Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 30

Tổng truy cập: 1379104

BẮT ĐẦU BƯỚC VÀO ĐỨC TIN

BẮT ĐẦU BƯỚC VÀO ĐỨC TIN (*) Chú giải của Noel Quesson

Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích “tượng trưng” sâu xa: Sự kiện ấy là một “dấu chỉ”. Nó có một “ý nghĩ” ẩn giấu.

Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê.

Khi Gioan viết những từ “ngày thứ ba” ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại “ngày vinh quang” của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 – 17,23 – 20,19; Lc 9,2-18 – 33-24, 7; Cv 10,40).

Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.

Trong phần đầu Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá…mà không cho biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu… đó là “Mẹ Người “!

Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”

Giờ của Đức Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 – 8,20 – 13,1 – 16,25 – 16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh quang: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,l-5). Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người được “nâng lên” về mặt thể xác và một cách tưởng tượng… đó là sự sống lại, Người được “nâng lên” bên hữu Chúa Cha… và đó là sự tuôn đổ của Thánh Linh cho các tín hữu… (Ga 3,14 – 8,28 – 12,32 – 17,11 – 17;13 – 17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá “hữu thể” sâu xa của Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người. Người nói rằng “Giờ của Người” chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa.

Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”

Bề ngoài kiểu nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành. “Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: “Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm theo” (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.

Giờ đây, chính Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Ở đó, đang thiếu rượu… và có lẽ, nào ai biết được, “tình yêu’ cũng thiếu… Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: “Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta “không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó… Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: “Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo”.

Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)

Không một chi tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.

Chúng ta thử hiểu một nửa chữ thôi…

“Sáu chum đá… Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.

“Dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!

“Họ đổ đầy tới miệng…”. Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong “dấu chỉ” đầu tiên này, quả thật là điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!

“Rượu”… Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v…) Trái nho là một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người”. Các thời đại của Đấng Mêsia được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: “Đức Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu nồng”(Isaia 25,6; A – mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3 1., 12; Diễm ca 2,4 v.v…)

Vả lại chúng ta chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ “rượu’” mầu nhiệm được róc ra. Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người… trong sự chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: “Từ nay Thầy không còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc của Cha Thầy”.

Phúc thay cho những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.

Mỗi lần bạn uống được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một “dấu chỉ” về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.

Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”.

Sự lầm lẫn này có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng “tân lang” đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).

Chúng ta thấy ở đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana…”. Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta”. Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!

Một truyền thống lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta “sự ngỏ lời tình yêu” nóng bỏng như một đam mê của người si tình: “Người ta sẽ không còn gọi em “cô gái bị bỏ rơi” nhưng người ta sẽ gọi em là “cô gái được yêu thích”, người ta sẽ gọi xứ sở của em là “Tân nương của Ta”… Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em” (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien 16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2 – 22,17 v.v…).

Vả lại như bạn đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân nương thật sự là người “phụ nữ” mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang tính tượng trưng sâu sắc: ‘Thưa Bà!”. Tân nương của Thiên Chúa, chính là Israel chờ đợi “giao ước mới” khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa. Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là “con gái của Israel” và khuôn mặt của Giáo Hội”. Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn… Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô… trong khi vui cũng như trong lúc buồn!

Chúng ta sống trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra… Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn rượu nữa!”. Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu thương cho đến cùng” (Ga 13,1).

Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống “hôn nhân” hay cuộc sống “độc thân”. Tuy nhiên chúng ta chớ nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa – Tình Quân. Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn, vợ chồng bạn là “dấu chỉ”, nghĩa là “bí tích”, “sự biểu lộ” của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn “không có tình yêu”, bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được “dấu chỉ” của tiệc cưới Cana, điều đó chẳng cần thiết hay sao?

Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

Bên ngoài tính giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người… các môn đệ đã bắt đầu bước vào đức tin… “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người”.(Ga 1,14).

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN – NĂM C

DẤU LẠ CANA (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Thường Niên năm C này nêu bật dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện ở tiệc cưới Ca-na.

