự nhiên. Riêng con người, bánh và rượu là căn cốt thực phẩm được chế biến để đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người mọi thời và mọi nơi.

Trong ba năm rao giảng, phúc âm kể lại hai lần Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Trước khi Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều, Chúa đã dạy dỗ và an ủi chữa lành bệnh tật cả tâm linh lẫn thể xác. Chúa yêu thương đoàn dân như chiên không có người chăn dắt. Người ta mải mê nghe lời Chúa quên cả ngày giờ. Chúa cảm thông mọi nỗi khát khao của họ. Chúa cho họ các món ăn cả tinh thần lẫn thân xác. Hôm nay, Chúa muốn các tông đồ lo liệu thức ăn cho đám đông. Thật là bối rối, của ăn đâu cho đủ để nuôi cả mấy ngàn người: Đức Giê-su bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn." Các ông đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này." (Lc 9, 13). Chúa muốn thử thách các các tông đồ một chút. Với lòng cảm thương sự đói khát của đoàn dân, Chúa đã sẵn sàng dùng bánh và cá như dấu chỉ của trời cao trao ban: Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông (Lc 9, 16).

Có thể chúng ta cũng cảm thấy hơi lạ, dân chúng ăn bánh với cá. Bánh là thức ăn chung của nhiều dân tộc nhưng với cá khô nướng hay cá kho. Mỗi dân tộc có những món ăn riêng biệt làm nên căn tính con người. Thức ăn nuôi dưỡng con người cả tinh thần lẫn thể chất. Thức ăn đi đôi với suy tư, quan niệm và triết sống. Đại khái thức ăn biểu trưng của người Việt Nam là cơm gạo, người Căm Bốt có mắm Bồ hóc, người Ấn Độ có món Cari, người Đại Hàn có Kim chi, người Trung Hoa có Mì phở, người Ý có Pizza, người Hoa Kỳ có Hamburger và người Mễ Tây Cơ có Taco, đỗ đậu…Thức ăn làm nên căn tính của mỗi dân tộc. Chúng ta tôn trọng sự khác biệt trong vấn đề văn hóa thực phẩm. Món ăn của các Kitô Hữu trên toàn thế giới, không phân biệt mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chúng ta cùng ăn chung một thứ bánh và uống chung một chén rượu. Bánh và Rượu của Bí Tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã chọn lựa. Khi chúng ta được ăn bánh và uống chén của Chúa, chúng ta trở nên chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.

Khi hoàn tất việc rao giảng Tin Mừng, trước khi Chúa Giêsu từ giã thế gian, Ngài đã để lại cho Giáo Hội một gia bảo quý giá vô cùng. Cũng bánh đó, rượu đó mà chúng ta được dưỡng nuôi hằng ngày. Chúa Giêsu đã chọn lựa bánh rượu trong muôn ngàn loại thực phẩm để hiến thánh. Trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng, Chúa Giêsu đã cử hành một nghi thức hết sức nhiệm mầu: Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy ( 1Cor 11, 24). Và Chúa đã chọn rượu nho để thánh hiến trở thành Máu Chúa. Chất rượu trong chén thánh là giá máu của giao ước mới. Chúa Giêsu dùng cả bánh và rượu biến đổi thành thịt và máu thánh Chúa: Cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."(1 Cor 11, 25).

Đây là mầu nhiệm đức tin. Các tín hữu tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. Niềm tin vượt trội trên tất cả mọi việc cử hành phụng vụ. Người không thuộc trong đạo Công Giáo, không thể nào hiểu nổi, tại sao người tín hữu lại tin vào tấm bánh bé mọn và chén rượu nho đó là Mình Máu Thánh Chúa. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có niềm tin vào sự biến đổi bản thể của một sự vật như thế. Trong cử hành thánh lễ, qua lời truyền phép của linh mục, bánh và rượu trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa. Một sự biến đổi lạ lùng qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mọi người tuyên xưng niềm tin và phủ phục tôn thờ Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh hình rượu. Và khi trao Mình Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên xác tín: Mình Thánh Chúa Kitô, Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Có nghĩa là chúng ta tin thật Chúa hiện diện đó.

