Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1378512

BƯỚC ĐI THEO THẦY

HÃY THEO THẦY (*)-  Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”(Ga 21,19).

Những bài đọc hôm nay có thể hướng những suy tư chúng ta về vận mạng tương lai của Giáo Hội. Vận mạng tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc, là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người và trên sự dấn thân của mỗi người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng và thông truyền cho anh chị em những sự thật có sức mạnh cứu rỗi.

Bài đọc thứ nhất được trích từ sách Tông đồ Công vụ, cho chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ trên như thế nào. Các ngài dù bị những vị lãnh đạo tôn giáo đầy uy quyền ngăn cấm, không cho phép được lên tiếng làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật về Chúa, nhưng tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại, đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài bên hữu Người và làm cho Ngài trở thành thủ lãnh và là đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tùng phục Chúa. Chúng tôi và Chúa Thanh Thần cùng làm chứng”(CVTD 5,29-35).  Thật là can đảm! Khó tìm thấy những lời tuyên xưng rõ rệt, dứt khoát như thế!.

Vâng! Vận mạng tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên những thái độ can đảm như vậy. “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người”. Đây là một câu trả lời rõ ràng dứt khoát cho những hành động lạm dụng quyền hành của mình để xen vào việc của Chúa. Hoàn toàn không phải là một lời kêu gọi dân chúng nổi loạn, chống lại quyền bính chính trị lúc đó.

Và đây cũng là câu trả lời của một con người mà trước đó không lâu đã phạm những lỗi lầm thật nghiêm trọng. Chúng ta hãy nhớ lại bối cảnh lúc đó một chút.

Chỉ cách biến cố này không bao xa, vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh,  Phêrô đã yếu đuối, hèn nhát, như thế nào. Ba lần ông đã chối Thầy chí thánh của mình!

Giả như Chúa có loại trừ ông, thì hầu chắc mọi người sẽ nói rằng Người đã không còn sự lựa chọn nào khác. Phêrô là thủ lãnh của các tông đồ, vậy mà ông đã làm gương xấu cho người khác. Nếu Chúa có cất chức ông thì việc đó cũng chẳng có gì là lạ!

Nhưng Chúa Giêsu đã không làm thế, Người không loại trừ ông. Thậm chí Người không giáng chức ông. Và cũng chẳng có sự buộc tội nào. Sự phản bội của Giuđa là một việc có hoạch định trước, và được thực hiện với thái độ lạnh lùng, có đắn đo suy nghĩ. Còn hành động chối Thầy của Phêrô không hoạch định trước. Đây chỉ là hậu quả của sự yếu đuối hơn là ác tâm. Chúa Giêsu, Người thấu suốt mọi tâm hồn, đã biết điều này.

Và sáng hôm nay, sau buổi điểm tâm, Chúa Giêsu đã quay nhìn Phêrô và nói : “Này Simon con Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”

Thật là một câu hỏi kỳ lạ, khi hỏi: “Anh có mến Thầy không ?” Phải chăng Phêrô không còn yêu mến Thầy nữa. Và chúng ta nghe ông thưa lại:

– Lạy Thầy, Thầy biết con mến Thầy.

Ông đã thành thật nói lên những lời này. Đó là sự thật. Thật sự lúc nào ông cũng yêu mến Chúa. Chúa Giêsu còn biết Phêrô nhiều hơn chính ông biết về mình. Người biết ông lúc nào ông cũng đặt Người là số 1. Sự mạnh mẽ và yếu đuối có thể cùng hiện hữu nơi một con người. Và bây giờ Chúa mời gọi Phêrô tiến bước. Người yêu cầu ông phải công khai tuyên bố tình yêu của mình với Thầy, vì lẽ ông đã công khai chối Thầy.

Chúa Giêsu đã không ghi tội của Phêrô. Nhưng Người mời gọi ông chăn dắt đoàn chiên của Người, tức là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Đây là dịp để ông ăn năn hối lỗi. Đó là cách tốt nhất để chuộc tội. Sau này chính Phêrô đã viết: lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (I Pr 4,8).