Theo truyền thống của các Giáo Hội Đông Phương, ba biến cố: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, phép rửa của Đức Giê-su và dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na, hình thành nên ba biến cố Chúa Hiển Linh và được cử hành cùng nhau. Theo truyền thống Tây Phương, năm C là năm duy nhất trong ba năm phụng vụ, tưởng niệm việc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài ở tiệc cưới Ca-na, sau phép rửa của Đức Ki-tô và việc các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, như vậy duy trì mối liên hệ giữa ba cuộc hiển linh đầu tiên mở ra mầu nhiệm của Đức Giê-su là Vua, Con Thiên Chúa và Đấng Ki-tô.

Is 62: 1-5

Chủ đề của Bài Đọc I là cuộc phục hưng Giê-ru-sa-lem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “Hiền Thê” cho dân Ngài.

1Cr 12: 4-11

Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô rằng muôn vàn ân sủng mà họ hưởng được đều phát xuất từ một Thần Khí duy nhất, Đấng tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi cách vì lợi ích của cộng đoàn.

Ga 2: 1-12

Nhân tiệc cưới ở Ca-na, Chúa Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên: dấu lạ hóa nước thành rượu tiên trưng dấu lạ hóa rượu thành máu của Ngài, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và nhân loại.

BÀI ĐỌC I (Is 62: 1-5)

Bài thánh thi này ca ngợi cuộc phục hưng sắp đến của Giê-ru-sa-lem vào giờ phút khiến lòng người phải nghi ngờ. Sau khi trở về từ Ba-by-lon, những người lưu đày gặp lại thành thánh nghèo nàn, dân cư thưa thớt, đền thờ hoang tàn đổ nát, suốt năm mươi năm qua dưới ách thống trị của ngoại bang. Trước tiên họ bắt tay tái thiết đền thờ, nhưng công việc đã phải bị bỏ dỡ vì thiếu tài chánh và vì những chống đối khác nhau. Họ thất vọng vì công việc quá lớn lao và những khó khăn gặp phải. Trong bầu khí chán chường thất vọng, một ngôn sứ vô danh, được gọi dưới biệt danh là I-sai-a đệ tam, môn đệ của I-sai-a đệ nhị, công bố rằng Giê-ru-sa-lem sắp được phục hưng và tìm lại vinh quang của mình.

Cuộc phục hưng huy hoàng sắp đến:

Phải chăng đây chính là lời loan báo của vị ngôn sứ hay lời hứa của Thiên Chúa được đặt trên môi miệng của vị ngôn sứ? Thật khó phân định điều này; một sự luân phiên giữa giọng nói của vị ngôn sứ và giọng nói của Thiên Chúa là một trong những nét đặc trưng của bài thánh thi này. Chung chung, vị ngôn sứ không bao giờ nói ở ngôi thứ nhất, trừ một lần, khi ông biện minh sứ vụ của mình. Qua những gì xảy ra trước đó, chúng ta biết rằng những người hồi hương luôn luôn phàn nàn về việc Thiên Chúa trì hoãn phục hưng Thành Thánh và Đền Thờ của Ngài.

Thật kỳ lạ biết bao khi vị ngôn sứ vặn lại, sự chậm trể không đến từ Thiên Chúa nhưng từ tội lỗi của các ngươi, vì tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Ngài vẫn thường hằng. Đó là ý nghĩa của câu thứ nhất mà người ta toan tính gán cho chính Đức Chúa:

Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62: 1).

Giê-ru-sa lem phải được tái thiết trong đức công chính của nó, trong ơn cứu độ của nó. Ở đây “đức công chính” và “ơn cứu độ” thì tương đồng rất rõ nét. Vị ngôn sứ ngỏ lời với Thành Thánh, ông loan báo rằng Thành Thánh sẽ được phục hưng trong huy hoàng rạng rỡ; những quốc gia và những vua chúa đã áp bức Thành Thánh rồi sẽ thấy vinh quang của nó, ơn cứu độ của Giê-ru-sa-lem sẽ “rực lên như ngọn đuốc”.

