Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 64

Tổng truy cập: 1377160

BIÊN GIỚI

Biên giới

Về bác ái yêu thương, chúng ta đã nghe hoặc nói nhiều rồi, nhưng chắc chắn không bao giờ nói đủ, nói hết hay nghe đủ, nghe hết, mà còn phải nói nhiều và nghe nhiều nữa. Nhưng nghe nói hay hiểu biết luật yêu thương thôi thì chưa đủ, mà điều quan trọng là phải làm, phải thực hiện, phải hành động yêu thương thật sự. Bởi vì, nếu Kinh Thánh nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”, thì chúng ta có thể nói: tình thương không có việc làm là tình thương dỏm, tình thương đầu môi chót lưỡi, tình thương nước bọt, tình thương chết.

Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng khẳng định rõ ràng về yêu cầu đó. Chúa công nhận và khen người thông luật đã trả lời rất đúng luật và rất thuộc luật yêu thương. Nhưng còn thi hành thì sao? Có lẽ ông cũng đã thi hành, nhưng chưa thi hành đúng hoặc chưa thi hành đầy đủ khi ông hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi?”. Chúa không trả lời mà đưa ra một câu chuyện để giải thích.

Qua câu chuyện này, chúng ta đều biết ai là người thân cận của người bị nạn. Đúng, người Samari chứ không phải hai người tư tế và Lêvi, vì người Samari đã biết thể hiện tình thương. Trong khi trên thực tế, hai người tư tế và Lêvi thật sự là người thân cận của người bị nạn, vì cùng là người Do thái, đồng hương, đồng chủng, đồng đạo với người bị nạn, nhưng vì không biết thể hiện tình thương nên không còn là người anh em hay thân cận gì nữa. Trái lại, người Samari có một mối thù truyền kiếp, không đội trời chung với người Do thái, đáng lý ra ông ta phải tránh né nạn nhân, vì không có liên hệ ràng buộc nào, không cùng chủng tộc, không cùng tôn giáo, không cùng nghề nghiệp, xứ sở. Nhưng ông ta đã trở nên anh em, trở nên người thân cận của nạn nhân chỉ vì tình thương. Tình thương xoá bỏ mọi hàng rào ngăn cách. Trước mắt ông, đó là một người cần tình thương để sống và ông đã ra tay cứu giúp.

Như vậy, giới luật yêu thương không những đòi hỏi việc làm cụ thể mà còn đòi hỏi phải thể hiện đối với mọi hạng người: bất cứ ai, bất kể quốc tịch, huyết thống, đảng phái, màu da, cho dù là kẻ thù, mà gặp khó khăn, đều kêu gọi chúng ta giúp đỡ, tỏ tình thương. Nói khác đi, luật yêu thương đòi hỏi bật tung hết mọi thứ ranh giới đã bóp nghẹt nghĩa cử yêu thương, bất cứ hình thức nào cũng phải bật tung hết, để tất cả mọi người đều đối xử với nhau trên một căn bản chung duy nhất là con người mà thôi.

Chúng ta thường có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại người: tốt và xấu, bạn và thù. Kẻ xấu là người đáng xa lánh, người thù thì phải oán hận sâu sắc. Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc phân biệt đó: những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn mà chỉ bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng: là anh em của nhau.

Là con cái Chúa, chúng ta phải có cái nhìn đó, chúng ta phải thể hiện tình yêu thương đối với bất cứ ai đang cần được chúng ta giúp đỡ. Họ là anh em của chúng ta, họ là người thân cận của chúng ta. Có người ở ngay sát nhà chúng ta nhưng họ không cần được giúp đỡ, đó chưa phải là người thân cận. Trái lại, có một người đâu đâu xa lạ mà họ cần sự giúp đỡ của chúng ta, và chúng ta có khả năng giúp đỡ, họ chính là người thân cận của chúng ta.