Các linh mục thay mặt Chúa và Giáo Hội dâng thánh lễ mỗi ngày. Giám mục và linh mục đều là con người yếu đuối, tội lỗi và mỏng dòn chứa đầy tham thân si. Qua sứ vụ, Chúa đã chọn gọi những con người tầm thường để thi hành việc thánh. Thật ra, không ai là người xứng đáng đại diện đứng trước bàn thánh để dâng thánh lễ. Trong lễ hiến tế, Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa bị lột trần, bị đòn đánh nát thân, mồ hôi cùng vết thương rướm máu chảy lan, chân tay bị đóng chặt vào thánh giá, chịu đói chịu khát, quằn quại đớn đau và máu cùng nước từ cạnh sườn đã chảy ra tới giọt cuối cùng. Vì đuối sức, Chúa bị nghẹt thở và đã chết trên thánh giá để cứu độ nhân loại. Chén Máu đã đổ ra lập giáo ước mới không chỉ trong bữa tiệc ly mà là chén máu châu báu đang hứng từng giọt từ châu thân của Chúa trên thánh giá. Chén Máu của nhục hình khổ đau và chết.

Trên gian cung thánh, trước bàn thờ dưới chân thánh giá Chúa, các chủ tế mặc áo lễ thiệt đẹp, có khi rước sách linh đình, chén vàng bát kiểu, bàn thờ đá quí và hoa nến trang trọng. Các linh mục cử hành thánh lễ trong không gian rộng rãi, thoáng mát và chẳng phải chịu nắng nôi đớn đau và khổ sở như Chúa Giêsu trên thập giá xưa. Mỗi linh mục cần ý thức vai trò đại diện quan trọng của mình trong khi cử hành thánh lễ. Các linh mục có trọng trách giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Chúa Giêsu là vai chính. Chúng ta biết rằng thánh lễ hy tế là trung tâm của tất cả niềm tin Kitô Giáo. Cử hành thánh lễ tưởng niệm sự hiện diện của Chúa Kitô chịu chết và sống lại. Thánh lễ là cử hành Bí tích tình yêu dâng hiến. Thánh Phaolô lãnh nhận giáo lý từ chính Chúa Giêsu phục sinh và truyền lại cho các thế hệ, Ngài nhắc nhớ: Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết (1Cor 11, 26). Chúng ta ăn Bánh và uống Chén hằng tuần, chúng ta tiếp tục loan truyền Chúa chịu chết và sống lại. Mỗi lần lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta được biến đổi nên giống Chúa hơn.

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con Bí Tích Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quí, chúng con cùng phục bái tôn thờ. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để an ủi và cảm thông những gánh nặng cuộc đời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Hơn nữa, Chúa còn dưỡng nuôi chúng con bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa, xin cho chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt trong ân tình Chúa.

 

11. Thánh Thể - Mầu nhiệm Đức Tin - Hy Tế Tình Yêu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, lễ kính Mình Máu Thánh Chúa được Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 và được cử hành vào thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức là 60 ngày sau lễ Phục sinh. Lễ này gồm hai phần: Thánh lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, và cao điểm Rước Kiệu Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường và hát bài của Thánh Tôma Aquinô: Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê. (Ca nhập lễ)

Cử hành Thánh Thể

Giáo hội long trọng công khai Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Mầu nhiệm đã được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được nhớ đến vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho tất cả, được bao bọc bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.

Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, đức tin chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là mình Chúa Kitô và Rượu lại là máu Chúa Kitô được?

Chúng ta tin, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, Bí tích cần thiết để dẫn dắt chúng ta trên con đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa không để chúng ta mồ côi: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Nhưng Ngài ở lại với chúng ta thế nào khi trở cùng Cha? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thể hiện lời hứa trên.

Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo Hội quả quyết rằng: Sự hiện diện thật của Ngài trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức Tin Công Giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.

Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết: Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, Ngài đã làm người thực sự. Để cứu chuộc con người, Ngài đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.

Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là máu châu báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người. Vì thế, Ngài được các tín hữu ăn: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).

Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Ngài đối với chúng ta: “Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn...". Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: "Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta" (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa," (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).

Thánh Gioan Kim Khẩu nói: "Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Ngài lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Ngài kết hợp chúng ta với Ngài, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy." (Thánh Gioan Kim Khẩu)

Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Ngài đã sinh ra thì Ngài nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Ngài làm cho ta vững tin rằng Ngài đã mang lấy chính xác thân của ta”. Ngài tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta”, “làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).

Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là truyền thống rước kiệu Mình Thánh Chúa.

Rước kiệu Mình Thánh trên các nẻo đường

Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!

Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta.

Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh nuôi sống đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.

Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.

 

12. Tình yêu tột cùng – Cố Lm Hồng Phúc

Ở trong nhà tiệc ly chiều hôm thứ năm thánh ấy, Chúa Giêsu đã cầm bánh và rượu lập nên phép Thánh Thể. Bánh đã trở nên mình Chúa, rượu đã trở nên máu Chúa. Thì cách đó độ 300 thước, trên sân đền thờ người Do-thái cũng giết con chiên lấy máu rẩy lên bàn thờ, họ dâng bánh thánh theo luật Môisen dạy. Ngài cũng làm một nghi lễ, nhưng mặc cho nghi lễ ấy một ý nghĩa sâu xa: Ngài vừa là Thầy cả vừa là của lễ hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha, vừa là của nuôi linh hồn ta.

Trong bài đọc I, Kinh Thánh kể lại việc Môisen làm hy lễ giao hòa bằng cách lấy máu bò tơ tưới lên bàn thờ. Người xưa coi máu là sự sống, cấm đổ máu người ta là cấm hại mạng sống người vì mạng sống thuộc quyền của Chúa; người xưa lấy máu để tỏ tình đoàn kết giao hòa. Hai bộ lạc dễ tỏ tình đoàn kết thì cho hai vị thủ lãnh gặp nhau, lấy dao rạch máu ở tay, và đôi bên uống máu nhau. Bằng nghi thức ấy, họ cho rằng hai bên đã uống nguồn sống của nhau và đã trở nên anh em, đã giao hòa mãi mãi với nhau. Môisen đã làm nghi lễ ấy khi lấy máu bò tơ, đại diện cho toàn dân để tưới lên bàn thờ Thiên Chúa: giữa Thiên Chúa và dân đã có một cuộc giao hòa vĩnh viễn.

Khi lập nên phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đã hoàn tất việc giao hòa giữa ta với Thiên Chúa. Máu thánh của Ngài chảy trong huyết quản của ta, làm cho ta giao hòa nơi Thiên Chúa, Ngài ở trong ta như ta ở trong Ngài. “Này là chén máu Ta, máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được khỏi tội”. “Nếu các con không ăn thịt và uống máu Ta thì các con không có sự sống đời đời”.

Thánh Thể là một cuộc giao hòa – Thánh Thể là một lễ tế.

Chúa Giêsu biết giờ sau hết của Ngài đã gần đến thì Ngài yêu thương ta đến tận cùng. Ngài đã làm gì? Ngài diễn tình yêu ấy ra trước cuộc tử nạn của Ngài sẽ xãy ra ngày mai; Ngài cầm bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán: “NÀY LÀ MÌNH TA”. Bánh ấy đã trở nên mình Ngài, mà ngày mai sẽ bị roi đòn đánh đập, bẻ gẫy như chiếc bánh hôm nay, đã hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha và làm của ăn nuôi linh hồn ta. Hai việc ấy là hiến dâng và nuôi sống linh hồn ta, chính là một cuộc lễ hiến tế và Ngài muốn chúng ta phải làm đi làm lại: “Chúng con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.