Người ta thường nhận ra trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ tam, một ý tưởng đắc thắng. Dân Thiên Chúa sẽ hả dạ vì những nhục nhã họ đã phải chịu:

“Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng” (Is 62: 2).

Hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài:

Phần cuối của sấm ngôn này lấy lại hình ảnh về hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài, hình ảnh này đã trở thành kinh điển kể từ ngôn sứ Hô-sê, rồi đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Giao Ước được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu: dân Chúa là Hôn Thê tưởng rằng mình bị thất sủng nay gặp lại tấm lòng sủng ái của Đức Chúa là Hôn Phu của mình.

Nhưng để Giao Ước có thể được tái lập, quá khứ tội lỗi phải được thanh tẩy. Dấu hiệu đầu tiên là gán tên mới cho Giê-ru-sa-lem. Một tên mới tạo nên một căn tính mới. Chúng ta biết tầm quan trọng của tên theo truyền thống Kinh Thánh. Tên diễn tả bản chất sâu xa của một người hay vận mệnh của người mang tên ấy. Giê-ru-sa-lem sẽ không còn được gọi “Đồ bị ruồng bỏ” nhưng “Ái khanh lòng Ta hỡi”. Xứ sở của nó sẽ không còn là “Phận bạc duyên đơn”, nhưng “Duyên thắm chỉ hồng”.

Còn hơn thế nữa, Giê-ru-sa-lem sẽ được Đấng tác thành mình lập hôn ước “như trai tài sánh duyên cùng thục nữ”, nghĩa là, mọi tội lỗi, bất trung, thờ ngẫu tượng của dân thành mà các ngôn sứ đã nhiều lần gọi “con điếm” vì đã chạy theo các thần minh khác, nay được phục hồi sự trinh khiết của mình: tình yêu của Thiên Chúa đã thanh tẩy Thành Thánh. Sau này sách Khải Huyền sẽ gợi lên hôn lễ của Con Chiên với thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc:

“Vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ của Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19: 8).

Ngôn sứ I-sai-a đệ tam chắc chắn nhớ lại bản văn của vị tiền nhiệm mình, I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đã mô tả cho những người lưu đày thấy những rực rỡ của Thành Thánh Giê-ru-sa-lem tương lai và báo trước cho Thành Thánh:

“Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không còn nhớ bao nhục nhằn thời góa bụa. Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng đã tác thành ngươi, tôn danh Người là Chúa các đạo binh; Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en, tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất” (Is 54: 4-5).

Niềm vui hôn ước và niềm vui thời Mê-si-a.

 “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62: 6).

Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mê-si-a, niềm vui mà rược dồi dào của tiệc cưới Ca-na loan báo theo cách khác.

BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 4-11)

Trong năm Chúa Nhật liên tiếp, Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta đọc những đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, từ chương 12 đến chương 15.

Bối cảnh:

Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã lưu lại thành phố này khoảng mười tám tháng và đã để lại một cộng đoàn Ki-tô hữu rất sinh động nhưng cũng gây nên nhiều nỗi bận lòng cho thánh nhân.

Thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thư cho các tín hữu Cô-rin-tô, thư thứ nhất và thư thứ ba đã thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất thực ra là thư thứ hai. Thánh Phao-lô đã viết thư này từ Ê-phê-xô (có lẽ vào mùa xuân năm 55). Sau khi đã nhắc nhở trật tự trong cộng đoàn, tiếp đó, bàn đến nhiều vấn đề nhất định, thánh nhân bắt đầu tranh luận: toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu đều phải ở dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ gìn giữ cộng đoàn trong sự hiệp nhất và sẽ giúp cho cộng đoàn biết biện phân những hoạt động vì lợi ích chung của Cộng Đoàn.