Cách đây ít lâu có người đã đặt vấn đề như sau: những người lái xe trên đường sẽ mau mắn dừng lại để giúp đỡ hạng phụ nữ nào đang gặp khó khăn dọc đường: một phụ nữ mang bầu hay một bà cụ già gầy yếu? Một cô hippy choai choai, một chị phụ nữ đứng đắn hay một cô gái ăn mặc hở hang? Câu hỏi này đã được một tạp chí giải đáp bằng cách tiến hành một cuộc thử nghiệm trên con đường số 1 thuộc tiểu bang Florida của Mỹ, với sự cộng tác của cô Sally Mullins, một kịch sĩ 22 tuổi. Cô Sally lần lượt hoá trang thành 5 vai phụ nữ khác nhau bị hư xe dọc đường và đang chờ đợi sự giúp đỡ của người đi đường. Kết quả của cuộc thử nghiệm như sau:

Đầu tiên với bộ y phục màu đen trang nhã, mang dáng dấp của một nữ viên chức nhà nước, cô đứng bên cạnh chiếc xe hơi với cốp xe đã được nhấc lên, dấu hiệu xe cộ đang bị hư. Cô đợi đúng một phút rưỡi thì chiếc xe hơi thứ 12 đã dừng lại và sẵn sàng giúp đỡ cô. Người lái xe là một thanh niên khoảng 30 tuổi.

Kế đến, với kiểu hoá trang thành một phụ nữ mang bầu, cô Sally đứng bên cạnh xe và lần này cô phải chờ đến hai phút rưỡi và phải chờ tới chiếc xe thứ 50 mới dừng lại. Chủ xe là một cặp vợ chồng.

Tiếp đến, trong vai một bà cụ gầy yếu, cô Sally phải chờ đến năm phút và phải chờ tới chiếc xe thứ 100, đó là xe của một đôi nam nữ sinh viên dừng lại hỏi thăm và sẵn sàng giúp đỡ.

Sau đó, trong y phục của một cô gái hippy choai choai, quần din bó sát và áo chim cò, thì kết quả thật là tồi tệ: không một ai chịu dừng xe lại giúp cô.

Cuối cùng, khi nữ diễn viên khoác trên người một chiếc áo mi ni bó sát người, cô chỉ vừa bước ra khỏi xe và chưa kịp mở cốp xe lên như những lần trước, thì đã có một thanh niên hào hoa dừng xe lại phía sau và xin được giúp đỡ. Bài báo trên kết luận bằng câu hỏi: nếu bạn gặp một hoàn cảnh tương tự, bạn sẽ tình nguyện giúp hạng người nào trong số năm loại phụ nữ nói trên để xứng đáng là một môn đệ của Chúa?

Hôm nay chúng ta cũng rất nên đặt câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi”. Chúng ta cần tìm cho được ai là người Chúa muốn chúng ta giúp đỡ? Chúng ta cần soi mình vào tấm gương lời Chúa hôm nay xem chúng ta đã thể hiện đức ái phổ quát được tới đâu? Hay ngược lại, chúng ta đã vô tình hoặc cố ý dựng thêm những hàng rào bất công và vô lý để khép kín chính mình hay án ngữ người khác thể hiện tình yêu thương chăng?

 

47. Yêu thương

Tôi xin hỏi các bạn: “Ai trong các bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai hay là không muốn một ai yêu thương tôi cả?” Chắc chắn là không có ai dám khẳng định như vậy cả. Thật vậy, nhu cầu và khát vọng yêu thương vẫn tồn tại nơi từng con người, nhưng vấn đề được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay là: tôi yêu ai? Yêu với một thái độ như thế nào? Và tôi yêu để làm gì? Những câu hỏi này ắt hẳn mỗi bạn đều đã có câu trả lời cho chính mình, đó là quan niệm riêng của mỗi người.