Vậy phép Thánh Thể là cuộc giao hòa chúng ta với Chúa, là việc tế lễ ta với Chúa. Hôm nay mừng mầu nhiệm ấy, chúng ta hãy dâng tất cả để tôn vinh và cảm tạ Chúa, vì đã ban cho chúng ta phép Thánh Thể.

 

13. Không thể cho gì hơn nữa

Cách đây không bao lâu, một đám thợ lặn đã tìm ra chiếc tàu Tân Ban Nha bị chìm dưới đáy biển ngoài khơi Bắc Ái Nhĩ Lan. Trong số các báu vật tìm được trong tàu, họ thấy một chiếc nhẫn bằng vàng, trên mặt nhẫn có chạm một bàn tay nắm trái tim với dòng chữ:

- Anh không còn gì hơn nữa để cho em!

Hình ảnh về câu nói trên nhắc chúng ta nhớ đến việc Chúa Giêsu đã chịu chết để cứu chuộc chúng ta. Trái tim người đã bị đâm thủng vì chúng ta và Ngài còn tự nguyện trở nên thần lương cho đời sống Kitô hữu của chúng ta trong Bí tích Thánh Thể.

Nhiều nhà thần học gia nói rằng: việc Chúa Giêsu từ bỏ ngai Trời của mình hoá thân làm người cũng đủ cứu chuộc chúng ta rồi. Thế nhưng, với lòng yêu thương chúng ta quá bội, Ngài còn muốn trao ban cho chúng ta tất cả tình yêu, trao ban cả mạng sống của Ngài. Chính sự hy sinh vô cùng này có sức cứu chữa tất cả mọi tâm hồn tội lỗi, tha thứ mọi hình phạt mà con người đáng phải chịu. Ai yêu mến Chúa hết lòng, và ước ao trở nên một với Ngài trong Bí tích Thánh thể, sẽ được nên giống Chúa và chắc chắn sẽ được phần thưởng Nước Trời.

Thời nay, chúng ta không được gặp Chúa Giêsu, không được nghe Người giảng trực tiếp như các Tông đồ ngày xưa, nhưng chúng ta có Bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu không muốn chúng ta thiệt thòi hơn dân Do Thái xưa nên Người đã lập Bí Tích Thánh Thể, để tiếp tục ở với chúng ta, đến với từng người chúng ta như xưa Người đã đến trong dân Do Thái. Mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ là chúng ta được nghe lại lời Chúa và suy niệm theo sự gợi ý của vị linh mục, sau đó được rước chính Chúa vào lòng như xưa kia Giakêu, Phêrô, chị em Lazarô... đã rước Chúa vào nhà mình. Giáo lý Công giáo dạy rằng: mỗi khi chúng ta rước lễ là được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và hợp nhất với nhau, được tha thứ các lỗi nhẹ, được Chúa thêm sức giúp chúng ta chống trả các cơn cám dỗ... Vấn đề là chúng ta có cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong lòng mình không? Hay chúng ta rước lễ vì thói quen, rước rồi mà không nhớ là Chúa đang ngự trong lòng mình, quên việc tiếp đón và tâm sự với Chúa. Nếu chúng ta rước Chúa cách thờ ơ như vậy thì không chừng đáng bị phạt hơn là được ơn. Vì vậy, phải chuẩn bị tâm hồn kỹ lưỡng trước khi rước Chúa. ước gì mỗi lần rước Chúa, chúng ta đều rước với lòng yêu mến chân thành, cung kính để an ủi trái tim Chúa và nhận được tràn đầy ơn ích thiêng liêng.

Xưa kia, Thiên Chúa ngự xuống núi Sinai và nhắn gởi những lời thương yêu, nhắc bảo, sửa dạy dân chúng mà dân Do Thái cảm thấy rất phấn khởi và đầy lòng kính sợ Chúa. Còn chúng ta rước Chúa thường xuyên với tâm tình nào? Chúng ta có sẵn sàng lắng nghe lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu không? Có lẽ chúng ta chưa được như vậy! Vì vậy, hôm nay chúng ta hãy xin Chúa ngự vào lòng và làm cho long chúng ta bừng cháy lửa yêu mến Chúa, vui long hy sinh phục vụ cho gia đình, và tha nhân, chu toàn các bổn phận mà mình đã lãnh nhận trong chức vị hiện tại của mình đối với Giáo Hội và xã hội.