Lương dân và người Ki-tô hữu:

Các tín hữu Cô-rin-tô sống trong bối cảnh ngoại giáo khá đặc biệt. Thành phố Cô-rin-tô là một đô thị lớn thuộc miền duyên hải và gồm nhiều dân tứ xứ, mở rộng cửa đón nhận thế giới bên ngoài. Chịu ảnh hưởng từ miền Cận Đông, các tôn giáo cổ truyền nhường chỗ cho những khát vọng huyền bí, trong khi những tôn giáo mầu nhiệm tràn lan với những nghi lễ khai tâm và thực tiển hướng đến niềm hưng phấn và xuất thần. Những thái độ này có thể rất gần với những đặc sủng mà các Ki-tô hữu được hưởng. Cần phải nêu lên tất cả cái lập lờ này. Trong cộng đoàn Ki-tô hữu, những ân huệ nhận được có nguồn gốc siêu nhiên; nguồn mạch duy nhất của mọi ân huệ này là Thiên Chúa Ba Ngôi.

Dấu chỉ Ba Ngôi:

Lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và những hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đi từ Chúa Thánh Thần:

– Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.

– Có nhiều công việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki-tô).

– Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm mọi sự trong mọi người (Chúa Cha).

Đoạn, thánh nhân liệt kê một loạt những ân huệ khác nhau, đều là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Giáo Hội tiên khởi chắc chắn đã hưởng được nhiều cách thế bày tỏ đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Thánh Lu-ca đã nêu lên nhiều ví dụ trong sách Công Vụ Tông Đồ, đến mức sách này được gọi “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.

Những ân huệ dồi dào và tự phát như thế bổ túc cho việc thiếu cơ cấu tổ chức. Nhưng thánh Phao-lô muốn tránh tình trạng hỗn loạn; vì thế thánh nhân nhấn mạnh sự duy nhất cơ bản của mọi ân huệ này: “Chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người”.

TIN MỪNG (Ga 2: 1-12)

Theo Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai mạc sứ vụ của Ngài qua dấu lạ tiệc cưới Ca-na: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê”. Vậy từ “dấu lạ” muốn nói lên điều gì? Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, vấn đề “dấu lạ” có rất nhiều nghĩa, nhưng được tập trung vào một nghĩa cơ bản: thời đại Mê-si-a đến ở nơi sự hiện diện của Đức Giê-su.

Ý nghĩa phong phú của dấu lạ Ca-na:

Bài tường thuật về dấu lạ đầu tiên này trình bày một loạt những đối chiếu với giai đoạn cuối cùng sứ vụ trần thế của Đức Giê-su.

– Đây là “ngày thứ ba” Đức Giê-su “bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”. Biến cố Phục Sinh ẩn hiện ở nơi dấu lạ đầu tiên này.

– Dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện cốt là hóa nước thành rượu; dấu lạ sau cùng của Ngài cốt là hóa rượu thành máu của Ngài.

– Dấu lạ đầu tiên này được thực hiện để cử hành tiệc cưới nhân loại; dấu lạ sau cùng để cử hành Giao Ước Mới, tiệc cưới của Thiên Chúa với nhân loại.

– Ở tiệc cưới Ca-na, Thân Mẫu Đức Giê-su được thánh ký kể ra lần đầu tiên; Mẹ Ngài sẽ chỉ được thánh ký kể ra lần thứ hai và lần sau cùng dưới chân thập giá, ở đó Đức Giê-su sẽ thân thưa với Mẹ Ngài cũng bằng cách xưng hô như ở tại tiệc cưới Ca-na: “Thưa bà”. Có những bí ẩn hòa điệu giữ hai biến cố này.

– Ở tiệc cưới Ca-na, Chúa Giê-su lần đầu tiên nói về “giờ của Ngài”. Giờ này sẽ là giờ Tử Nạn và Vinh Quang của Ngài. Khi viết: “Đức Giê-su biết giờ của Ngài đã đến” (Ga 13: 1), thánh ký sẽ nói về lễ Vượt Qua gần đến và về bữa ăn sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Bữa ăn đầu tiên, tiệc cưới Ca-na, cũng được định vị vài ngày trước lễ Vượt Qua.