Hôm nay, qua trang Tin Mừng thánh Luca tường thuật cho chúng ta, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một quan niệm mới về tình yêu. Và đây cũng là điều cốt lõi cho đời sống người Kitô hữu và được đặt làm trung tâm điểm của đạo Kitô giáo chúng ta: Mến Chúa và Yêu Người. Chúa Giêsu đã đặt giới răn yêu thương này trong mối tương quan của người Kitô hữu với Thiên Chúa và với con người. Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nơi người Kitô hữu có một mối quan hệ bổ túc cho nhau để người Kitô hữu ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Thánh Gioan khi nói về mến Chúa và yêu thương anh em cũng đã viết: “Ai nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu anh em mình là kẻ nói dối, vì nếu họ không yêu anh em là người họ trông thấy thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy”.

Cũng như người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay: Thiên Chúa thì chỉ có một, nhưng tha nhân thì rất nhiều xét trên mối tương quan, qua mỗi quan điểm… từ đó anh ta bối rối khi xác định cho mình người thân cận để yêu thương. Chúng ta nhiều khi cũng vậy.

 

Qua dụ ngôn người Samaria tốt lành, Chúa Giêsu đã không định nghĩa thế nào là người thân cận, nhưng Ngài đã giúp ta nhận ra cho mình mẫu người thân cận của chúng ta, đó không chỉ là những người thân quen “cùng hội cùng thuyền”, cũng không chỉ là những người cùng tôn giáo, cùng chủng tộc hay cùng một quốc gia, nhưng là những người đang gặp khốn khó, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể nói khi đến gần ai – không có bất cứ một sự phân biệt nào – là lúc ta biến người đó thành thân cận của chúng ta. Nhưng thử hỏi có thể đặt một giới hạn cho tình yêu đối với tha nhân không?

Người Việt chúng ta có câu: “Thương người như thể thương thân”. Hay như một nhạc phẩm đã diễn tả: “Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu”. Vâng, đó là tinh thần của Chúa Giêsu và là lời mời gọi của Chúa Giêsu: yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán, không lý lẽ và không đặt một biên giới nào cho tình yêu ấy. Người Samaria đã không ngần ngại đến với người xấu số kia mà không hề nghĩ đến mình có thể gặp bao điều phiền toái: hành trình bị gián đoạn và trễ hẹn, sẽ phải tốn kém, thậm chí có thể bị thiệt thân nữa vì bọn cướp đang rình rập đâu đây. Ông đã không tính toán: khi dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho tha nhân, ông không ngần ngại nhường lưng lừa để đưa tha nhân đến quán trọ và không ngần ngại dốc những đồng tiền để lo cho người bị nạn.

Yêu tha nhân như chính mình, sứ điệp Tin Mừng mời gọi ta khi đến với tha nhân hãy biết dẹp đi cái tôi của mình, phục vụ tha nhân đến nỗi có thể nói được là phải hao mòn chính bản thân mình, để người thân cận tìm được một niềm vui và an ủi.

Chuyện người Samaria tốt lành ngày xưa có còn là bài học thiết thực cho các bạn và tôi ngày hôm nay nữa không? Thưa nó vẫn là một bài học cho chúng ta. Như với người thông luật, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy để được sự sống đời đời”. Sống bác ái và dấn thân cho tha nhân vẫn ngày ngày là chứng từ sống động cho đạo tình yêu của Thiên Chúa, nó có sức mạnh cuốn hút người khác đến với Thiên Chúa.