Xin Mình Máu Thánh Chúa mà chúng con rước lấy hàng ngày thêm sức cho linh hồn con, cho tâm trí con được chan chứa tình thương và lòng vị tha bác ái, để chúng con thật sự là chứng nhân cho Chúa giữa trần gian này.

 

14. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu

Lễ nào không phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ hôm nay? Đó là vấn đề đã được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến ở mọi nơi. Trước đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày lễ đặc biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hàng ngày nên không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ XII, vì có người đặt vấn đề sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh và kiệu Mình Thánh. Đó còn là những việc mà chúng ta muốn làm hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với bí tích Thánh Thể.

Nhưng cho dù chính đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.

1. Bánh rượu trong tay Melkisedek.

Bài sách Khởi Nguyên đưa chúng ta về một thời đại xa xưa, thời của tổ phụ Abraham. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến để cứu anh em mình là gia đình ông Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôma ra đón để chúc mừng và tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ.

Tác giả sách Khởi Nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu truyện. Nhưng đây là ba câu đã có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều có ý nghĩa. Melkisedek, nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính. Và Salem không những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng Hòa Bình. Chắc chắn câu truyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại Giêrusalem, ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao Giêrusalem, và để nói lên rằng: thủ đô của dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc đặt chân đến.

Hơn nữa, ở đây, nơi đô thị ‘Hòa Bình’ này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật ‘mầu nhiệm’. Ông không phải chỉ là vua, mà còn mang danh hiệu là ‘ông vua công chính’. Về sau người ta đã cố gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận: ông như không cha không mẹ; ông đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi. Ông là con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu truyện này.

Ông ra đón Abraham, nhưng khác hẳn với vua Sôđôma đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là Vua Salem, ông đã không nghênh đón ‘người đại thắng khải hoàn’ theo cung cách triều đình, nhưng với tác phong là tư tế; vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao. Ông dùng chính vị Chúa của mình là Đấng Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc. Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.

Có lẽ hàng tư tế Do Thái đã thích câu truyện này và muốn lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính vị tổ phụ đã làm như thế!

Nhưng phần lớn truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa Tối Cao mà ông tôn thờ. Ngài là Đấng dựng nên trời đất, nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những tư cách này khiến con cái Israel –cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng là Thiên Chúa của họ và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô thị của Thiên Chúa.

Điều này cũng nói lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ Đấng dựng nên trời đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn giáo tự nhiên thờ Đấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn đáng trọng.

Tuy nhiên Cựu Ước chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisêdek như phụng vụ muốn cho chúng ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trên tay vị tư tế mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Đấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ được đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất, ngay từ buổi đầu của lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisêdek nói lên lòng tôn thờ tự nhiên, chuẩn bị cho việc tôn thờ hoàn chỉnh sau này.

Do đó ngày nay trong Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu ‘là hoa mầu ruộng đất và lao công vất vả của con người’ để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisêdek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang chờ được vị thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ của chúng ta đã bắt nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisêdek và cho tới nay. Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của lễ khi nhận lấy bánh rượu đã được dâng từ thời Melkisêdek để trở nên bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.

Và Melkisêdek là hình ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng ta. Do đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ tới vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta muốn tất cả trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đã biến đổi nên Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn Người trong hành vi tế lễ.

2. Bánh rượu trong tay Chúa Giêsu.

Chắc chắn, khi còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ lại một lần, lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Ngài ra đi chịu chết.

Lần ấy Người đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến nỗi mỗi khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần này và lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu ở bàn Tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể việc Đức Giêsu cầm lấy bánh để chia trong một dịp khác.