Những đối chiếu đa dạng như trên giúp chúng ta hiểu sâu xa những ý nghĩa phong phú của dấu lạ tiệc cưới Ca-na.

“Ngày thứ ba”:

Thánh Gioan xây dựng bài tường thuật của mình về những khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su theo cùng một cách với bài tường thuật về giai đoạn sau cùng của Ngài, với thời gian đặc thù và biểu tượng: các biến cố được cô động thành một tuần lễ, ngầm tham chiếu đến bảy ngày của công trình sáng tạo. Chính “vào ngày thứ bảy” của tuần lễ khai mạc mà tiệc cưới Ca-na, dấu chỉ của ơn cứu độ thời Mê-si-a, được định vị: một cuộc sáng tạo mới. Nhưng đây cũng là “ngày thứ ba” khởi đi từ việc Đức Giê-su ra khỏi miền Giu-đê. Việc Đức Giê-su tham dự tiệc cưới Ca-na được đặt vào ngày thứ ba sau lời hứa của Ngài cho ông Na-tha-na-en, một trong những môn đệ đầu tiên của Ngài: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1: 50).

Ca-na là một thị trấn nhỏ thuộc miền Ga-li-lê không xa làng Na-da-rét. Đức Ma-ri-a đến Ca-na, chắc chắn từ Na-da-rét; Mẹ đến một mình; chắc hẳn thánh Giu-se đã qua đời. Còn Đức Giê-su đến từ miền Giu-đê với các môn đệ Ngài; Ngài gặp lại Mẹ Ngài ở tiệc cưới này. Người ta đã nghĩ rằng chú rể và cô dâu thuộc gia tộc của Đức Ma-ri-a, vì Mẹ xử sự gần như gia chủ khi căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Dù thế nào, gia đình nầy thuộc tầng lớp hạ lưu, vì tại những gia đình giàu có rượu không thể thiếu. Những người được hưởng dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su thuộc gia đình nghèo. Điều này chẳng có gì phải ngạc nhiên cả.

Dấu chỉ của rượu:

“Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước”. Những chum đựng nước này được dùng cho các khách rửa tay trước khi dự tiệc, đây là nghi thức thanh tẩy theo luật định. Một trong số chum đá này chắc chắn được dùng để thanh tẩy các vật dụng được dùng trong bữa ăn như thánh Mác-cô ghi nhận: “Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của các tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng” (Mc 7: 3-4). Sau khi dùng, những chum này cạn nước. Đức Giê-su bảo đổ đầy nước vào các chum cho tới miệng. Như vậy, rượu mà Ngài sẽ ban thật dồi dào và thậm chí dư dật, như đối với phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ấy vậy, rượu dư dật đến như thế là hình tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng để loan báo buổi bình mình của kỷ nguyên Mê-si-a (Am 9: 13; I s 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18; Tv 78: 24-27; 132: 15). Phép lạ Ca-na là một dấu chỉ thời Mê-si-a.

Mặt khác, rượu là dấu chỉ của niềm vui; nói một cách chính xác, rượu biểu tượng niềm vui thời Mê-si-a, tiên trưng niềm vui vĩnh cữu, thường được biểu thị bởi bàn tiệc trong Nước Thiên Chúa, “bàn tiệc cánh chung”. Đức Giê-su ám chỉ đến điều này vào bữa Tiệc Ly: “Từ nay, Thầy sẽ không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26: 29; Mc 14: 25 và Lc 22: 18).