Cha sở giáo xứ Taejou (Nam Hàn) – cha Cluny kể rằng: Khi hay tin có một người ăn xin vừa mới chết ở ngoài chợ, các bạn trẻ trong giáo xứ của ngài đã hy sinh đóng góp tiền mua hòm để lo hậu sự cho người hành khất xấu số kia. Họ đã xin phép cha xứ đem ông ta đến nhà thờ để cầu nguyện (vì ông ta cũng vừa được rửa tội), tổ chức thánh lễ và đưa ông ta đi chôn. Người dân trong giáo xứ hay tin đã đến và tham dự. Mấy ngày sau, cha xứ có việc đến một làng cách giáo xứ của ngài 30 cây số thì có hai ông lão đến gặp và nói: “Sự bác ái và kính trọng của người Công giáo đối với người chết làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo Hội Công giáo đã làm cách nay mấy ngày cho người chết nơi chợ. Vì thế, chúng tôi muốn xin trở lại đạo”. Và cha Cluny kết luận: “Thật tuyệt diệu! Các bạn trẻ trong xứ đã làm cho Giáo Hội được thiện cảm và hấp dẫn nơi con mắt của người ngoại giáo và ngay cả nơi con mắt của người Công giáo”.

Ngày nay, một xã hội đang có nhiều con người bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị bỏ sống không ra sống chết không ra chết, luôn là một thực trạng không thể phủ nhận. Nhiệt huyết của các bạn đang có, tình yêu của các bạn đang ở thời kỳ sung mãn, các bạn hãy sống làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống bác ái cụ thể và thiết thực.

“Hãy đi và làm như vậy”. Sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc tôi và các bạn nỗ lực mỗi ngày một việc làm cụ thể trong môi trường của chúng ta đang sống nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Các bạn hãy làm với một niềm tin tưởng rằng cho dù một cữ chỉ nhỏ của chúng ta đối với tha nhân là chúng ta góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương cho thế giới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với các bạn qua sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 16 vừa qua rằng: “Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi trẻ chúng con trên ngàn năm thứ ba”. Chúng ta hãy cùng trở nên chứng tá cho tình yêu bằng hai nguyên tắc: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là một; tình yêu tha nhân bao gồm tất cả mọi người, không loại trừ người ngoại bang hay kẻ thù.

 

48. Sống Lời Chúa

Làm sao để được sống đời đời? Đây là câu hỏi nhiều người đã đặt ra và cố gắng tìm câu trả lời. Đức Yêsu cũng đã được người ta đặt cho câu hỏi này, và Ngài đã không chỉ trả lời bằng lời dạy nhưng còn bằng chính cuộc sống của Ngài.

Lời Chúa ngay nơi lòng con người

Thời xưa người ta cũng ao ước được biết Lời Chúa, vì người ta tin rằng Lời Chúa đem lại cho người ta hạnh phúc. Môsê đã nói với dân chúng: Lời Chúa không ở xa con người, không ở trên trời để người ta cho rằng mình không thể lên trời nên không biết được, Lời Chúa không ở bên kia biển để người ta cho rằng xa quá không ai có thể tới để học biết và trở về dạy cho họ, nhưng Lời Chúa ở ngay trong lòng mỗi người, ở nơi miệng con người. Điều quan trọng là thực hành Lời Chúa.

Vấn đề chính yếu không phải là biết, mà là sống Lời Chúa. Mười giới răn của Chúa tóm lại nơi hai điều: yêu Chúa yêu người. Nói cho cùng, luật Chúa tóm mọi nơi giới luật “tình yêu”. Yêu tất cả mọi người, yêu đặc biệt người cần đến mình giúp đỡ như người Samaria yêu thương và giúp đỡ người bị nạn. Có thể người tư tế, luật sĩ, biệt phái biết luật nhiều hơn người Samaria, nhưng họ không sống Lời Chúa.

Ai yêu thương, là biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga.4, 8.16). Cái biết ở đây không là “biết nói” giỏi về Thiên Chúa, nhưng là “biết thực” bằng cuộc sống. Không phải cứ là nhà thần học, không phải cứ rao giảng hay về Thiên Chúa, là những người biết sâu xa về Thiên Chúa; nếu một người nói giỏi về Thiên Chúa mà họ lại sống không yêu thương, thì họ không phải là người biết Thiên Chúa thật.