Việc này xảy ra trước bữa Tiệc ly; nhưng như đã nói, môn đệ Chúa đã kể lại việc này theo ‘khuôn mẫu’ của việc Người cầm lấy bánh rượu ở trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu truyện kể ở đây đã xảy ra trước, nhưng đã được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn Tiệc ly.

Thánh Phaolô viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật, đây là điều người đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại cho tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới có thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.

Họ vẫn hội họp nhau để cử hành ‘bữa tiệc của Chúa’. Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là ‘của Chúa’ cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ những người khác. Những người này nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn bã. Người ta chỉ mượn ‘Nhà của Chúa’ để mang đồ ăn của ‘nhà mình’ tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành ‘bữa ăn tối’ của Chúa nữa.

Thế nên để sửa dạy giáo dân của Ngài, Phaolô nhắc lại thế nào là ‘bữa ăn’ đích thực của Chúa. Người làm cho họ nhớ giáo huấn chân truyền. Và sự thật ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Người đã bẻ ra và nói: “Này là Mình Ta… vì các ngươi…”. Cũng vậy về Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: “Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta”.

Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Người nói rõ việc ấy xảy ra trong đêm Đức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Người. Và ‘Bữa Ăn Của Chúa’ luôn luôn mang sắc thái của bữa Tiệc ly.

Đó cũng là bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong tương lai cho đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Đức Giêsu lại tuyên bố: đây là Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó là chén giao ước mới. Do đó, rõ ràng Người đã tự coi, tự hiến mình nên Chiên Vượt Qua để mang đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.

Các môn đệ không lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ của Chúa Giêsu đã khai trương thời đại mới. Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu, vì phải đợi đến ngày hôm sau khi thấy Mình Ngài bị nộp và Máu Ngài chảy ra họ mới biết hết ý nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Đức Giêsu đã bảo: ‘Phải làm sự này mà nhớ đến Người’. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài, nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được Giao Ước mới, phải làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy bánh rượu mà làm như Ngài.

Thế mà giáo dân Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô phải bảo họ ‘mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa… anh em làm bất xứng, thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa.

Những lời này tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời thánh Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu. Nhưng mục đích của thánh Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể; Người muốn rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có tâm tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.

Đây là bữa ăn Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho đến nay với tâm tình tạ ơn, nhưng cũng với ‘ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu. Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ đến cuộc Tử Nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh Người đã dâng để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại.

Bánh rượu trên tay Chúa, vì thế, không còn phải chỉ là bánh rượu như trên tay Melkisêdek nữa. Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu, bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Đó không phải chỉ là hoa mầu ruộng đất, nhưng còn là lao công vất vả của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới, nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi bí tích bánh rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.

3. Bánh rượu trên tay chúng ta.

Dĩ nhiên khi dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì lời thánh Phaolô nói với tín hữu ở Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ ‘Bữa Ăn Của Chúa’, mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.

Ở đây chúng ta hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu của Đức Giêsu nơi bàn Tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác mà Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở bàn Tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả. Điều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca kể hôm ấy Chúa muốn thết đãi những người đi theo Chúa vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi… Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết đãi dân chúng.

Chúng ta bảo bữa ăn này báo trước bàn Tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn Tiệc ly đã cung cấp cho thánh Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu truyện xảy ra trước? Dĩ nhiên câu truyện này cũng có ý báo trước những việc xảy ra sau… nhưng chính những sự kiện xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu truyện xảy ra trước và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.

Chúng ta không cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì thánh Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh để thuật câu truyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem ngoài các yếu tố báo trước bàn Tiệc ly và tiệc Thánh Thể, thánh Luca còn muốn chú trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các Tông Đồ. Lúc đầu họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn sàng làm thêm. Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả mình xuống thành từng cỗ. Ngài trao bánh cá cho họ phân phát… cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng số 12 Tông Đồ.

Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của ăn vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ vụn?

Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên thánh Phaolô đã phải nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta: chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể, nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?

Thế nên hôm nay chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc của Chúa chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn tiệc thánh được Chúa nuôi thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ, chúng ta có bánh rượu là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.

home Mục lục Lưu trữ