Nước mà Đức Giê-su hóa thành rượu không phải bất kỳ nước nào: chính là nước được dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục của người Do thái. Đối với tác giả Tin Mừng Gioan, việc nước thanh tẩy của Cựu Ước hóa thành rượu Mê-si-a báo hiệu “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có ở đây rồi” (2Cr 5: 17). Thời đại Mê-si-a đã đến. Từ nay, nước thanh tẩy không còn có ích nữa, bị hủy bỏ và được thay thế bởi rượu, dấu chỉ của ơn cứu độ. Trong bối cảnh phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, rượu tiệc cưới Ca-na rất dễ gợi lên trong tâm trí của các tín hữu Rượu Thánh Thể, đặc biệt khi thánh ký nói với chúng ta Đức Giê-su hóa nước thành rượu xảy ra trước lễ Vượt Qua (2: 13), cùng một thời điểm mà ba năm sau này Đức Giê-su sẽ hóa rượu thành máu của Ngài cho muôn người được tha tội (Mt 26: 28).

Dấu hiệu Giao Ước:

Sự hiện diện của Đức Giê-su ở tiệc cưới Ca-na là một cử chỉ của tình bạn. Vì tình bạn, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ này để tránh cho gia đình này khỏi bẽ mặt; nhưng đồng thời Ngài đem đến một sự bảo lãnh – một sự bảo lãnh thần linh – cho tính chất linh thánh của hôn nhân. Ngoài ra, cử chỉ của Ngài mặc lấy một chiều kích thần học: chính bằng ngôn từ tình yêu hôn nhân mà các ngôn sứ đã dùng để diễn tả Giao Ước của Thiên Chúa với dân Ngài như Hôn Ước.

Trong bài tường thuật, người quản tiệc nói với tân lang: “Ai ai cũng thiết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Ấy vậy, người đãi rượu ngon không phải là tân lang mà là Đức Giê-su. Thật vậy, trong Tin Mừng Gioan, tân lang thường tượng trưng cho Đức Giê-su (Ga 3: 29). Sau này, khi ban cho các môn đệ Rượu Thánh Thể, Ngài sẽ công bố rượu này là dấu chỉ Giao Ước Mới. Thánh Phao-lô cũng sẽ sử dụng ngôn từ tình yêu vợ chồng để nói về sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Giáo Hội của Ngài; và sách Khải Huyền sẽ cử hành tiệc cưới muôn đời của Con Chiên với dân Thiên Chúa được biểu thị bởi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.

Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su khai mạc mầu nhiệm tình yêu và hiệp nhất của Thiên Chúa với nhân loại.

Thưa Bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?”

Tác giả Tin Mừng Gioan không bao giờ gọi đích danh “Ma-ri-a”, nhưng luôn luôn “Thân Mẫu Đức Giê-su”, bốn lần trong bài tường thuật này (2: 1, 3, 5, 12), cũng là bốn lần trong bài trình thuật về cuộc Thương Khó (19: 25-26), để tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ, Mẹ đã sống những năm cuối đời của Mẹ tại nhà thánh nhân và đã qua đời trong tình con thảo của thánh nhân. Chắc chắn đây cũng là tước hiệu tôn kính mà người Ki-tô hữu tiên khởi dành cho Thân Mẫu của Chúa mình.

Lời thỉnh cầu kín đáo của Đức Ma-ri-a: “Họ hết rượu rồi”, nhắn gởi cho Đức Giê-su, Con Mẹ, diễn tả độ nhạy bén của Mẹ trước nhu cầu của tha nhân. Nhưng câu trả lời của người con cho mẹ mình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?” thật đáng ngạc nhiên, như thử muốn nói rằng: “Đây không phải là công việc của mẹ. Xin đừng can dự vào”.

Trước tiên, cách xưng hô “Thưa bà” không nói lên một sự bất kính, nhưng diễn tả cái khoảng cách. Chúa Giê-su xưng hô như thế với người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4: 21), với người đàn bà Ca-na-an (Mt 15: 28), với người phụ nữ còng lưng (Lc 13: 12), với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Ga 20: 15). Cái khoảng cách này được tăng cường bởi những lời tiếp theo sau: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi?”. Đây là cách nói mang đậm nét Do thái khá thông dụng trong Cựu Ước (x. Tl 11: 12; 2Sm 16: 10; 1V 17: 18). Tại các sách Tin Mừng Nhất Lãm kiểu nói này được đặt trên môi miệng của hai người bị quỷ ám: “Chuyện chúng tôi can gì đến ông?” (Mt 8: 29).