Chắc Phêrô không bao giờ quên được biến cố ông đã chối Thầy Giêsu. Không biết biến cố ấy có ám ảnh ông theo cách mà mọi người thường bị ám ảnh bởi tội lỗi của họ hay không, nhưng chắc chắn là ông đã rút ra được một bài học lớn từ sự vấp ngã này. Ông biết ông đã không can đảm như ông nghĩ. Và ông cũng biết mặc dù ông đã chối Thầy, nhưng Thầy Giêsu vẫn yêu ông. Đó là tình yêu đưa Phêrô trở lại với cuộc sống. Đó là kinh nghiệm đáng kinh ngạc vì được yêu cả khi mình yếu đuối và tội lỗi. Yêu một người vì sự tốt đẹp của họ là lẽ thường tình. Nhưng yêu một người với cả những cái xấu của họ – đó mới thật phi thường. Điều đó cho biết ân sủng là như thế nào.

Phêrô đã can đảm đứng dậy sau lần vấp ngã. Kinh nghiệm đã giải thoát ông khỏi sự kiêu ngạo và sự tin tưởng mù quáng vào tài xoay sở của mình. Kinh nghiệm đó cũng có thể giúp ông hiểu được sự yếu đuối nơi người khác.

Phêrô đã trở nên tốt. Qua bài đọc của sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy ông đã đứng dậy trước công nghị và đã làm chứng cho Chúa Giêsu như thế nào. Ông là nguồn an ủi rất lớn và cũng là một tấm gương thật sáng ngời cho chúng ta.

Tháng 3 năm 1983, nhà thơ Nga – Irina Ratushinskaya, bị kết án 7 năm lao động khổ sai và 5 năm lưu đày. Tội của bà là – sáng tác những bài thơ mà chính quyền không chấp nhận. Trong tù, bà chịu đựng sự đánh đập, bị biệt giam trong điều kiện khí hậu lạnh cứng, rất khắc nghiệt.

Thân xác còn tệ hơn. Tim, gan, cật, đều có vấn đề. Hơn nữa bà còn bị viêm phế quản kinh niên. Dù phải sống trong điều kiện như vậy, bà vẫn tiếp tục viết, rồi chuyển những bài thơ được viết trên những mảnh giấy vụn ra bên ngoài qua những người gác ngục, những người lính và những khách đến thăm. Vào tháng 10 năm 1986 Bà được phóng thích.

Làm sao bà có thể sống được như thế? Thưa đó là niềm tin Kitô Giáo.

Niềm tin Kitô giáo đã quyết định sự sống còn của bà. Bà nói: 

– Khi bạn đang phiền muộn, hay trong cơn quẫn bách, dường như Chúa luôn luôn gần bên bạn hơn. Chúa bên tôi trong những ngày tôi ở trong tù, như cánh tay liền sát vai.

Một điều quan trọng khác nữa giúp cho sự tồn tại của Irina trong những ngày lao tù là mối tương quan tốt đẹp bền vững thật khó tin mà bà đã có với những nữ tù nhân. Gian nguy đã nối kết mọi người lại với nhau và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm với nhau.

Irina và những bạn bè của bà thường biểu tình tuyệt thực nếu một trong số họ bị ngược đãi. Bà nói:

– Tôi cảm thấy hạnh phúc khi tất cả chúng tôi vẫn còn sống. Trong thời gian tôi ở tù, một phần ba nam tù nhân trong trại đã chết. Tất cả phụ nữ đã từng ở trong trại giờ đây đều là các Kitô hữu. Trong số đó có người nay là nữ tu công giáo. Niềm tin cũng giúp cho đời sống tâm lý của tôi tránh khỏi bị huỷ hoại bởi lòng căm thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vô song của tinh thần con người để có hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Người trông mong chúng ta làm chứng cho Người trong thế giới hôm nay. Một số người trong chúng ta đã được kêu gọi đón nhận những đau khổ như những đau khổ mà các tông đồ hay những người như Irina và bạn bè của bà đã trải qua. Chúng ta có thể không phải đối diện với những việc tồi tệ và thái độ hết sức dửng dưng của người đương thời như thế, nhưng con đường làm chứng của chúng ta là con đường lúc nào cũng rộng mở thênh thang. Hãy sống như Chúa đã sống! Hãng làm như Chúa đã làm! Hãy đối xử với những người khác như là chính Chúa đối xử với họ! Bằng cách ấy chúng ta đang làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh đang sống giữa loài người. Amen.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ

Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.

Hành vi không bình thường

Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.

Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.

Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?

Cách hành xử của Đức Giêsu

Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.

“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.

Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.

Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.

Số phận và thái độ cần có của con người

Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.

“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

*1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!

*2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?

*3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?

home Mục lục Lưu trữ