Tập sống Lời Chúa

Sống Lời Chúa, không dễ. Sống giới răn yêu thương, không dễ. Đức Yêsu nói: “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau”. Không có dấu chỉ khác để nhận biết người môn đệ Đức Yêsu. Dấu chỉ duy nhất để nhận biết người môn đệ Đức Yêsu: “yêu thương”.

Yêu thương được biểu lộ qua nhiều khía cạnh của cuộc sống. Yêu thương bằng hành động: giúp đỡ; yêu thương bằng lời nói: dịu dàng, nâng đỡ, dứt khoát; yêu thương nơi tư tưởng: nghĩ đúng về người khác. Yêu thương được thể hiện bằng cả ánh mắt, bằng chính thái độ của cả con người. Tình yêu mạnh hơn sự chết, tình yêu có sức biến đổi con người. Tình yêu làm cuộc sống tươi hơn, đẹp hơn, vui hơn. Yêu thương làm cho người khác và làm cho chính mình triển nở và hạnh phúc hơn.

Tập yêu mỗi ngày. Thất bại là mẹ thành công. Mình muốn sống yêu thương, mà dường như con người của mình không muốn tuân theo điều mình muốn. Tình yêu không chỉ hệ tại nơi cảm tính, nhưng chính yếu nơi lý trí và ý chí; và từ đó con người thể xác của chúng ta sẽ được biến đổi. Tập nhìn, tập trả lời ngay cả khi mình không muốn; tập cười, tập lại gần khi mình không thích. Xin Chúa giúp mình, và ý thức: tự sức mình, mình không thể sống yêu thương như Chúa muốn được. Mình cần Chúa để sống yêu thương, để vượt qua chính mình, để thuộc về Chúa trong cuộc sống thường ngày.

Ai sống yêu thương, sẽ được thương yêu. Ai thấy mình không được thương yêu, hãy tự vấn xem mình đã yêu thương người khác chưa. Tập yêu, bằng cách tập chào hỏi trước, ngay cả chào hỏi người dưới mình trước. Tập cười khi họ chưa cười với mình.

Đức Yêsu- Đấng yêu thương

Đức Yêsu, Đấng đã yêu thương con người đến chết. Ngài mong rằng con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và đáp trả tình yêu. Ngay khi Ngài sống, tuy dù có những người ghét và tìm cách giết Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương và được nhiều người yêu mến. Cho đến hôm nay, Ngài vẫn là người được nhiều người yêu mến. Sở dĩ vậy, vì Ngài chỉ biết yêu thương mà thôi.

Ngài không đòi người ta kính trọng Ngài, Ngài không đòi người ta yêu mến Ngài, Ngài không đòi người ta phục vụ Ngài, nhưng Ngài yêu mến con người, phục vụ con người, tìm cách giúp đỡ con người, cả tinh thần lẫn vật chất. Những người nghèo, những người tội lỗi, những người bị xã hội coi thường và ruồng bỏ, thì Ngài tới với họ, để yêu thương và kính trọng họ.

Thiên Chúa là tình yêu. Đức Yêsu đã yêu thương như Thiên Chúa yêu thương.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có được nhiều người yêu thương không? Tại sao vậy?

2. Câu Lời Chúa nào quan trọng nhất đối với bạn? Tại sao?

3. Có người nói: đạo Công Giáo phải là đạo “tình yêu”. Bạn có đồng ý với người đó không? Tại sao?

 

49. Ai là người thân cận của tôi

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn An Khang)

"Ai là người thân cận của tôi?" Đó là câu hỏi của thầy thông luật đặt ra với Đức Giêsu. Để trả lời, Đức Giêsu đưa ra một câu chuyện, xảy ra trên đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô.