Cách xưng hô của Đức Giê-su với Mẹ Ngài ở tiệc cưới Ca-na tái xuất hiện ở hoạt cảnh Thập Giá, ở đó Ngài thân thưa với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19: 26). Trong hoạt cảnh sau cùng này, tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a không bị bác bỏ, vì Đức Giê-su ban cho Mẹ Ngài người môn đệ yêu mến, khuôn mẫu của người Ki-tô hữu hoàn thiện, làm con của Mẹ. Như vậy, với cách xưng hô lạ lùng ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đòi hỏi Mẹ của Ngài mở rộng tình mẫu tử của Mẹ, biến đổi tình mẫu tử riêng tư giữa Mẹ và Con thành tình mẫu tử của một Người Mẹ ân cần săn sóc những môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội của Ngài, Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.

“Giờ tôi chưa đến”:

Trong Tin Mừng Gioan, “giờ của Chúa Giê-su” là giờ Ngài được giương cao trên thập giá, giờ Ngài được tôn vinh (Ga 3: 14-15; 8: 28), giờ mà tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ tận mức ở nơi cái chết của người Con Một Thiên Chúa. Rõ ràng, ở tiệc cưới Ca-na, giờ đó chưa đến.

Nếu chúng ta đọc lại tình tiết về người phụ nữ Ca-na-an, người ta sẽ gặp lại cũng một thái độ như thế của Đức Giê-su. Trước hết, Ngài không đáp một lời, đoạn từ chối, để thử thách niềm tin của người phụ nữ này. Người phụ nữ không chùn bước. Lúc đó, Chúa Giê-su thán phục niềm tin kiên vững của bà và cho bà được toại nguyện: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15: 28).

Đức Ma-ri-a trải qua một thử thách tương tự. Trước thái độ ngập ngừng của Con Mẹ, Mẹ trả lời bởi một hành vi đức tin kiên vững vào Ngài: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Đức Mẹ đã tin vào Con Mẹ trước khi phép lạ xảy ra, trong khi các môn đệ Ngài tin vào Ngài sau khi phép lạ xảy ra. Lúc đó, Chúa Giê-su nghiêng mình trước đức tin đáng thán phục của Mẹ Ngài.

Trong bối cảnh Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê để bày tỏ vinh quang của Ngài và để các môn đệ tin vào Ngài, thì lời căn dặn của Mẹ: “Người bảo gì các anh cứ làm theo” thật có ý nghĩa biết bao trong việc huấn luyện người môn đệ lý tưởng. Dù thế nào, chúng ta ghi nhận rằng thành quả của dấu lạ đầu tiên được thực hiện nhờ sự can thiệp của Đức Ma-ri-a và dẫn đến niềm tin của các môn đệ. Vì thế, truyền thống Ki-tô giáo đã nhấn mạnh quyền năng cầu bầu của Đức Ma-ri-a, sự hiện diện ân cần của Mẹ, nỗi bận lòng của tình mẫu tử đối với tha nhân: “Xưa nay chưa từng ai đến cùng Mẹ mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Trang Tin Mừng này không chỉ mang chiều kích Ki-tô học, nhưng còn mang chiều kích Thánh Mẫu học. 

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN – NĂM C

HÔN ƯỚC GIỮA THIÊN CHÚA VỚI LOÀI NGƯỜI-  Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Tình yêu hôn nhân rất tốt đẹp. Vì thế Chúa Giêsu đã tới Cana để dự tiệc cưới và chúc phúc cho đôi tân hôn (Bài Tin Mừng). Thiên Chúa còn dùng hình ảnh hôn nhân loài người để giúp người ta hiểu được phần nào tình yêu của Ngài đối với nhân loại (Bài đọc I)

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời “tỏ tình” với loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán : “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.

GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương Chúa quá ít.

– Vì yêu thương chúng con nhiều, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa.

– Yêu thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa.

