Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 40

Tổng truy cập: 1378549

Cái tình của Chúa Giêsu

Cái tình của Chúa Giêsu - Lm. Thu Băng

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại những việc Chúa Giêsu đã làm cho người ta: như chữa cho bà mẹ vợ của ông Phêrô được khỏi cơn sốt. NgàI lại chữa lành nhiều bệnh nhân nào là kẻ què, kẻ mù, người điếc, người câm, kẻ xấu nết, và người chết được sống lại....

Tại sao người ta thích đến với Chúa Giêsu? Tại vì Chúa Giêsu người ta thấy có "cái tình", có niềm thương cảm đối với những người xấu số, sầu khổ. Có bài ca rằng: "Đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, đem tình thương (2) Chúa trời, đem niềm vui cứu đời cho mọi người và mọi nơi".

Trong con người Chúa Giêsu chất chứa đầy cái tình người. Ngài không ngồi yên được, mà phải đi đến với người ta để thi ân, để giúp đỡ. Ngài cũng còn truyền cho các môn đệ đi từng hai người một đến với họ để thi hành việc bác ái.

Ngày nay loài người còn cần đến tình thương không? Ai là người ban cái tình đó cho nhân loại? Phải chăng chỉ có các Linh Mục, Giám mục, Đức Thánh Cha? Phải chăng sứ mạng tông đồ rao truyền "cái tình của Chúa Giêsu" chỉ có giới tu sỹ? Các ngài đã và đang làm rồi.

Số báo Dân Chúa tháng 2 năm 1985, có đăng tin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ Nhị đã thể hiện tình thương của Chúa qua các cuộc viếng thăm có vụ: Ngày 5 tháng 12 năm 1984 ngài tiếp ông Antôn Magalhaes Martin 72 tuổi, người Ba Tây bị cùi lở loét suốt 52 năm, từ khi ông được 25 tuổi. Và cha Mario Gerlin Tuyên úy người cùi 10 năm. Ông cảm động vì lời khuyên của Ngài. Ông nhân danh người cùi thế giới cám ơn Đức Thánh Cha. Cha Gerlin tuyên bố: "Việc Đức Thánh Cha tiếp ông Martin là một phấn khích lờ lao cho 350.000 người cùi Ba Tây, và 20 triệu người cùi thế giới. Nghĩa cử đó xoá bỏ thành kiến sợ người cùi của nhiều người".

Cha Vincent làng thượng đi thăm một gia đình nghèo: Bà khóc lóc kể lể sự cơ cực xơ xác, rách rưới của gia đình. Bà xin giúp đỡ. Bà nói luôn miệng, thỉnh thoảng cha mới xen vào được một câu an ủi. Cuối cùng bà nói: "Con cám ơn cha đã giúp con". Cha ngạc nhiên vì chưa giúp bà được cái gì. Nhưng bà nói ngay: "Con cám ơn cha nhiều nhất vì cha thông cảm được sự đau khổ của gia đình con. Đã an ủi con chịu khó theo Chúa, nên con thấy vui khi nghèo".

Sứ mệnh của chúng ta ra sao? Chúng ta không đủ khả năng để chữa bệnh phần xác nhưng chữa bệnh tâm hồn, bằng lời cầu nghuyện, bằng tâm tình quảng đại hướng về người nghèo khổ. Thăm nom là phần thưởng lớn đối với người nghèo khổ. Khích lệ bệnh nhân, một lời an ủi tại nhà, tại bệnh viện. Nhiều khi chỉ nghe người ta bày tỏ cũng là đủ an ủi rồi. Hoặc gọi điện thoại khích lệ cũng là một lời thăm hỏi rất tốt.

Câu chuyện cảm động về "Nụ cười khích lệ" tôi muốn kể cho anh chị em nghe:

Trong vùng có một quân nhân xấu ai thấy cũng chế diễu, bửu môi, đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống đời cô đơn uồn tủi. Khi anh chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh:"Xin trao số tiền 10,000 đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của tôi không nhận được nụ cười nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô đơn".

Cũng một câu chuyện nữa về một "Lời nói thân tình".

Tại một góc hè phố, người hành khất bại tay, nằm co quắp mở miệng xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông. Người thì cho cách khinh bỉ. Một người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi chẳng tìm được gì, ông nói: "Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất ngờ tôi không có đồng xu nào trong túi mình cả". Người ăn xin trả lời: "Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng "Bác" thành thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng một người sang trọng bố thí cho tôi".

Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái tình" của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống. Xin Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu được niềm thương cảm khổ đau và ân tình của Chúa, để chúng con biết "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".

 

65. Một đời thương cảm

(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)

Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão. Đã có lúc khoẻ mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.