Giêrusalem là thủ đô nước Do thái từ thời vua Đavít, cao hơn mặt biển 700m. Giêrikhô là một trong những thành phố cổ nhất thế giới, có từ khoảng năm 8000 trước công nguyên, thấp hơn mặt biển 250m. Từ Giêrusalem xuống Giêrikhô chỉ có một đường duy nhất dài khoảng 23 km, đi qua núi Cây Dầu là sa mạc, ngoằn ngoèo bên những tảng đá lớn, thường là nơi ẩn núp của những băng cướp. Hiện nay, còn lưu lại một lá thư viết từ năm 171 sau công nguyên, phàn nàn với nhà cầm quyền địa phương về tình trạng tội ác xảy ra dọc theo con đường đó. Có nhiều chứng cứ lịch sử cho thấy, các du khách đã phải nộp tiền cho lũ côn đồ địa phương tổ chức trấn lột, để được an thân khi đi qua con đường đó. Vì thế, chính con đường tai tiếng đó, đã cung cấp cho Đức Giêsu bối cảnh thực tế, để người nêu lên dụ ngôn người Samaria nhân hậu.

Chuyện xảy ra: Có một người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Đức Giêsu không gán một nhãn mác tôn giáo hay xã hội nào cho người này, dầu có lý hiểu, đó là một người Dothái. Ông ta là người tốt hay xấu? Quan trọng hay không quan trọng? Những vấn đề đó không được nêu ra. Ông ta là một người bình thường. Tất cả chỉ có thế. Ông bị rơi vào tay bọn cướp, chúng lột sạch, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ có thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samaria đi qua. Đức Giêsu đặt cả ba vào trong một tình huống, phải chọn lựa một quyết định: Giúp hay không giúp người bị nạn kia, hoặc tiếp tục công việc riêng của mình? Họ không có lối thoát, cũng không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân cách này hay cách kia. Thầy tư tế và thầy lêvi quyết định bỏ qua mà đi. Còn người Samaria quyết định dừng lại, và giúp đỡ nạn nhân.

Thầy tư tế và thầy lêvi cho mình có lý không giúp nạn nhân, vì các thầy vừa thực hiện lễ nghi phụng tự trong đền thờ xong. Các thầy còn đang thanh sạch, trên đường đi xuống Giêrikhô trở về nhà (thành này là một trong các thành cho thầy tư tế và lêvi ở). Các thầy không thể để mình dơ, vì theo luật Maisen: "Ai chạm vào xác chết, vào máu, vào một người bị ám sát, sẽ mắc dơ trong bảy ngày" (Ds 19, 11-13). Để giữ mình thanh sạch, các thầy đã chọn giải pháp là không dây dưa vào nạn nhân. Tuy nhiên, các thầy đã không nhớ lời ngôn sứ Ôsê 6, 6: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn nghi lễ". Thiên Chúa không thích lễ lạy của các thầy, Người chờ đợi các thầy bên ngoài đường phố, lúc các thầy sẽ ra khỏi nơi tế lễ, các thầy sẽ gặp người thân cận. Hãy yêu thương! Phải, các thầy hãy yêu thương. Đó chính là sự thờ phượng thật.

Vả lại, xưa cũng như nay, tất cả những ai không giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, đều bị các tòa án kết tội. Thầy tư tế và lêvi mắc tội bỏ qua. Tội bỏ qua có thể là tội xấu xa nhất của con người, vì người ta cho rằng càng không dính dáng tới người khác, càng tốt cho mình. Thầy tư tế và lêvi là những người "vô can", khi đứng ngoài mà nhìn người khác gặp hoạn nạn. Việc đó đã nói lên tính cách của thầy tư tế và lêvi, họ là những người lấy mình là trung tâm, đã không mở lòng giúp đỡ người khác. Khi gặp vấn đề, họ đều đặt mình lên trước hết.

Người Samaria, trông thấy người bị nạn, ông cảm thông, thương xót và lập tức giúp đỡ người đó. Ông không lo ngại về điều phiền phức có thể xảy đến với bản thân. Ông cũng không lảng tránh, cho dù đó là một người Dothái. Thời đó, người Dothái và Samaria coi nhau như kẻ thù. Ở đây, ông chỉ thấy nạn nhân là một kẻ bất hạnh, một người như mình, nhưng lại không được như mình. Ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Ông đầy ắp tình người, đã săn sóc nạn nhân, sau đó đưa về quán trọ. Ông là người có nhân bản, đã trở thành người thân cận với nạn nhân.