LỜI CHÚA

Bài đọc I (Is 62,1-5)

Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân do thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc.

Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa : dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng : “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới : “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

Đáp ca (Tv 95)

Thánh vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa : vui mừng, ca tụng và loan báo “Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm”.

Tin Mừng (Ga 2,1-12)

Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu tiên” qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì ?

-Trước hết Ngài cho thấy Ngài Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Chúa Giêsu.

-Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người do thái : bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.

-Bài tường thuật cũng nói tới “giờ” (Chúa Giêsu nói với Đức Maria : “Giờ con chưa đến”). “Giờ” là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.

-Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.

Bài đọc II (1 Cr 12,4-11) (Chủ đề phụ)

Có nhiều chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô : người có tài thì khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau.

Thánh Phaolô nhắc cho họ nhớ : (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần ban ; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người ; (3) và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chug của Giáo Hội.

GỢI Ý GIẢNG

* 1. Tình yêu của Chúa

Trong các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất ? Thưa là tình cha mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.

Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất ? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền.

Thế nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế.

Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.

Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất : vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta ; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta : “Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu”. Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.

Con người là một sinh vật yêu thương : con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.

Phép lạ ở Cana

Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình : số người lập gia đình rồi li dị càng ngày càng nhiều ; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình ; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống chung suốt đời.

Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn : Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.

Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế : khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào ; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy ? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin ?

* 3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu

Tin Mừng theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng này, tuy nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà bao trùm cả đời sống mọi người ; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.

Việc Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là “dấu chỉ” và còn là “dấu chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài”. Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành rượu chỉ tới là gì ? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc I : đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc như tiệc cưới : “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

Chúa Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài đã biến đổi sự chết thành sự sống.

Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.

Hạnh phúc mong manh

Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.

Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.

*

Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động : Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.

Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.

Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến “ngày thứ ba” thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu : “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.

Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt : “Tôi với bà có can chi ? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người : Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ “Giờ” tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.

Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy “Giờ” tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).

Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.

Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.

Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa : “Họ hết rượu rồi”.

Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.

Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.

Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.

Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai ; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu : yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.

Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới ; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới : chân thật, công bằng và yêu thương.

Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.

Xin Mẹ Maria luôn là đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen. (TP)

Đức Maria, gương mẫu của sứ vụ

Tin Mừng thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần: một lần ở Cana lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ. Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Tin Mừng nhất lãm nói rõ hơn về điều này.

Trong biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.

Trong biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến : thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.

Trong biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị : nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được, nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.

Trên đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.

Tất cả chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ : sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức Mẹ và bắt chước Người. (FM)

Chuyện minh họa

a/ Con sâu trong tảng đá

Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh : “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.

Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con ? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên : “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích “Món quà giáng sinh”)

b/ Cái nhìn của bậc thánh nhân

Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ : từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.

Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.

LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, chỉ Thiên Chúa mới có thể đem lại cho con người niềm vui chân thật và hạnh phúc trọn vẹn. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :

  1. Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi thành viên trong đại gia đình này / không chân thành yêu thương và quảng đại nâng đỡ nhau.
  2. Trên thế giới ngày nay / tình trạng đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình đang gia tăng đến mức báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn được hạnh phúc và bình an.
  3. Gia đình tốt thì xã hội và Giáo hội mới tốt được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình Kitô hữu / luôn quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái của mình.
  4. Một trong những điều kiện hết sức quan trọng / đem lại hạnh phúc lâu dài cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là cần tìm hiểu kỹ lưỡng và chuẩn bị chu đáo trước khi kết hôn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho giới trẻ của giáo xứ chúng ta / biết tích cực tham gia các khóa dự bị hôn nhân / trước khi cử hành bí tích Hôn phối.

Chủ tế : Lạy Chúa, nếu không có Chúa ban ơn giúp sức, chúng con không thể làm được việc gì thành công. Vậy xin thương ban ơn trợ giúp để mọi việc làm của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Chúng con cầu xin.

home Mục lục Lưu trữ