Tiếng kêu thương

Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt... Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra... tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.

Vị Thượng Tế biết thương cảm

Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.

Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục... (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế?

Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương

"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.

Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.

Lời nguyện của người được sai đi

Lạy Chúa,

Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh... điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.

Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.

Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ....

Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn....

Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con....

Lạy Chúa,

Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)

 

66. Hối lộ quan toà

Đối với Chúa Giêsu, sáng hôm đó quả thật là một ngày thật vất vả. Ngài đã giảng dậy trong hội đường với một quyền bính làm cho mọi người phải kinh ngạc. Trong khi Ngài giảng dậy thì bị gián đoạn bởi tiếng kêu cầu do một người bị quỷ ám. Chúa Giêsu đã làm cho dân chúng kinh ngạc khi Ngài chữa lành cho người đàn ông bị quỷ ám đó. Khi Ngài rời khỏi hội đường đến nhà ông Simon và Anrê. Ở đó Chúa Giêsu chữa lành cho mẹ vợ của ông Simon khỏi bịnh. Khi trời tối, dân chúng trong làng tuôn đến với Ngài để xin chữa bệnh về tâm thần cũng như thể lý. Mọi người đều nhìn xem và kêu lên rằng: "Ngài đã chữa lành nhiều người mắc bịnh nan giải và trừ được nhiều người bị quỷ ám."

Trong bài Phúc Âm hôm nay, khi trời vừa hừng đông, Chúa Gisêu đã thức dậy thật sớm, tìm một nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Ngài biết rằng trong ngày hôm nay Ngài sẽ vất vả vì nhiều sự đòi hỏi của dân chúng nơi ngài như đám đông dân chúng sẽ chen lấn Ngài khi Ngài vào trong làng. Ngài cũng biết cho dù Ngài ở đâu đi nữa, dân chúng sẽ kêu tên Ngài và xin cứu chữa cho họ. Và chắc chắn trong đó sẽ có những người Luật Sĩ và Pharisiêu sẽ thách thức về quyền giảng dậy của Ngài, đặt những câu hỏi và tìm mọi cách để làm cho danh tiếng của Ngài bị ô danh. Dĩ nhiên Ngài cũng biết rằng các môn đệ sẽ hiểu lầm về Ngài và muốn Ngài làm vài điều theo ý của họ. Chính vì những sự đó nên Chúa Giêsu cần có những giây phút để cầu nguyện.

Một nhà thơ ẩn danh đã làm một bài thơ như sau:

Tôi thức thật sớm và chạy ngay đến chỗ ẩu đả.

Với quá nhiều việc cần phải làm, tôi không có giờ để cầu nguyện.

Những khó khăn vây quanh tôi và tôi thấy thật nặng nề trong mọi công việc.

Tôi tự hỏi Chúa ở đâu sao không giúp con? Chúa trả lời, "Con không kêu cầu Ta."

Tôi cố tìm lối thoát nhưng tất cả đều đen tối.

Tôi hỏi Chúa tại sao, Ngài trả lời, "Con không tìm kiếm nơi Ta."

"Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp," đó chính là lời Chúa Giêsu đã tuyên bố trong bài giảng trên núi (Mt 7:7). Nhưng chúng ta có thể sai lầm khi tưởng tượng rằng Chúa Giêsu đã tán dương những lời cầu nguyện thầm thĩ của chúng ta. Ngay khi vào đầu bài giảng, Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta cảm thấy mâu thuẫn: Thầy bảo các con biết chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình lấy gì mà ăn, hay lo cho thân xác mình lấy gì mà mặc. Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu lẫm. Ngay cả Salômôn trong tất cả vinh quang của ông, cũng không trang phục được bằng chúng. Nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn mai mất mà còn được Chúa gần gủi huống chi con người, Ngài còn yêu thương chúng ta biết mấy. Hỡi những kẻ kém lòng tin, đừng lo lắng quá, hãy tìm Nước Chúa trước còn những điều khác Chúa sẽ ban cho các ngươi (Mt 6:25,28-31,33).

Hãy tìm Nước Chúa trước! Hãy tìm ý muốn của Chúa trước! Cầu nguyện không phải là để kéo Chúa tới những cảnh huống khó khăn của chúng ta, vì Chúa biết mọi sự sẽ xẩy đến cho chúng ta. Cầu nguyện cũng không phải là việc chúng ta nói với Chúa về những điều chúng ta muốn cho chúng ta, vì Ngài đã biết chúng ta cần những gì. Cầu nguyện chính là chúng ta vui lòng để cho Chúa thực hiện điều Chúa muốn nơi chúng ta như trong Thánh Vịnh đã viết: "Hãy bình thản và biết rằng Ta là Chúa" (Tv 46:10). Cầu nguyện là việc chúng ta lắng nghe tiếng Chúa nói trong thẩm cung lòng của chúng ta. Đừng xin những gì Chúa có thể làm cho chúng ta. Hãy xin, những gì chúng ta có thể làm cho Chúa. Đừng xin những gì Chúa có thể ban cho chúng ta, nhưng hãy xin cho chúng ta có thể cho Chúa được gì.