Làm sao người Samaria có thể thực hiện được điều đó? Điều đó không thể đạt được trong ngày một ngày hai. Những việc lớn không thể hoàn thành được trong một tính cách bốc đồng, nó là kết quả của mỗi việc nhỏ liên kết với nhau. Phần thưởng đích thực cho một việc tốt, là nó tạo ra việc tốt tiếp theo dễ hơn, tốt hơn. Tính cách con người được tạo ra hay không, đều do mỗi hành vi nhỏ mọn thường ngày. Người Samaria có hành động nhân ái, tự phát đối với người bị nạn, rõ ràng lòng tốt của ông đã trở thành một thói quen, bản tính thứ hai của ông. Ông luôn luôn hướng về người khác, lấy người khác làm trung tâm.

Với câu hỏi thầy thông luật "Ai là người thân cận của tôi? Câu trả lời chung thời đó có lẽ là "người thân cận của ta là người thuộc bộ tộc của mình, hoặc thuộc nhóm giới của mình, hoặc cùng tôn giáo với mình". Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu lại là "người thân cận là bất kỳ người nào mà ta chọn để kết thân với họ. Vấn đề thật sự không phải là coi ai là thân cận của ta, nhưng là ta sẵn sàng đối xử như thân với ai?". Kết thúc cuộc đối thoại, Đức Giêsu bảo thầy thông luật: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy", nghĩa là như người Samaria.

Lạy Chúa, xin cho con phụng thờ Chúa trong đền thờ. Nhưng đừng quên phụng thờ Chúa trên đường phố nơi người anh em.

 

50. Tốt hơn là hãy tin!

Có hai người đàn ông đang chạy bộ ở ngoài bờ biển vào một buổi sáng. Họ bỗng ngừng lại bởi vì cả hai bắt gặp một cái đèn cổ đẹp đẽ bị chôn vùi trong cát một nửa. Một người đàn ông đã cấm lấy chiếc đèn và lau cho sạch cát. Bỗng dưng, từ trong chiếc đèn xuất hiện một ông thần. Ông thần nói, "Hai ông kia, các ông đã chà vào cái đèn thần này, tôi sẽ toại nguyện cho hai ông mỗi người một ước nguyện." Người đàn ông thứ nhất liền nói, "Tôi mong là người đàn ông thông minh nhất trên thế giới." Thần đáp, "Được, ước nguyện của ông sẽ được toại nguyện." Người đàn ông thứ hai nói, "Tôi mong là người thông minh hơn cả người thông minh nhất thế giới." Rồi thì người đàn ông thứ hai đã được hoá thành một người đàn bà.

Người ta thường nói, "Cuộc sống này đầy những điều ngạc nhiên." Hơn thế nữa, đó cũng là điều mà Phúc Âm thường nhắc đi nhắc lại: cuộc đời của Chúa Giêsu đầy những cái ngạc nhiên. Ngài đã xuất hiện trong một cái thế giới đang chờ đợi một Đấng Thiên Sai theo nghĩa chính trị để giải thoát và làm cho dân tộc được vinh dự. Tuy nhiên, khi Ngài xuất hiện thì Ngài đã nói với họ rằng Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu đau khổ, giết chết. Thật là một điều ngạc nhiên!

Ngài đã xuất hiện trong một thời đại mà con người đầy những triết lý trả thù: mắt đền mắt, răng đền răng... nhưng Ngài lại dạy rằng, hãy đưa luôn má bên kia, hãy đi với người ta thêm một dặm nữa, hãy yêu thương kẻ thù, hãy cầu nguyện cho họ. Thật là một điều ngạc nhiên!

Một thầy thông luật đến và hỏi Chúa Giêsu, "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đoạt được cuộc sống vĩnh cửu?" Chúa Giêsu trả lời ông bằng cách đặt câu hỏi, "Điều gì đã viết trong sách Luật?" "Ngươi hãy yêu thương Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn ngươi... và người thân cận như chính mình," thầy thông luật trả lời Ngài. "Anh trả lời đúng, hãy làm điều đó và anh sẽ được sống," Chúa Giêsu trả lời anh. Tuy nhiên, người thông luật muốn làm cho Chúa Giêsu bị quê trước đám đông nên anh hỏi tiếp, "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Chúa Giêsu trả lời anh bằng dụ ngôn người Samarita tốt lành...

Qua dụ ngôn đó, Chúa Giêsu muốn dạy cho thầy thông luật đó một bài học không nên hỏi câu, "Ai là người thân cận của tôi?" Ngược lại, phải hỏi rằng với ai mà tôi phải là người thân cận?" Câu trả lời là với những người đang cần đến tôi mà không kể chi đến thân phận của người đó cho dù là họ thấp kém hay là cao cả, cho dù họ thuộc về tôn giáo nào, cho dù là đến cả kẻ thù của ta nữa. Đọ là một điều ngạc nhiên!

Điều này làm cho nhiều người chúng ta không những phải ngạc nhiên nhưng còn giật mình nữa khi chúng ta phải đối diện với cuộc sống hiện tại.

Tôi phải hy sinh giúp cho kẻ thù của tôi, người mà tôi không ưa chút nào cả, người mà không có một chút gì gọi là biết điều cả? Thật là một điều không thể nào tin nổi!

Chúa Giêsu phán với chúng ta rằng: "Các con tốt hơn hết là hãy tin nếu các con muốn nhận biết ra được khả năng đầy đủ của các con. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn cảm nghiệm được sự sống hoàn hảo. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con chiếm được sự bình an trong tâm trí và tâm hồn. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn hưởng nếm được sự sống đời đời ở thế gian này."

Một cha xứ nọ ở nhà thờ Riverside Church tại thành phố New York kể một câu truyện như sau. Trong giáo xứ của ngài có một bà nọ rất ghét ngài. Bà ta đã đi kể tội ngài với nhiều người khác và lôi kéo họ vào hùa với bà.

Một ngày nọ, khi ngài phải đến nhà bà ấy. Ngài đã đi qua đi lại ở trước căn nhà của bà nhiều lần và mong rằng khi lên gõ cửa nhà bà thì bà sẽ không có ở nhà. Sau một hồi lấy hết can đảm, ngài đã đi lên và gõ cửa. Cho đến lần thứ ba cũng không có ai trả lời gì cả mà chỉ có một tiếng kêu nhẹ ở bên trong.

Sau đó, ngài đã quì xuống để nhìn qua lỗ khoá bởi vì ngài cho rằng hay là bà bị bệnh chăng. Ngạc nhiên thay, khi ngài nhìn qua lỗ khoá thì ngài nhìn thấy ánh mắt của bà kia. Người đàn bà đó nói, "Đây là lần đầu tiên chúng ta nhìn nhau trong khi chúng ta phải quỳ xuống."

Cách đây hai ngàn năm, đã có nhiều người không thèm nhìn thẳng vào con mắt của Chúa Giêsu, và cho tới bây giờ cũng thế, họ không thể nào chấp nhận được giáo huấn của Ngài. Họ nghĩ là họ thông minh hơn Ngài. Đó chính là tội nguyên tổ lại tái phạm lần thứ hai.

Sự thù ghét, khinh khi, phân biệt chủng tộc... là những cái không được tồn tại trong tâm hồn chúng ta. Hãy làm hoà, yêu thương, nhân hậu với những kẻ thân cận của mình để chúng ta có thể đón nhận ơn bình an trong tâm trí và tâm hồn như chính Chúa Giêsu đã dạy. Các bạn hãy tin điều đó.

 

home Mục lục Lưu trữ