Nhà khoa học nổi tiếng Isaac Newton là một con người cầu nguyện. Ông ta nói rằng: Tôi có thể dùng kính thiên văn để nhìn không gian xa hằng triệu triệu cây số được. Và tôi cũng có thể bỏ nó vào một góc nhà để tôi quỳ xuống và cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng gần gũi tôi hơn những vật chất trần gian.

Là con người, chúng ta thường hay cầu nguyện khi chúng ta gặp phải những gian nan khốn khó xảy đến như: chiến tranh, tranh chấp trong đời sống hôn nhân. Và những lời cầu đó thường là xin cho được hoà bình, xin cho được sống thân mật với vợ con. Nhưng chúng ta không để ý đến điều chúng ta cần phải làm gì để cho chóng chấm dứt chiến tranh, hay làm cách nào để có thể thương vợ thương con.

Một người đàn ông bị đưa ra toà để xét xử về tội giết người. Ông ta đến vị thẩm phán và nói rằng: nếu ông có thể xét cho tôi vô tội, tôi sẽ đưa cho ông một số tiền thật lớn; và ông ta trao cho vị quan toà một gói tiền. Khi vụ xử án xong, vị quan toà đã kết tội bị can là kẻ giết người. Sau đó, ở ngoài phòng tòa, bị can đã hỏi vị phẩm phán rằng: "Ông có thấy khó khăn trong việc đó không?" Ông ta trả lời: "Có! vì khi bắt đầu ai cũng cho là vô tội."

Khi cầu nguyện, chúng ta thường hay hối lộ với Chúa, "Lạy Chúa, nếu Chúa ban cho con điều con xin, con sẽ làm điều gì Chúa muốn. Cho dù có điều gì xảy ra, cũng đừng thay đổi, nhưng hãy làm theo ý con muốn." Nhưng thật ra Chúa không bao giờ nhận sự hối lộ của chúng ta, vì mục đích của Chúa không bao giờ bị chúng ta đánh đổ.

Nếu chúng ta cảm nghiệm được rằng chúng ta đang thăng tiến trong cuộc lữ hành trần gian để về quê trời, thì chắc chắn rằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta phải được nuôi sống bằng chính việc cầu nguyện. Khi chúng ta nhận thấy sự cầu nguyện ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta, lúc đó chúng ta mới biết được Chúa là Thiên Chúa. Chúng ta sẽ luôn vững tâm và nghe được tiếng nói của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Chúa thường đến với chúng ta cách bất ngờ và chúng ta sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa trong tin tưởng, yêu thương và đầy hy vọng. "Hãy thi hành ý muốn Chúa muốn nơi chúng con. Không theo ý chúng ta, nhưng theo ý Ngài."

 

67. Phục vụ tha nhân

Chúa Giêsu vừa mới từ Hội Đường Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ của thầy đội (Mt 8, 5-13). Khi Chúa Giêsu ở Caphácnaum, Ngài không có nhà riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.

Có 3 loại sốt thường thấy ở Palestine. Một loại được gọi là Malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kỳ. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Gio-đan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là địa bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.

Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.

Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về 3 hạng người:

1. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ CHÚA GIÊSU:

Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông trong Hội Đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài. nhưng trên hết, tại đây cũng như trong Hội Đường. Chúng ta thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong Hội Đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và chữa bệnh được hoàn tất ngay.

Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô đang đau chứng bệng mà Kinh Talmud của người Do-thái gọi là "một cơn sốt thiêu đốt". Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này. ngưới ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2, 3 rồi đến câu 4, 5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong.

Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sĩ Paul Tournier có viết: "Bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm".

Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự nguyện, tự nhiên, vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.

2. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ MÔN ĐỆ CỦA NGÀI:

Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.

Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị Mục Sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị Mục Sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu.

Bác sĩ Tournier viết tiếp: "Về đến nhà tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ Mục Sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy".

Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của người Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.

3. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VÀI ĐIỀU VỀ BÀ NHẠC GIA CỦA PHÊRÔ:

Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khỏe hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử dụng ơn Chúa ban như thế nào?

Nhà văn Oscar Wilde viết tuyển tập "Chuyện Hay Nhất Thế Giới" trong đó, ông kể:

"Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phân sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi: "Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa?" Hắn đáp: "Thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn"? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: "Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?" Chàng đáp: "Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?" Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: "Lạy Chúa, tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?"

Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi Hồng Ân Chúa ban.

Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo Hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (1Pr 4, 10-11).

 

68. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Hiền

Chúa Giêsu Kitô, "trọn một ngày đời" vì mọi người và cho mọi người.

"Hôm ấy", (chúng ta có thể khẳng định đó là ngày sabbat), các tín đồ Do Thái giáo tập trung đến hội đường để nghe giảng sách Luật. Đó là dịp để Chúa Giêsu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Chúa Giêsu cũng đến hội đường để chu toàn bổn phận Do Thái giáo, và hơn thế nữa, để chính Thiên Chúa trực tiếp nói với loài người, Thiên Chúa trực tiếp giảng dạy loài người, dựa theo những gì Chúa đã nói trong Kinh Thánh. Như vậy từ sáng đến trưa, Chúa ở trong hội đường để giảng dạy kinh thánh, để giúp mọi người hiểu biết Kinh Thánh.

Chúa nhật, "hôm ấy" của Kitô giáo, mọi tín hữu đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nghe giảng Lời Chúa. Xin cho chúng ta hiểu Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và giúp anh chị em mình sống Lời Chúa.

Sứ vụ của Chúa Giêsu còn là cứu chuộc nhân loại: "Người lại gần, cầm tay bà mà đỡ dậy". Con người bị mất cuộc sống an nhàn, đời sống yêu thương và phục vụ (Bà mẹ vợ ông Phêrô lên cơn sốt, phải nằm giường). Chúa Giêsu đến gần ngay bên, cầm tay nâng đỡ dậy: Chúa có quyền năng khôi phục lại những gì thiện hảo mà loài người đã đánh mất. Chúa Giêsu có quyền năng Cứu chuộc. Bà lành bệnh và tiếp tục phục vụ anh chị em. Bà sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.

Chúa cứu chuộc không chỉ một người, mà nhiều người và mọi người ở mọi thời. Thật vậy, "Chiều đến, khi trời đã lặn", người ta mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám... Chúa chữa lành tất cả.

Ước gì tất cả mọi người đã được Chúa Giêsu cứu chuộc, những người đến vào buổi chiều, tất cả chúng ta nữa, sau khi lành bệnh, sau khi được cứu chuộc, cũng biết sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.

Chúa Giêsu đi đến nơi hoang vắng và cầu nguyện.

Chúa Giêsu rất quan tâm đến giờ cầu nguyện, ví như không thể thiếu trong đời sống của Chúa. Trước khi đi rao giảng: Chúa dùng 40 đêm ngày để cầu nguyện; trước khi chọn 12 Tông đồ: Chúa cầu nguyện thâu đêm; và ở đây, trước khi đi nơi khác: Chúa cũng cầu nguyện suốt đêm. Giờ cầu nguyện của Chúa, ví như việc tiếp thêm nhiều nhiên liệu cho chiếc xe khi phải đi xa, càng xa càng nhiều xăng dầu...

Xin cho chúng ta siêng năng và sốt sắng cầu nguyện: Trước sự việc càng khó, càng cầu nguyện nhiều; càng đương đầu với những tấn công của ma quỷ, chúng ta càng cầu nguyện nhiều hơn. Và trong đời thường cũng biết dành thời gian cầu nguyện: cầu nguyện như nguồn sức sống của chúng ta.

"Mọi người đang tìm Thầy!"

Các môn đệ bày tỏ cái nhu cầu của nhân loại: "Mọi người đang tìm Thầy". Nghe lời giảng dạy của Chúa, chứng kiến việc làm của Chúa, cùng sống chung với Chúa, các môn đệ nhận định: chỉ mình Chúa Giêsu, duy nhất chỉ có Thầy đây mới là Đấng Cứu chuộc nhân loại, không thể là ai khác. Và nếu mất Thầy, thiếu vắng Thầy, người ta không thể làm gì được.

Chúng ta cũng phải khám phá ra trong đời mình: Không thể thiếu vắng Chúa Giêsu. Xin cho mọi người đi tìm gặp Chúa Cứu Thế.

Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác"

Chúa Giêsu ý thức sứ vụ của mình "vì mọi người và cho mọi người". Chúa Cứu thế không phải chỉ cho những người môn đệ Chúa, ở Capharnaum,... Chúa còn phải đi đến những nơi khác, khắp nơi trên thế giới, ở mọi thời đại nữa. Chúa đi và dẫn các môn đệ cùng đi: "Chúng ta hãy đi nơi khác".

Chúng ta là Kitô-hữu, là môn đệ của Chúa, chính chúng ta phải là hiện thân của Chúa, phải nói những lời Chúa nói, phải làm những việc Chúa làm cho những người đang sống ở đây và trong ngày hôm nay.

 

home Mục lục Lưu trữ